|
Post by Robot on Mar 21, 2004 6:23:42 GMT -5
GIỮA RỪNG THẢO DƯỢC (VÂN LONG )
Buổi chiều mùa đông không nắng, không mưa. Cái sắc trời xám nhạt như làm nền cho câu chuyện, càng dễ gợi ra những kỷ niệm xa xưa của một đời người đã bước vào tuổi 80. Ngồi cạnh Giáo Sư - Tiến Sĩ. Đỗ Tất Lợi, nước da nâu vì nắng gió những tháng năm luồn rừng lội suối đi tìm cây thuốc chữa bệnh cứu người của bác cho tôi cảm giác như được ngồi dưới bóng một cây đại thụ. Vâng! Giáo sư là một cây đại thụ của ngành thảo dược.
Xuất thân từ một gia đình làm nghề nông ở làng Phù Xa, huyện Kim Anh, Phúc Yên, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, ngay từ nhỏ bác đã học được ở cụ thân sinh Đỗ Văn Kiêm lòng say mê trồng trọt, với đủ loại cây cỏ vườn nhà. Năm lên 6 bác bị ngã gẫy tay, bác được chữa khỏi nhờ cụ lang Lê Văn Sáp nổi tiếng chữa gẫy xương và nhiều bệnh khác chỉ bằng thuốc lá. Vậy là cây cỏ ở quanh ta còn ẩn chứa rất nhiều điều bí mật. Cho nên khi vào Đại học năm 1939 bác không chọn khoa luật để làm quan như nhiều thanh niên mong tiến thân ngày ấy. Cũng không chọn khoa y để làm "quan đốc tờ", bác chọn khoa dược. Người chọn ngành dược thật hiếm hoi! Năm 1944 bác tốt nghiệp, chỉ có 6 dược sĩ ra trường cho toàn cõi Đông Dương.
Ngày từ khi còn là sinh viên, bác đã tự tìm đến cụ lang Lê Văn Sáp, xin cụ cho đi thăm bệnh và đi sưu tầm cây thuốc. Nhờ đó, ngành dược của ta may mắn có người mở đầu công việc kết hợp khoa học thực nghiệm phương Tây với kinh nghiệm y học cổ truyền phương Đông. Bác là người phát ngôn sớm nhất quan niệm này trên báo Dân Thanh ngày 31/10/1946. Cho nên ngay lập tức có bài phản bác lại của nhà Đông y Lê Huy Phách. Chỉ sau đó hàng chục năm, ông này mới thấy ra sai lầm của mình và thân đến xin được học, được cùng nghiên cứu với dược sĩ Đỗ Tất Lợi.
|
|
|
Post by Robot on Mar 21, 2004 6:25:01 GMT -5
Những câu chuyện chữa bệnh kỳ lạ của y học cổ truyền thì nhiều, GS-TS. Đỗ Tất Lợi có thể kể ngày này sang ngày khác không hết. Riêng tôi, tôi nhớ nhất câu chuyện thú vị này:
Có một đơn vị bộ đội đóng ở Thủ Đức ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ăn phải nấm độc, cả đơn vị bị ngộ độc, bất tỉnh. Mấy bác sĩ trong vùng đều chịu không biết cách chữa. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đến thăm đơn vị đúng lúc ấy, ông vận dụng những kiến thức được học từ Trường Đại học Y ở Paris mà cũng không chữa được. Lúc đó bà nông dân chủ nhà (chưa biết chữ ) nói như đinh đóng cột: " Các chú không chữa được thì để tôi chữa cho". Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch hỏi bà định chữa cách nào. Bà bảo: "Miễn khỏi thì thôi, các chú không cần biết!" và bà đi ra sau nhà nhóm bếp rang một thứ gì đó, độ 15-20 phút bà trở ra rót từ chiếc bình tích lớn một thứ nước đổ vào miệng mỗi bệnh nhân một chén. Thật kỳ lạ chưa đầy 10 phút, cả đơn vị đều tỉnh lại và khỏe khoắn như chưa hề ăn phải nấm độc. Các bác sĩ gặng hỏi, bà chỉ mủm mỉm cười: "Tôi không nói, tôi nói ra thì các chú cho tôi... đi tù!". Rồi việc quân bận rộn, mọi người cứ yên trí bà giữ riêng cho mình bài thuốc cổ truyền. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch cũng yên trí như vậy suốt 20 năm.
Đến năm 1969, ông kể chuyện đó cho tôi nghe (lời GS.TS Đỗ Tất Lợi). Tôi trả lời ông Thạch:
- Thưa anh, thang thuốc đó sách thuốc cổ của ta có ghi:
- Anh thử dịch tôi xem!
Tôi liền dịch ra và đánh máy 5 trang đặc chữ đưa ông xem. Trong đó có hàng chục thang khác nhau dùng phân người để chữa bệnh. Bà nông dân hẳn đã dùng cách này. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch kinh ngạc liền chỉ định cho mấy dược sĩ nghiên cứu xem chất gì trong phân có thể chữa được bệnh. Hóa ra phân người thải ra potassium. Phân đem rang lên, trong tro của nó toàn potassium, pha vào nước uống có thể chữa những cơn choáng như trường hợp ngộ độc nấm kể trên. Sau đó BS. Phạm Ngọc Thạch cho điều chế thứ thuốc này, bởi bộ đội thời kháng chiến hay hái nấm ăn, không tinh sẽ ăn nhầm nấm độc. Vì chế từ thứ trong bụng người nên BS. Thạch đặt tên là Nhân trung 9 (NT 9). Có người trêu ông hoặc không ưa ông thì giải thích NT 9 là Ngọc Thạch 9 (!).
Ba bà nông dân (không biết chữ ) đã cứu cả đơn vị bộ đội trước mắt các bác sĩ Tây y thật đúng với một câu danh ngôn cổ: Thà được cứu sống một cách ngu ngốc còn hơn chết một cách thông minh.
|
|
|
Post by Robot on Mar 21, 2004 6:27:41 GMT -5
GS-TS. Đỗ Tất Lợi nói một câu giản dị ngắn gọn mà tóm lược cả cuộc đời hoạt động của ông: Nghiên cứu y học cổ truyền là tìm ra những điều mà y học hiện đại chưa biết.
GS-TS. Đỗ Tất Lợi có tới 120 công trình khoa học lớn nhỏ mà chỉ kể tên ra (không giải thích) đã choán hết độ dài của bài báo. Công trình đáng kể nhất gây tiếng vang ra ngoài đất nước là bộ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam dầy trên 1.200 trang khổ lớn, gồm 750 loài cây thuốc, vị thuốc thuộc 164 họ, 77 vị thuốc động vật, 20 vị thuốc khoáng vật. Bộ sách được tái bản nhiều lần, mỗi lần lại dầy thêm những chương mới. Ví dụ tái bản lần thứ 7, bổ sung một chương về phân người. Lần thứ 8 một chương về dùng nước bọt chữa bệnh v.v... Ngoài những tên khoa học, dược tính, nơi sinh trưởng của cây thuốc... còn có hình chụp mầu để độc giả bình thường có thể xác định không nhầm lẫn từng cây thuốc, lá thuốc.
Bàn về cây cỏ, Giáo sư nói một câu rất hay: Hoa không chỉ quan trọng với con mắt nhà thơ của các anh, với chúng tôi nó là chứng minh thư của cây. Vì nhiều thứ cây là hao hao giống nhau. Nhưng đến khi có hoa là xác định ngay được tên gọi.
Tôi thầm nghĩ: Cây cũng như các nhà thơ vậy, họ có thể giống nhau trong đời sống, nhưng đến khi ra hoa - thơ mà cũng giống nhau nữa thì không biết gọi họ là gì.
Nhân bàn về hoa, mùa xuân đem đến cho ta bao sắc màu kỳ diệu. Nhưng ta chỉ biết hưởng chúng ở vẻ đẹp bên ngoài, nếu ta còn biết được như GS-TS. Đỗ Tất Lợi giá trị chữa bệnh cứu người của chúng! Cây kim Ngân mới ra hoa màu trắng, rồi chuyển dần sang vàng, có lúc từng mảng trắng xen vàng (kim và ngân mà!) thành thảm hoa thật đẹp. Đó là vị thuốc mát chữa được cảm sốt, mẩn ngứa dị ứng. Hoa Mẫu Đơn là một thứ thuốc có tác dụng bổ máu. Cây Sâm Bố Chính ở Thanh Hóa có những bông hoa to đỏ rực. Hoặc cây trồng làm cảnh phổ biến ở nước ta là cây Trúc Đào. Giáo sư đã tìm cách chiết hoạt chất của cây này, qua nhiều lần thí nghiệm thất bại, cuối cùng ông đã chiết được chất neriolin là thuốc chữa bệnh tim đủ tiêu chuẩn cần thiết. GS. Đặng Văn Chung đã dùng thử trên lâm sàng có kết quả (Xem Neriolin một vị thuốc chữa bệnh lấy ở cây Trúc Đào có saün trong nước ta - Tập san Y học Việt Nam số Tháng 11/1955 và La neriolin et ses effets thérapeutiques (tiếng Pháp) cùng viết với Đặng Văn Chung và Trịnh Xuân Giáp. Semaine des hôpitaux Paris 1958).
Năm 1962, khi tập 1 của công trình này ra đời, cố Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch đã phát biểu quan điểm của mình một cách xác đáng về việc kết hợp Đông, Tây y: Chỉ có đem kiến thức thu hoạch từ cuộc cách mạng KHKT của thời đại để tìm hiểu y học cổ truyền của dân tộc ta, chúng ta mới nâng cao hiểu biết của mình cả về khoa học hiện đại lẫn y học dân tộc... Biết kết hợp chặt chẽ vốn mới và cũ về mọi mặt tổ chức, nghiên cứu, phòng bệnh chữa bệnh, đào tạo cán bộ và sản xuất thuốc men, chúng ta có một chân trời mới mở rộng trước mắt.
Trong bộ sách này, không những GS. Đỗ Tất Lợi ghi lại những vị thuốc mà khoa học hiện đại đã xác nhận là hiệu nghiệm dù cơ chế của chúng, ta chưa biết được rõ ràng. Người đọc sẽ gặp vô vàn những kinh nghiệm quý của dân gian, của nước ngoài, đồng thời được thông báo về những kết quả nghiên cứu mới nhất, từ bệnh trẻ em: Chốc đầu, đái dầm, tưa lưỡi... đến phụ nữ khô sữa, sa dạ con, ra thai sót nhau... dân gian đã chữa bằng gì, bằng cách nào, hiệu quả ra sao.
Ngay từ năm 1964, bộ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam đã được đánh giá cao ở nước ngoài, ông là người duy nhất được viện hóa dược học Lêningrad phong tặng học vị Tiến sĩ dược học mà không phải bảo vệ luận án, sau những ý kiến thẩm định của các nhà bác học của viện. Thí dụ GS. Gammecman nhận định: Trước đây, y học dân gian chỉ được truyền miệng từ thày sang trò, nay đã dược biến thành sách để khỏi mất đi những điều đã tích luỹ đươc từ hàng nghìn năm nay. Đó là công lao to lớn của Đỗ Tất Lợi không những đối với nhân dân Việt Nam mà cả đối với khoa học thế giới. Công lao thứ hai không kém phần to lớn là ông đã giải thích và đưa những dược liệu đó lên trình độ của khoa học hiên đại.
GS. Gammecman kết luận: Cho nên, phải đánh giá Đỗ Tất Lợi không phải là một nhà khoa học cỡ quốc gia mà là một nhà khoa học có tính chất thế giới, đặc biệt ở Liên Xô, nơi mà công trình của ông đượcvận dụng để chú ý tới nguồn cây cỏ vùng Viễn Đông.
GS. Đỗ Tất Lợi không đồng ý dùng khái niệm thuốc nam, thuốc bắc như ta đã dùng xưa nay (thuốc nam là thuốc mọc ở Việt Nam, thuốc bắc là nhập của Trung Quốc). Ranh giới nam, bắc chỉ là tương đối. Thí dụ người Nga gọi thuốc của Trung Quốc là thuốc nam( phía nam của họ ). Cây thuốc mọc ở vùng Vladivostoc mới là thuốc bắc. Do thiếu hiểu biết nên những cây dược liệu mọc ở Việt Nam (Lào Cai) như củ gấu tầu và hoàng liên (đáng phải gọi là thuốc nam), nhưng Lào Cai đã xuất sang Trung Quốc. Sau đó Hải Phòng lại nhập những vị ấy từ Trung Quốc gọi là thuốc bắc với cái tên Ô đầu và Bắc hoàng liên. Hoặc có một số cây thuốc bắc đã trồng được ở Việt Nam như sinh địa thục địa thì nay gọi là gì? Theo ông, chỉ nên gọi là thuốc bắc hay thuốc nam, khi được chế biến theo cách của Trung Quốc hay Việt Nam.
|
|
|
Post by Robot on Mar 21, 2004 6:29:06 GMT -5
Thưa bác, vấn đề truyền dạy lại kiến thức y học dân tộc và chữa bệnh theo phương pháp cổ truyền, bác có điều gì chưa hài lòng?
Hiện nay, các Trường Đại học y dược của ta chưa có bộ môn, có khoa này để truyền dạy. Học trò của tôi có thể đếm trên đầu ngón tay. Ở Đại học Dược Thành phố Hồ Chí Minh còn thỉnh thoảng mời tôi đến giảng ngoại khóa. Còn ngoài này thì không. Y học cổ truyền thời xưa y và dược là một. Danh y Lý Thời Trân là tác giả cuốn dược liệu lớn nhất thế giới, khi đi chữa bệnh lại là ông lang Tần Hồ. Còn tôi bây giờ đi chữa bệnh là sai luật vì không có giấy phép hành nghề. Trong khi đó, khi người nghiên cứu tự đi chữa bệnh, nhiều khi phát hiện được tác dụng mới của thuốc. Thí dụ, khi tôi dùng Ích mẫu, Ngải cứu chữa bệnh kinh nguyệt không đều thì tôi phát hiện ra đơn thuốc ấy làm hạ được huyết áp. Sau tôi thử dùng đơn ấy chỉ để hạ huyết áp thì kết qủa rất tốt. Chính BS. Phạm Ngọc Thạch thấy hiệu quả ấy, đã ra lệnh nghiên cứu, nghiên cứu chưa xong thì BS. Phạm Ngọc Thạch đã qua đời. Hai nữa về vấn đề quy chế, thầy thuốc Đông y không được bảo vệ như Bác sĩ Tây y. Trong những ca đặc biệt bệnh nhân phải làm giấy cam đoan để khỏi rầy rà đến bác sĩ khi không may bị tử vong. Với các thầy lang thì không được như thế !
-Thưa bác, ở tuổi 80, mà bác chưa thấy những dấu hiệu lão hoá. Vấn đề dưỡng sinh và tự chữa bệnh của bác ra sao?
- Tôi chỉ nhờ Tây y mỗi việc mổ mắt, phải dùng đơn thuốc Tây. Còn thì toàn dùng Đông y, không bao giờ uống kháng sinh, cảm sốt không bao giờ dùng aspirin. Chỉ cần thái nhỏ hành, hẹ, đập quả trứng gà rồi rót vào đó bát cháo loãng thật sôi, quấy đều cho vừa mắm muối là khỏi, nếu ăn sang bát thứ hai, thứ ba thì bớt lòng đỏ cho gan đỡ phải làm việc.
Giáo sư nhấn mạnh:
- Đặc biệt không để xảy ra stress. Khi có stress, tôi dùng cách thở bốn thì (kiểu thở của ông Nguyễn Khắc Viện) để chấm dứt giận dữ hoặc buồn phiền. Anh có biết tác dụng của cỗ hậu sự các cụ sắm saün đặt trong nhà không? Một cách chống stress đấy! Chết còn không sợ thì còn sợ cái gì ?
GS. Đỗ Tất Lợi kết thúc buổi trò chuyện với tôi bằng một hồi ức vui:
- Tôi còn học thôi miên ở nhà văn Phạm Cao Củng nữa đấy! Tôi học và có hiệu quả: Anh Cát Huy Dương (sau là Vụ trưởng vụ Tổ chức cán bộ Bộ Y tế ) ở trọ nhà tôi. Tôi thôi miên cho anh ngủ, đưa anh muối bảo đó là đường, thế mà anh thấy ngọt mới lạ! Phương Đông mình còn nhiều điều bí ẩn phải nghiên cứu lắm. Tôi học thôi miên cho biết, không đi sâu được, mỗi người mỗi nghề.
Suốt buổi chiều trò chuyện về cây cỏ với GS-TS. Đỗ Tất Lợi, tôi như vừa nhận được bài học lớn. Cây cỏ hoa lá không chỉ tồn tại cho giới nhà thơ chúng tôi bình vịnh ngâm ngợi, chúng tồn tại vì sức khỏe con người. Thế mà con người đang tìm mọi cách lấn át, thu hẹp phạm vi sinh trưởng của chúng. Diện tích rừng của bao loài thảo dược đang bị hủy hoại, và chúng ta cũng đang gánh chịu sự trả đòn của thiên nhiên, không chỉ bằng những cơn lũ lụt.
|
|