|
Post by Robot on Mar 22, 2004 12:15:38 GMT -5
Chữa bệnh bằng dưa hấu Dưa hấu có nhiều tên, như: tây qua, hàn qua, hạ qua... Vị ngọt, tính hàn, có tác dụng tả nhiệt, bổ dưỡng. Trong thành phần dinh dưỡng của dưa hấu có nhiều chất cần thiết cho cơ thể, như: glucose, axít min, axít hữu cơ, các vitamin và khoáng chất. Ngoài ra, còn có protein và mỡ. Ăn dưa hấu có lợi cho tiêu hóa, lợi tiểu, khai vị, thúc đẩy sự trao đổi chất. Trong các nghiên cứu cho thấy nước trong quả dưa hấu vào cơ thể có tác dụng tốt, đào thải các chất cặn bã, làm sạch niệu đạo, thận, kích thích tế bào tăng trưởng, làm loãng niêm dịch của đường hô hấp, ngăn cản lão hóa, có tác dụng chuyển protein hòa tan. Dưa hấu còn có tác dụng phụ trợ trị liệu cho bệnh nhân cao huyết áp, viêm thận, phù thũng, viêm gan, tác dụng tiêu viêm, chống hoạt huyết. Tất cả các thành phần của dưa hấu đều có thể dùng làm thuốc. Say rượu, cảm sốt, môi khô miệng rát, ra chiều mồ hôi, nếu uống một ly nước dưa hấu sẽ giúp tinh thần đỡ mệt mỏi, nhẹ người, sảng khoái hơn. Uống nước dưa hấu hằng ngày giúp chữa trị các chứng bệnh phù thũng, cổ chướng, bỏng, vết thương chảy máu, đau lưng cấp, kinh nguyệt quá nhiều... Ruột dưa hấu bỏ hạt cô thành cao uống 2 thìa/ngày với nước ấm chữa co giật. Vỏ dưa hấu khô tán bột, cho thêm chút muối, mỗi ngày uống 9 - 15 g một lần, uống ngày 2 lần với rượu trắng chữa đau lưng cấp. Hạt dưa hấu sấy khô, 10 g, tán vụn hòa với nước đường đỏ uống mỗi ngày 2 lần chữa kinh nguyệt nhiều. Ngoài ra, cũng có thể ép lấy nước dưa hấu thoa lên mặt và cổ khoảng 15 phút, sau đó rửa sạch bằng nước ấm để chữa các bệnh ngoài da hoặc mụn. Lưu ý, những người tính hư hàn không nên dùng. T.T.Tr
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:16:08 GMT -5
Hoa Nhài Tên khoa học: Jasmin Sambac, Ait. Thuộc họ: Nhài (Oleaceae). Tên khác: Cây lài, nhài đơn, mạt lợi. Cây nhài có nguồn gốc từ: Ấn Độ. Hiện được trồng khắp nơi trong nước và tỉnh ta để dùng hoa ướp chè. - Mô tả: Cây hoa nhài là loại cây bụi, nhỏ nhiều cành xòe ra. cành non có lông mềm. Hoa tự mọc ở đầu cành có ít hoa, hoa sắc trắng có mùi thơm. Quả màu đen có hai ngăn hình cầu, quanh có đài phủ lên. - Bộ phận dùng: Hoa, rễ. - Thành phần hóa học: Trong hoa có chất béo thơm chừng 0,08%. - Công dụng, liều dùng: hoa dùng rửa mắt, chữa viêm màng khóe mắt và màng mộng. Liều dùng 2-4 g hoa khô. Rễ độc nhưng có thể dùng giảm đau. DS. NGUYỄN THỌ BIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:19:21 GMT -5
Cây ĐạiTên khoa học: Plumeria obtusifolia, L.(P. acutifolia Poir, P. acuminata Ait). Thuộc họ: Trúc đào (Apocynaceae). Tên khác: Bông sứ, hoa sứ trắng, hoa sứ đỏ, hoa chăm pa ( Lào), miến chi tử. Cây đại có nguồn gốc Mê-hi-cô (châu Mỹ ) được trồng làm cảnh quan đền chùa, công viên. Trong nước ta, tỉnh ta nhiều nơi trồng. - Mô tả: Cây nhỏ, cao khoảng 3-5m, cành nhánh dài, cong queo, xù xì, mập. Vỏ màu trắng xám xốp. Lá mọc so le, xếp sát nhau thành vòng ở ngọn cành. Hoa màu trắng, phía trung tâm có màu vàng, quả đại hình trụ. - Bộ phận dùng: Quả, hoa, lá, nhựa. - Thành phần hóa học: Trong vỏ thân có glucozit là agoniadin C10H14O5 có chất kháng sinh (funvoplumierin), trong nhựa cây có acid plumeric (C10H10O5) từ rễ, lá có chất đắng là plumieric. Hoa có tinh dầu mùi thơm mát. - Công dụng, liều dùng: Vỏ thân và vỏ rễ có tác dụng tẩy mạnh, dùng trong trường hợp bị bệnh thủng nước. Liều dùng 5-10g vỏ. Hoa đại dùng làm thuốc chữa ho, hạ huyết áp liều dùng 6-12 g dưới dạng thuốc sắc. Nhựa dùng như vỏ thân, còn dùng chữa chai chân và vết loét. DS. NGUYỄN THỌ BIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:22:25 GMT -5
Cây dừa cạnTên khoa học: Catharanthus roseus, L. Thuộc họ: Trúc đào (Apocynaceae). Tên khác: Hải đằng, bỏng dứa, trường xuân hoa, dương giác. Cây mọc hoang, được trồng làm cảnh tại vườn hoa, nhà riêng nhiều nơi trong tỉnh. - Mô tả: Cây nhỏ cao chừng 0,40 - 0,80 m, mọc thành bụi dứa, lá mọc đối, dạng bầu dục thuôn hẹp ở gốc, có cuống ngắn. Hoa trắng hoặc hồng, mọc riêng ở các kẽ lá phía trên. Quả gồm 2 đại, nhiều hạt đen nhỏ. - Bộ phận dùng: Toàn thân. - Thành phần hóa học: Trong dừa cạn có những alcaloid hạ huyết áp như những alcaloid trong cây ba gạc ẦN ?Ộ (Rouwolfia serpentina). - Công dụng và liều dùng: Cây dừa cạn đang được nghiên cứu chữa bệnh cao huyết áp và bệnh bạch huyết. Nhân dân dùng lá phơi khô sắc uống để thông tiểu tiện, chữa bệnh đi tiểu đỏ, ít và làm thuốc điều hoà kinh nguyệt, chữa lỵ. Ở Nam Phi còn dùng chữa bệnh đái đường. DS. NGUYỄN THỌ BIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:26:13 GMT -5
Phù dung Tên khoa học: Hibisous mutabilis L. Thuộc họ: Bông (Malvaceae). Tên khác: Mộc liên, địa phù dung. Cây phù dung được trồng từ các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... ở nước ta, tỉnh ta cây được trồng làm cảnh nhiều nơi. - Mô tả: Loại cây cao khoảng 5m, có cành mang lóng ngắn. Lá 5 cánh, phía cuống lá hình kim. Hoa lúc mơí nở trắng hoặc đỏ nhạt, sau đổi dần ra màu đỏ sẫm. Quả hình tròn. Hạt có lông. - Bộ phận dùng: Hoa, lá - Thành phần hóa học: Trong hoa phù dung có anthoxyanozit, lá có chất nhầy. - Công dụng, liều dùng: Lá tươi và hoa tươi được dùng giã đắp mụn nhọt đang mưng mủ và làm đỡ đau. Hoa còn dùng thông kinh hoạt huyết chữa phụ nữ khí hư, bạch đới. DS. NGUYỄN THỌ BIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:29:17 GMT -5
Cây mào gàTên khoa học: Celosia cristata L. Thuộc họ: Dền (Amaranthaceae). Tên khác: Kê quan hoa, kê đầu Cây mào gà được trồng nhiều nơi. -Mô tả: Loại cỏ sống lâu năm, thẳng đứng cao từ 60-90cm hoặc hơn. Thân cây gần ngọn thì dẹp, lá có cuống hình mũi mác. Hoa đỏ vàng hoặc trắng hình như mào gà. Quả hình trứng hay hình cầu. - Bộ phận dùng: Hạt, hoa. - Thành phần hóa học: Hạt có chất dầu, trong dầu chủ yếu là celosiaol. - Công dụng, liều dùng: Hoa và hạt làm thuốc thu liễm. Có công dụng cầm huyết, chứa nốt trĩ ra huyết, thổ huyết, đỗ máu cam, lỵ ra máu. Liều dùng: Hoa mào gà đỏ khô 10g (tươi 25-30g) sấy khô tán nhỏ dùng trong ngày. Mỗi lần uống 1-2g. DS. NGUYỄN THỌ BIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:32:33 GMT -5
Hoa tầm xuânTên khoa học: Rosa multiflora Thumb. Thuộc họ: Hoa hồng (Rosaceae). Tên khác: Dã tường vi Cây hoa tầm xuân mọc hoang và được trồng ở vườn hoa, bờ rào. - Mô tả: Loài cây rậm nhỏ. Cao độ 2m. Cành nhiều gai, lá hình lông cánh chim. Hoa 5 cánh sắc đỏ hoặc trắng, có mùi thơm. Quả gầy. - Bộ phận dùng: Hoa, quả - Thành phần hóa học: Quả có chất keo, nhiều sinh tố C.P. Hoa có tinh dầu thơm. - Công dụng, liều dùng: Hạt dùng chữa phong thấp, lợi tiểu, ngày dùng 2-4g. Hoa chế lấy tinh dầu thơm. DS. NGUYỄN THỌ BIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:35:02 GMT -5
Kim Ngân Tên khoa học: Lonicera japonica Thumb. Thuộc họ: Cơm cháy (Caprifoliaceae). Tên khác: Nhẫn đồng. Cây kim ngân mọc hoang tại nhiều vùng rừng núi nước ta. Hiện nay đã được trồng lấy hoa và cành lá làm thuốc. Ở Đà Lạt có trồng. - Mô tả: Kim ngân là loại dây leo quanh, thân có thể vươn dài đến 10m. Toàn cây có lông mềm. Lá mọc đối. Đôi khi mọc vòng 3 lá một. Nách lá nở hoa rất thơm, hoa mới nở trắng rồi đến tía, sau biến ra vàng, cho nên gọi là kim ngân hoa. Quả tròn sắc đen. - Bộ phận dùng: Hoa (kim ngân hoa), lá và dây (nhẫn đông dang). - Thành phần hoá học: Trong kim ngân có chất inosite, lutéolin và chất chát, saponozit. - Công dụng,liều dùng: Hoa kim ngân có tác dụng kháng sinh, được dùng chữa mụn nhọt, lên đậu, lên sởi, giải độc. Dây kim ngân chuyên chữa ung nhọt, lở ghẻ. Ngày dùng: 4-6g hoa hoặc 10-12g cành lá dây dưới dạng thuốc sắc. DS. NGUYỄN THỌ BIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:38:07 GMT -5
Hoa HiênTên khoa học: Hemerocallis Fulva L. Thuộc họ: Hoa hiên (Hemerocallidaceae) Tên khác: Hoàng hoa, kim trâm thái, lê lô, huyên thảo, lộc thông, kim châm. Hoa hiên mọc hoang tại Trung Quốc, Nhật Bản. Ở nước ta, hoa hiên mọc hoang và được trồng nhiều nơi Đà lạt, Đức Trọng, Di Linh... đều có. - Mô tả: Loại thảo lâu năm, lá dài độ 50cm, trên mặt có nhiều mạch, thân rễ ngắn, có rễ mầm nhưng nhỏ. Cuống hoa dài 80 -100cm, đầu cuống chẻ hai có 6-12 hoa. Hoa sắc đỏ hoặc đỏ vàng không thơm. - Bộ phận dùng: Củ và lá, hoa. - Thành phần hóa học: Đã chiết được từ rễ hoa hiên 3 chất có tinh thể độ chảy 165-167oC . - Công dụng, liều dùng: Hoa hiên có vị ngọt, tính mát, thường dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa sốt, đỗ máu cam. Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc. Lá, rễ giã đắp trị sưng vú. DS. NGUYỄN THỌ BIÊN
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:46:52 GMT -5
Bồ Công Anh vị thuốc quýLương y Lê Thái Hòa Nước ta nơi nào cũng có cây Bồ công anh, thường mọc hoang ở các vườn, đất hoang và sinh trưởng vào mùa xuân, còn có tên là cây mũi mác, cây rau diếp dại. Tên khoa học: Lactura indica L. Bồ công anh thuộc loài rau diếp, có bốn giống: * Một giống cây lá nhỏ và dài, thân cây thấp, lá mọc lan trên mặt đất như là rau diếp đắng. Vào tháng hai, ba, ở giữa cây trổ lên một cái nõn thẳng, trên có hoa như hoa cúc vàng, bẻ ra có sữa trắng. * Một giống thân cao, trên ngọn có nhiều lá áp vào thân, lá nhỏ và dài có nhiều sữa trắng, trên nõn có nhiều hoa sắc vàng, ở trong có nhiều tua. * Một giống thân và lá cũng như thế nhưng sắc tím. * Một giống nữa lan trên đất; lá mặt trên sắc xanh, mặt dưới tím, tục gọi là tử hoa địa đinh, hoa cây này cũng tím. Tất cả các giống kể trên đều có tính bình, không độc, khí lạnh, vị đắng hơi ngọt, mùi thơm nồng. Tháng 4, tháng 5 thu hái về rửa sạch phơi trong dâm cho khô (gọi là phơi âm can). Thứ nào lá nhỏ và dài, thân và cành sắc tím là tốt nhất. Bồ công anh có công dụng: giải nhiệt độc và trễ khí (khí), chữa nhọt vú sưng có hạch, làm cho tiêu hẳn đi, thanh huyết và thêm sữa, bổ dạ dày, lợi tiểu tiện, chữa thủy thủng. Trong tài liệu Trung y, một số sách đã nói rõ thêm về tác dụng mới tìm thấy của Bồ công anh: Sách Bản thảo Đỗ Kinh, Tô Tụng nói: nếu đi chân đất (tức không mang giày) dẫm phải nước tiểu con báo, con cáo, nhiễm độc phát sinh nhọt hoặc lở loét bàn chân, dùng mủ trắng cây Bồ công anh bôi vào là khỏi. Đời Nguyên, sách Bản thảo diễn nghĩa Chu Đan Khê nói: Bồ công anh giải được ngộ độc, tán trệ khí, hóa nhiệt độc, tiêu ác thụng và nhọt hạch, đinh sưng. Đời Thanh, sách Bản thảo Cầu Châu Hoàng Cung Tú nói: Bồ công anh chữa nhũ ung, thông lợi tiểu tiện, còn dùng lá tươi giã nhỏ, trộn muối trắng (cứ 100g là Bồ công anh, 20g muối) ngâm qua một đêm, vắt qua vải màn xô sạch, lấy nước cốt ấy cho vào lọ, nút kín, ngậm hàng ngày chữa đau răng, sưng chân lợi răng, liên tục trong 7 ngày sẽ khỏi đau nhức và làm chặt chân răng. Sách cổ ấy còn chỉ rõ đầu vú phụ nữ (nhũ đấu) thuộc can (gan), vú (nhũ phòng) thuộc vị (dạ dày), chứng nhũ ung, nhũ nham vì nóng quá, huyết trễ lại, dùng Bồ công anh tươi giã nhỏ đặt vào cho tan khỏi sưng, bên trong hợp với các vị khác sắc uống như sau: - Bồ công anh 200g - Hạ khô thảo 200g - Thổ bối mẫu 100g - Liên kiều 100g - Bạch chỉ 50g Tất cả nấu với 5 bát nước lấy còn 1 bát, và nấu liền 3 lần như thế, lấy 3 lần 1 bát là 3 bát nước đã sắc đổ bã, cho cả 3 nước vào cô lại lấy 1 bát rưỡi lắng bỏ cặn, đổ thêm vào 2 chén con rượu trắng (chén dùng uống nước trà) cho vào chai nút kín, chia làm 3 lần uống trước khi ăn, bệnh sẽ chóng khỏi. Tài liệu của Cầu Châu Hoàng Cung Tú còn nói: Hoa Bồ công anh sắc vàng, thuộc thổ, chữa độc khí và ăn phải chất linh tinh không tiêu, uống hoa làm đen râu tóc vì chất của hoa dẫn vào thận. Vương Sĩ Hùng nói: cây non làm rau ăn, cây già làm thuốc. Bồ công anh là một cây quý.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:47:42 GMT -5
Ứng dụng ở các nướcTrong tài liệu này của Trung Quốc, giới thiệu thêm Bồ công anh đã được ứng dụng ở các nước như sau: Người Nhật nói: Thầy thuốc Tàu thường dùng rễ Bồ công anh chữa chứng hoàng đản và chữa đau dạ dày. Một bác sĩ người Anh tên Duncan đã dùng chữa ung thư vú có kết quả. Bác sĩ người Pháp Aubergier cũng dùng chữa như trên đều có kết quả tốt. Sữa trắng của Bồ công anh được đặt tên là Lactucarium, khi chảy ra sắc trắng, sau đặc lại biến thành màu đen, không dính, mùi thơm như mùi thuốc phiện, lúc rắn lại rồi dễ bẻ gãy. Mủ Bồ công anh này, gọi là sữa trắng Lactucarium, hòa thêm thuốc phiện với tỷ lệ 5% làm thuốc chữa ho rất hiệu nghiệm. Ông Dunccan và Bidault ở Paris đã khuyên các bạn đồng nghiệp nên dùng mủ Bồ công anh thay chất nha phiến. Y. Clément nói: ? Rễ nó có chất thông tiểu tiện nên dùng chữa chứng lậu, chữa phong thấp?. Lá Bồ công anh có nhiều chất quý, phụ nữ đau sưng vú, lúc đầu nên dùng lá luộc ăn, hoặc ăn sống, ăn nhiều khỏi sưng đau. Lá còn làm chất tư nhuận nên chữa táo bón công hiệu. Ngọn non cũng dùng làm thuốc, sắc uống dễ ngủ và chữa bệnh đau đầu, mỗi ngày dùng từ 100 - 200g dưới dạng sắc từ 2 đến 3 lần. Người ta còn dùng làm thuốc an thhần, bớt suy nghĩ, làm lành bệnh nấc, bệnh ợ, bằng cách dùng lá tươi hay khô sắc uống như trên. Xin giới thiệu bài viết của bác sĩ J. Bael trong báo Guériir (Chữa bệnh) nói đến cây Bồ công anh như sau: ?Người xưa liệt nó vào cây lợi tiểu tiện và có khí hàn, P. J. Baptiste Chomel dùng rễ để điều hòa tiểu tiện, chữa sốt rét, đau bụng, bệnh ho, chữa phong thấp, sắc nước hòa với sữa tỷ lệ bằng nhau (sữa một phần, thuốc một phần), gia thêm ít đường cát, uống ngày hai lần , sáng và chiều. - Dùng lá Bồ công anh nấu lẫn với rau muống chữa bệnh lỵ, tỷ lệ bằng nhau (cứ 100g lá Bồ công anh thì 100g rau muống), nấu với 2 bát nước, cô lấy còn lại 1 bát, chia 2 lần uống như trên. - Dùng rễ Bồ công anh nấu với rượu vang chữa bệnh đau phổi và chữa sốt rét. Tỷ lệ: 300g lá Bồ công anh nấu với 500ml rượu vang, lấy còn 200ml, chia uống làm 3 lần trước khi ăn trong ngày, và cứ 2 ngày lại nấu và uống như thế, liên tục từ 3 - 5 lần. Ông Ethmutler cũng nói nó có công dụng chữa sốt rét rất hay. Garidel đã thí nghiệm nhiều lần, và kết luuận rằng: Những người bị sốt rét, mình mẩy khô ráo rất nên dùng, vì dùng nó hợp hơn quinine. Trong tài liệu Trung y có nói thêm rằng: Rễ Bồ công anh phân chất, có chất nhân sâm, chất của Long đởm và mủ nó ngào thành cao uống thay cà phê, hoặc dùng sắc tán thành bột trộn lẫn với bột cà phê làm thuốc lợi tiểu, thanh huyết, giải nhiệt và tiêu đinh nhọt. Mỗi ngày dùng từ 2 đến 3 lần, mỗi lần 20g pha với nước sôi có thêm đường cát vừa độ ngọt đễ uống. Ông Trương Sơn Lôi, danh y Trung Quốc đời xưa nói: ? Cành và lá Bồ công anh có nhiều mủ trắng, nên tục thường gọi là Dương mai thảo (cỏ sữa dê) dùng chữa các chứng nhiệt độc phát ra đinh, nhọt, ngứa lở hoặc uống bằng cách sắc như cách dùng kể trên, hoặc giã nhỏ, vắt lấy nước cốt thấm vải buộc vào chỗ đau là khỏi (phải tẫm nước cốt Bồ công anh, buộc đồ làm nhiều lần) nhất là nhọt ở vú, sưng đỏ chữa rất hay, thứ tươi giã vắt lấy nước, thứ khô sắc uống, chỉ dùng độc vị Bồ công anh cũng khỏi?. Ông Chu Chấn Hanh, danh y Trung Quốc đã nói: ?Bồ công anh hợp với kim ngân hoa, lượng hai thứ bằng nhau (từ 100 - 200g) sắc với 5 bát nước lạnh, lấy còn 2 bát thuốc đã sắc, chế vào nửa bát rượu trắng, uống làm 3 lần trong ngày trước khi ăn, chữa vú sưng đau. Hễ uống , ăn xong, muốn ngủ tức là thuốc chuyển, ngủ một giấc thức dậy hơi có dâm dấp mồ hôi là bệnh khỏi?. Xưa Việt Vương truyền lại bài thuốc Hoàn Thiếu đơn làm thuốc bền răng, cứng gân cốt, người già uống râu tóc sẽ đen, uống bài thuốc này luôn khỏe mạnh. Bài thuốc như sau: - Bồ công anh (vừa lá, rễ, rữa sạch phơi khô) 1kg. - Muối trắng 50g. - Hương phụ (củ gấu khô) 100g. Cách chế: Hai vị hương phụ và muối Bồ công anh, ướp ủ một đêm, chia làm 20 phần vắt bớt nước, lấy giấy bản gói ba, bốn lớp, ngoài dùng đất bọc kín, cho vào bếp nướng bao giờ đỏ đất thì lấy ra để nguội, gỡ đất bọc ngoài, mang thuốc tán nhỏ, mịn, mỗi ngày sáng dậy và tối trước khi ngủ xát thuốc bột vào răng từ 5 ? 15 phút nhổ ra hoặc nuốt vào tùy ý, làm như thế hàng tháng thấy rất hiệu nghiệm.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 13:52:30 GMT -5
Công dụng chữa bệnh của tía tô
Khi bị vết thương chảy máu, bạn có thể lấy lá tía tô non tán nhỏ, đắp trùm lên chỗ máu đang chảy, rắc cho vừa kín rồi buộc lại. Làm như vậy, vết thương sẽ cầm máu, không gây mủ và không để lại vết sẹo khi lành.
Ngoài tác dụng chữa vết thương chảy máu, tía tô còn có các công dụng sau:
- Chữa cảm lạnh: Lấy vỏ một quả quýt cạo rửa sạch cùng 3 lát gừng dày và một nắm lá tía tô tươi hoặc khô cho vào nồi, thêm vào một bát nước, đun sôi kỹ, uống nóng và đắp chăn ấm.
Bạn cũng có thể lấy một nắm lá tía tô tươi, 2 củ hành và 3 lát gừng, tất cả thái nhỏ cho vào bát, đập một quả trứng gà rồi múc cháo hoa vào trộn đều ăn nóng, bệnh cảm sẽ hết.
- Chữa đau bụng, đầy chướng: Giã lá tía tô lấy một bát nước, hòa một chút muối cho uống một lần.
- Chữa ăn phải cua độc: Trong trường hợp này bệnh nhân thường bị đau bụng, nôn mửa hoặc sưng phù, nổi ngứa. Lấy tía tô giã nhỏ vắt lấy nước cho bệnh nhân uống.
- Chữa ho, tức thở: Lấy cành lá tía tô và đoạn vỏ rễ cây dâu bóc trắng đun lấy độ 1 chén nước cho uống.
- Chữa các chứng chảy máu do ho, nôn, tiêu chảy: Lấy nhiều lá tía tô cho vào nồi đun gạn bỏ bã, cô đặc thành cao. Lấy một ít đậu đỏ rang vàng, tán nhỏ trộn với cao trên rồi viên thành từng hạt nhỏ để uống, mỗi lần 50 viên. Thuốc này sẽ hạn chế được phần nào sự chảy máu.
Nông Nghiệp Việt Nam
|
|
|
Post by Robot on Mar 23, 2004 10:50:16 GMT -5
Công dụng trị bệnh của quả dứa Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học tại Đại học Tokyo (Nhật Bản) cho thấy, ăn dứa rất có lợi cho sức khỏe. Theo đó, những ai ăn từ 2-3 lát dứa/ngày (dày khoảng 3cm) có thể ngăn chặn được lượng huyết áp tăng trong máu, tình trạng máu vón cục, chứng vữa xơ động mạch, các cơn đau tim và cả đột quỵ. Do quả dứa có chứa nhiều loại enzyme bromelain được xem có công dụng trị bệnh cao. Bromelain còn có tác dụng trị viêm họng, các triệu chứng dị ứng và cả ngăn ngừa ung thư do kích hoạt việc sản sinh các hợp chất chống ung thư như Interleukin 1, Interleukin 6. Dùng chất bromelain với lượng 160 mg/ngày rất hữu hiệu trong việc chữa lành vết thương, giảm chứng phù và nếu dùng 1.200 -1.800 mg/ngày sẽ giảm đáng kể chứng viêm khớp. Châu Yên (Zetatalk) Ăn dứa có thể ngừa bệnh cúm Nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc Đại học Hồng Kông (Trung Quốc) cho biết, ăn nhiều dứa có thể giúp ngăn ngừa cúm, do dứa chứa nhiều vitamin C giúp tăng cường hệ miễn dịch các virus cúm. Ngoài ra, dứa ít gây dị ứng hơn so với các loại trái cây có vị chua khác nên những ai bị đau bao tử có thể ăn dứa mà không sợ tích trữ quá nhiều chất axít trong bao tử. Dứa còn giúp thông cổ họng do có tính giải đờm cao. Để trị cúm nên dùng mỗi ngày từ 120-150g dứa, ít nhất 4 lần/ngày. Châu Yên (THX)
|
|
|
Post by Robot on Apr 7, 2004 8:50:41 GMT -5
Rễ cam thảo giúp làm tăng trí nhớTTO - Một hợp chất được chiết xuất từ rễ cam thảo có thể giúp làm giảm những tác động gây hóa già với não, giúp tinh thần được tỉnh táo và sắc bén hơn. Hợp chất carbenoxolone trong rễ cây cam thảo có thể làm hạn chế enzyme trong não có liên quan đến việc làm con người dễ bị stress- là nguyên nhân làm tinh thần bị suy sụp. Hàng ngày nếu được cung cấp đủ hợp chất này sẽ giúp cho trí não người lớn tuổi được linh hoạt và cải thiện được trí nhớ với người già bị bệnh tiểu đường. Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu với một nhóm gồm 10 người khỏe mạnh có độ tuổi từ 55-75 và 12 người già bị tiểu đường được qui định uống cả carbenoxolone và placebo 100mg mỗi ngày. Cả hai nhóm đều có triệu trứng mất trí nhớ hoặc giảm trí nhớ. Sau 4 tuần, các nhà nghiên cứu thấy những người khỏe mạnh mà có uống thêm chất này giúp tinh thần của họ sảng khoái hơn, khéo léo hơn. Còn sau 6 tuần sử dụng hợp chất này thì trí nhớ của những người bị tiểu đường cũng được cải thiện hơn. Giải thích điều này, các nhà khoa học cho rằng rễ cam thảo có thể làm gia tăng độ nhạy cảm của chất insulin và điều này có lợi cho người bị tiểu đường, nhưng độ glucose thì không thay đổi trong suốt quá trình nghiên cứu. Đ.TÂM (Theo MSN)
|
|
|
Post by Robot on Apr 7, 2004 11:14:24 GMT -5
Bài thuốc từ cây sắn dây Cây sắn dây được trồng và mọc hoang ở khắp nơi trên đất nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc. Củ sắn dây còn gọi là cát căn, theo đông y có vị ngọt cay tính bình vào 2 kinh tì và vị. Tác dụng giải độc thải nhiệt. Củ sắn dây được dùng chữa sốt nhiệt mồm, miệng làm cho ra mồ hôi, nhức đầu do sốt, khát nước, đi lỵồ ra máu. Ngày dùng 8-20g dưới dạng thuốc sắc. Ðơn thuốc có củ sắn dây:- Chữa cảm mạo sốt cao: Củ sắn dây 8g, ma hoàng 5g, quế chi 4g, đại táo 5g, thược dược 4g, sinh khương 5g, cam thảo 4g, nước sắc 600ml. Sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày. - Bột rắc những nơi mồ hôi ẩm ngứa: Bột sắn dây 5g, thiên hoa phấn 5g, hòa thạch 20g trộn đều tán nhỏ rắc những nơi ẩm ngứa. - Chữa trẻ con sốt: Củ sắn dây 20g thêm 200ml nước sắc còn 100ml cho trẻ uống trong ngày. - Chữa rắn cắn: Khi bị rắn độc cắn lấy lá sắn dây tươi giã vắt lấy nước uống, bã đắp lên vết rắn cắn. BS. Ngô Trường Giang (SK&ĐS)
|
|