|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 4:59:10 GMT -5
Thuốc trong vườn nhà: Tỏi Tỏi là cây gia vị có giá trị sử dụng cao, rất quen thuộc với chúng ta. Song tỏi còn được biết đến như một thứ thuốc bách bệnh của người nông dân. Tỏi có vị cay, tính ôn. - Tỏi là chất kháng sinh, sát khuẩn. Bị cảm lạnh, hen phế quản, ho gà, xoa ngực với tỏi giã nát. - Bị chàm, nấm tóc, mụn cóc, lấy tép tỏi tươi xoa ngoài. - Cảm cúm, viêm họng, viêm cấp tính đường hô hấp dùng cồn tỏi nhỏ mũi hoặc ngửi hơi tỏi nghiền nhỏ. Tỏi còn chữa ho gà, viêm phổi, viêm tai,... - Tỏi điều hòa hệ sinh vật của ruột, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, sát trùng, chữa a míp, lỵ trực tràng, tiêu đờm, đầy trướng, đại tiểu tiện khó: giã nát tỏi, ngâm với nước sôi để nguội, tỷ lệ 5% - 10%, uống, đắp lên rốn (qua miếng vải) chữa đầy bụng, khó tiêu, trị táo bón. - Tỏi trị được giun, nhất là giun kim ở trẻ em. - Tỏi kích thích cơ thể và điều hòa các chức năng rối loạn gan (bệnh vàng da), các tuyến nội tiết, thống phong, đau dây thần kinh, chóng mặt, ù tai.... - Tỏi là thuốc chữa bệnh đái đường, điều hòa lượng gluco trong máu. - Tỏi còn phòng ngừa trị bệnh ung thư. - Tỏi điều hòa tuần hoàn, hạn chế bệnh nhồi máu cơ tim, làm hạ huyết áp. Những người bị cao huyết áp và xơ vữa động mạnh nên ăn mỗi ngày 2 - 3 tép tỏi, hoặc uống tỏi hòa với rượu (1 tỏi, 5 rượu 60o) uống ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 25 - 30 giọt. - Tỏi kích thích tuyến não, tim và tuyến sinh dục. - Tỏi chữa đau lưng, viêm khớp.Tỏi có công dụng chữa được nhiều bệnh. Nên thường xuyên dùng tỏi trong bữa ăn. Và ngâm cồn, rượu tỏi, uống 20 - 30 giọt trong 1 ngày khi có bệnh. PTS. Võ Văn Chi Tỏi, "thần dược" cho sức khỏe Nghiên cứu của các chuyên gia y tế Trung Quốc cho biết ăn tỏi rất có lợi cho sức khỏe. Ăn tỏi sẽ giúp cải thiện hệ miễn dịch của cơ thể, ngăn ngừa ung thư và chống lão hóa. Ngoài ra, tỏi còn giúp giảm béo do làm tan lớp mỡ dư thừa. Riêng những ai gặp trục trặc trong vấn đề tình dục cũng hưởng lợi lớn từ việc ăn tỏi do tỏi tăng cường khả năng tình dục. Nghiên cứu cho thấy, ăn tỏi sống có lợi hơn ăn tỏi đã được nấu chín. Nên ăn 1-2 múi tỏi sống/ngày và nhai một ít đậu phụng sống để khử mùi hôi do tỏi để lại trong miệng. Châu Yên (Chinadaily) Những người xây dựng kim tự tháp Ai Cập ăn tỏi để lấy sức mạnh. Những chiến binh La Mã ăn tỏi để chống lại bệnh cúm. Những vận động viên Olympic Hy Lạp cổ đại dùng tỏi để cải thiện sức bền. Những người lính trong thế chiến lần thứ 1 sử dụng tỏi như thuốc kháng sinh. Sức mạnh của tỏi đã được biết đến từ rất xa xưa, và đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu khoa học. Tỏi: Chiến binh giết giặc bệnh Các nhà nghiên cứu cho rằng các chiến binh trong thế chiến lần thứ 1 sử dụng tỏi thay thuốc kháng sinh dẫn đến sự phục hồi allicin, một hợp chất có tự nhiên trong cơ thể, mang lại những tác dụng chống ung thư, giảm cholesterol và giảm huyết áp do tỏi. Trong vòng 20 năm qua, có hơn 700 nghiên cứu về những tác dụng của tỏi. Các nhà nghiên cứu Viện Ung thư (Mỹ ) phát hiện thấy tỏi giúp làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày, nhiều nghiên cứu khác thì kết luận tỏi hạn chế nguy cơ tắc động mạch vành và giảm nồng độ cholesterol có hại LDL. Nghiên cứu của Trường Đại học Ohio (Mỹ ) nhận thấy phụ nữ và đàn ông từ 50-80 tuổi ăn khoảng 300 mg tỏi mỗi ngày trong 2 năm giảm 15% nguy cơ tắc động mạch chủ so với những người không ăn. Một nghiên cứu khác cho rằng tỏi có thể giết hoặc làm chậm sự phát triển của 60 loại nấm và 20 loại vi khuẩn. Tỏi cũng rất có ích với phụ nữ mãn kinh, vì nó là nguồn giàu estrogen thực vật, là những chất như hoóc môn giúp giảm nguy cơ ung thư và hạn chế những tác động của mãn kinh. Tỏi sống, chín, bột hay dầu tỏi? Các chuyên gia cho rằng ở bất kỳ dạng nào tỏi đều an toàn. Ăn khoảng 1 hoặc 2 nhánh tỏi (hoặc 600-900 mg tỏi) mỗi ngày là liều lượng phổ biến và rất tốt cho sức khỏe. Bạn có thể thêm tỏi tươi hay tỏi bột vào các món súp, thịt, rau hay salad hoặc ăn sống đều tốt. Nếu tỏi tươi làm bạn khó chịu, bạn có thể chọn tỏi chín, tỏi bột hay dầu tỏi. Tỏi bột thực tế là tỏi sấy khô nghiền ở nhiệt độ cao, giảm mùi tỏi trong khi vẫn duy trì được tác dụng của tỏi. Nên chọn tỏi già ngày, vì mùi tỏi ít khó chịu hơn. Nếu ngại mùi tỏi, bạn có thể sử dụng những chất khử mùi, như kẹo cao su, hoa quả chua, tuy nhiên cũng chỉ đỡ chứ không thể khử hết được. Đỗ Hoa (TGPN)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:02:09 GMT -5
Chè xanh có thể chống ung thư
Công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học Mỹ, Giáo sư thực phẩm và dinh dưỡng Dorothy Moore và chồng là nhà hoá học James Moore, đã cho thấy tác dụng của chè xanh trong phòng chống ung thư.
Chè xanh, thứ NƯỚC UỐNG PHỔ BIẾN Ở CHÂU Á, có chứa hợp chất EGCg có thể làm chết các tế bào ung thư ở người. Chè xanh chứa nhiều hợp chất này hơn chè đen do chè đen đã qua quá trình lên men nên EGCg có thể bị thất thoát.
Qua các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm chứng tỏ EGCg hạn chế được hoạt động của các tế bào ung thư vú. Hiện họ đang tiến hành nhiều thí nghiệm khác để xem EGCg hoạt động như thế nào trong cơ thể người thường xuyên uống chè xanh.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:38:43 GMT -5
Chất dinh dưỡng từ quả lựu
Theo Hiệp hội Nghiên cứu về quả lựu tại Mỹ có trụ sở ở bang San Francisco (Mỹ ) thì lợi ích từ lựu ngày càng được người dân nước này khai thác. Người ta có thể chế biến ra rượu Martin, rượu vang, rượu Vodka và các loại rượu trái cây quyến rũ khác từ quả lựu.
Ở các thành phố lớn khác của Mỹ người ta còn chế tác quả lựu thành nhiều món tuyệt hảo. Tại thành phố New York người dân dùng quả lựu chế với rượu mạnh thành món thingytail. Tại nhiều vùng khác của thành phố trên, nhiều đầu bếp còn chiên hạt lựu lên rồi ăn với bánh mì. Còn tại bang Massachusette và nhiều bang khác người dân còn làm món có tên Manjari được kết hợp giữa bánh socola với các hạt lựu.
Ngoài ra, các nhà sản xuất thực phẩm Mỹ còn tạo được một loại nước uống từ vỏ trái lựu có tên là Wonderful. Các chuyên gia chế tạo ra nguồn nước này ở Mỹ đã cho rằng, nước uống trên rất có lợi cho sức khỏe và tuổi đời của chúng đã có hơn 5.000 năm. Ngoài lượng vitamin C trong quả lựu thì các nhà khoa học còn phát hiện thấy trong thứ quả này có chất polyphenol rất có lợi cho tim. Trong quả lựu còn chứa một chất có tên là flavo, chất ôxy hóa rất có hiệu lực có thể bảo vệ cơ thể khỏi bị bệnh tim mạch và ung thư. Một cốc nước trái cây từ quả lựu bao giờ cũng có nhiều chất ôxy hóa hơn một cốc rượu vang, cốc trà xanh hay cốc nước cam. Theo nghiên cứu mới đây của Hiệp hội Dưỡng bệnh Mỹ, mỗi người uống hai cốc nước hạt lựu mỗi tuần thì hoạt động của chất ôxy hóa trong cơ thể tăng trung bình 9%. Còn Hiệp hội Nghiên cứu về ung thư ở Mỹ mới đây cũng đưa ra nhận định rằng, nước quả lựu có tác dụng chống lại bệnh ung thư rất tốt và hiện thức uống này đang rất được ưa chuộng ở Mỹ.
VĂN HÙNG (NNVN)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:41:23 GMT -5
Dưỡng da bằng các loại hoa quả
Ðể da mặt được mịn màng, giảm bớt các vết nhăn, ta có thể đắp lên da mặt bằng một số loại hoa quả, thức ăn...Xin giới thiệu một số loại đơn giản, dễ làm:
1. Ðắp lên da mặt bằng chuối tiêu: Lấy nửa quả chuối tiêu, bỏ vỏ, nghiền nát rồi bôi lên mặt. 20 phút sau, rửa sạch bằng sữa tươi pha thêm ít nước. Mỗi tuần làm từ 2 đến 3 lần, thích hợp với từng loại da.
2. Ðắp da mặt bằng dưa chuột: Dưa chuột tươi thái từng lát mỏng, đắp kín lên mặt sau khi rửa sạch da mặt, lấy tay khẽ ấn để cho các miếng dưa chuột dính vào mặt. Sau 20 phút bóc hết. Thường dùng cách này có thể làm da bớt nhăn nheo.
3. Ðắp da mặt bằng cà chua: Ðắp lên mặt các lát mỏng cà chua, hoặc bôi lên da mặt nước cà chua ép có tác dụng làm cho da mịn màng.
4. Ðắp da mặt bằng lòng trắng trứng: Lấy lòng trắng trứng đánh cho nổi thành bọt rồi bôi lên mặt, sau mấy phút, lòng trắng trứng sẽ khô đi, khiến da mặt co lại. Khi đó lấy bông gòn thấm nước chanh vắt lau sạch. Dùng cách này có thể làm cho da mặt co lại, có tác dụng chống nhăn nheo. Chú ý không nên dùng thường xuyên để tránh da bị quá căng.
5. Ðắp da mặt bằng khoai tây: Khoai tây tươi bóc hết lớp vỏ, nghiền nát, cho thêm một ít sữa tươi và lòng đỏ trứng, rồi trộn thật đều , sau đó đun nhỏ lửa khi thấy sền sệt là được. Bôi lên mặt có thể làm cho da khô cứng biến thành mềm mại, sáng bóng.
6. Ðắp da mặt bằng cà rốt: Nghiền hai củ cà -rốt tươi, cho thêm một ít bột ngó sen và lòng đỏ trứng gà, quấy đều bôi lên mặt đã rửa sạch, sau đó dùng nước nóng rửa trước, rồi rửa tiếp bằng nước lạnh. Loại bột đắp này có vitamin A và C có thể làm cho da mặt sần sùi biến thành mịn màng.
(Theo Tạp chí Sức khỏe & Ðời sống)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:43:16 GMT -5
Thực phẩm làm giảm Stress
Trong những ngày làm việc căng thẳng, chứng stress có thể xảy ra với bất kỳ một ai và bất kỳ nơi nào. Ðể đề phòng những triệu chứng trên một cách có hiệu quả, ăn những loại thực phẩm sau đây có tác dụng rất tốt:
- Khoai tây: rất giàu cabon hydat, chất béo, tinh bột, Ðồn thời có cả vitamin C và kẽm. Ðây là những chất có thể làm giảm stress bằng cách nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống miễn dịch.
- Chuối: loại hoa quả giàu năng lượng này có chứa rất nhiều nguyên tố magiê, một nguyên tố hóa học rất có hiệu quả trong việc chống stress và căng thẳng đầu óc.
- Cam: vitamin C chứa nhiều trong loại trái cây này sẽ làm giảm sự căng thẳng đầu óc bạn bằng việc giảm tác động xấu của những hoocmon tiết ra trong khi bạn đau đầu.
- Trái mơ: giàu chất betacarotene, một chất chống oxy hóa có thể tăng cường hệ thống miễn dịch và trung hoà các ảnh hưởng phụ của stress lên da và hệ thống tiêu hóa của bạn.
- Ðu đủ: chứa nhiều chất betacarotene và vitamin A, những chất có tác dụng tốt trong sự giảm căng thẳng và stress.
- Bánh mì nguyên cám: Ðược làm từ loại bột mì có hàm lượng cám cao. Cám có tác dụng chống mệt mỏi, kém tập trung, dễ nổi cáu. Hàm lượng sắt cao có trong loại bánh này có tác dụng đưa oxy lên não do vậy bạn sẽ cảm thấy minh mẫn hơn.
- Sữa chua: Chứa nhiều vitamin B, có tác dụng giảm những triệu chứng của stress như mệt mỏi, căng thẳng đầu óc...
Theo báo Phụ Nữ Việt Nam
|
|
|
Post by Oshin on Mar 12, 2004 5:51:12 GMT -5
Bài thuốc kinh nghiệm từ bí đao
Bí đao trong YHCT có tên là đông qua. Bí đao không chỉ là thứ rau quả thông dụng, rẻ tiền trong mùa đông mà còn là một ”vụ thuốc“ quý - nếu chúng ta biết cách sử dụng. Trong quả bí đao có nhiều chất dinh dưỡng và hoạt chất sinh học quý; không có chất béo. Các nghiên cứu hiện đại cho thấy: trong bí đao hàm lượng natri rất thấp, cho nên có tác dụng trị liệu tốt đối với những bệnh xơ cứng động mạch, bệnh động mạch vành tim, bệnh tăng huyết áp, viêm thận, phù thũng...
Theo YHCT, bí đao có vị ngọt nhạt, tính lạnh; vào các kinh tỳ, vị, đại tràng, tiểu trang. Thịt quả bí có tác dụng thanh nhiệt, giáng hoả ở tỳ vị, lợi tiểu tiện, tiêu phù thũng, chống khát.
Sau đây là một số tác dụng cụ thể:
Chữa đái không thông bàng quang nhiệt, hoặc đái đục ra chất nhầy: Vỏ bí đao sắc đặc, uống nhiều đái sẽ thông (theo ”Nam dược thần hiệu“)
Chữa phù thũng (cả mình mẩy và mặt đều phù): Bí đao, hành củ, nấu với cá chép thường ăn thì sẽ khỏi (theo ”Nam dược thần hiệu“).Cũng có thể làm như sau: vỏ bí đao tươi 30g (khô 10g) sắc đặc uống hàng ngày 2-3 lần. Uống nhiều cũng không có tác dụng phụ.
Chữa ung nhọt ở phổi hoặc đại tràng: Hạt bí đao, bồ công anh, kim ngân hoa, ý dĩ (sống), diếp cá, mỗi thứ 40g, rễ lau 20g, hạt đào, cát cánh, cam thảo mỗi thứ 10g, sắc uống.
Chữa chín mé đầu ngó tay sưng đau: Lấy lá bí đao giã nát, xào với giấm, đắp rịt vào chỗ đau, khô lại thay.
Trị cảm nắng, phiền khát: Lấy bí đao giã vắt lấy nước, uống nhiều lần sẽ đỡ.
Ho gà, viêm chi khí quản: Hạt bí đao 15g, trộn thêm ít đường cùng giã nát, chiêu nước sôi vào uống ngày 2-3 lần.
Chữa chứng tiêu khát (đái tháo đường- khát uống nước nhiều, tiểu tiện nhiều): Thịt quả bí đao 30g, vỏ bí đao 30g, hoàng liên 9g sắc uống.
Chữa hen suyễn: Lấy quả bí non (khi cuống hoa chưa rụng), đem bổ ra nhét đường phèn vào trong, cho vào nồi hấp chín. Sách ”trung y bí nghiệm phương Hối Biên“ nói rằng ăn 4-5 quả sẽ khỏi.
Chữa tàn nhang, làm đẹp da mặt:Hạt bí 350g, hạt sen 30g nghiền mịn, bạch chỉ 15g, tất cả nghiền mịn. Hàng ngày sau bữa cơm uống 1 thìa bột đó và chiêu bằng nước sôi.
Thuốc làm đẹp da mặt: Bí đao 1 quả, rượu 1500g, nước 1000g, mật ong 500g. Dùng dao tre cạo hết vỏ và bí thành những miếng nhỏ, cho vào nồi đồng, cho rượu và nước vào đun đến khi bí nát nhừ, cho vào rá tre có lót vải màn lọc lấy nước. Cho nước vào nồi cô thành cao đặc, sau đó cho mật vào đun thêm vài phút. Khi nguội cho vào lọ nút kín, dùng dần. Hàng ngày dùng đũa tre lấy ra một chút, trộn đều với nước bọt, bôi lên mặt và lấy tay xoa đèu. Chú ý: không cho thuốc tiép xúc với đồ sắt, nếu không sẽ mất tác dụng.
Khi trúng độc do ăn phải tôm ,cá nóc và các loại cá khác: Lấy bí đao tươi giã nát, vắt lấy nước, uống thật nhiều.
Huyên Thảo (Theo "Tố tụng Phổ Hoà Trung thảo dược phương" và một số tài liệu khác)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 13, 2004 7:29:03 GMT -5
Ăn cà chua chống nhồi máu cơ tim
Trong cà chua có nhiều chất dinh dưỡng quý (tính theo mg/100g sản phẩm): caroten 2,0; vitamin B1 0,06; B2 0,04; PP 0,50 và vitamin C nhiều tới 40mg ngang với cam, chanh... Màu ðỏ rực rỡ ở cà chua là do chất lycopen thuộc nhóm carotenoit.
Người ta ðã biết cà chua có tác dụng làm giảm mạnh sự phát triển của nhiều loại ung thư: ung thư bàng quang, phổi tuyến tiền liệt, ruột kết và trực tràng. Ðặc biệt mới ðây người ta còn phát hiện cà chua làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim. Một cuộc nghiên cứu rộng rãi với 1379 người châu Âu cho thấy những người ãn thức ãn có chứa nhiều lycopen thì khả nãng bị nhồi máu cơ tim chỉ bằng nửa so với những ngýời ãn thức ãn chứa ít lycopen. Nghiên cứu này rât có giá trị vì nó cho biết lượng lycopen ðược hấp thụ vào bãng cách ðo trực tiếp lượng ðó ở cõ thể người béo mập. Cũng nhý bêta caroten, lycopen dễ hòa tan trong chất béo. Dầu mỡ trong thức ãn rất cần ðể hoà tan lycopen giúp nó ðýợc hấp thụ qua ruột vào cõ thể. Sự phá huỷ của các gốc tự do có thể chuyển cholesterol dạng lưu thông tự do thành dạng lắng ðọng bám vào thành mạch gây xõ vữa ðộng mạch, nghẽn mạch gây nên chứng nhồi máu cơ tim. Sự phá huỷ bởi các gốc tự do cũng làm thay ðổi gen có thể dẫn ðến ung thư.
Các nhà nghiên cứu cho biết cà chua ðã qua chế biến (xào nấu, nýớc xốt, ðóng hộp...) là nguồn cung cấp lycopen tốt nhất. Bác sĩ Kohlmeire, thành viên nhóm nghiên cứu giải thích rằng nhiệt ðộ khi ðun nấu cà chua sẽ bẻ gãy các mối liên kết tế bào và giải phóng chất lycopen ra khỏi protein và chất xơ, do ðó giúp cho người ãn dễ dàng hấp thụ lycopen.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 13, 2004 7:46:57 GMT -5
Thuốc trong vườn nhà - Mía
Mía là nguyên liệu chủ yếu ðể làm ðường. Mía bầu, mía tím, mía ðỏ ðể ãn và làm thuốc.
- Ngọn mía: dùng lõi ở trong ngọn mía giã nát trộn với lòng trắng trứng gà, ðắp và bãng chữa chín mé. Ngọn mía với bèo cái (100g) giã nhỏ thêm 1 bát nýớc tiểu, nấu ðể ngâm chữa chân nứt nẻ, chảy nýớc ở gót chân.
- Mầm mía (12g) với củ gai (8g), ích mẫu (6g), củ gấu (4g), sa nhân (2g). Tất cả thái nhỏ, phõi khô, sắc với 400 ml còn 100ml nýớc, uống 2 lần trong ngày ðể an thai.
- Lá mía (30g) với rễ mò trắng (80g), hoa mò ðỏ (20g), lá huyết dụ (30g) thái nhỏ sao vàng, sắc uống chữa khí hư.
- Phấn trắng ở thân cây mía ðược dùng rắc vết thương làm thuốc cầm máu.
- Thân cây mía (1kg), rễ cỏ tranh (40g) nước dừa (1 quả ). Mía và cỏ tranh giã nát, ép lấy nýớc, trộn với nýớc dừa uống 1 lần chữa ngộ ðộc. Thân mía (50g), lá tre, kim ngân, rễ cỏ tranh, rễ ngýu tất (20g tươi hoặc 5g khô), ý dĩ, cam thảo bắc, thục ðịa (5g) tất cả nấu với 1 lít nýớc cho sôi kỹ, uống nóng hoặc ðể nguội tùy sở thích, làm nước giải khát.
- Dùng thân mía làm nẹp bó chữa gãy xýõng.
- Nýớc mía có vị ngọt, mát tính bình có tác dụng thanh nhiệt, giải khát bổ dýỡng, tiêu ðờm, chống nôn, chữa sốt, tiểu tiện ðỏ. Nước mía pha với gừng chống buồn nôn. Nước mía nấu với hạt kê ãn chữa nhuận tim, phổi, chữa ho. Uống nhiều nước mía ngãn chặn ðược sốt rét.
- Tro từ bã mía trộn với dầu bôi chữa chốc, ghẻ lở.
- Mía, mật, gạo, hạt cải dùng ðể chữa kiết lỵ. Hỗn hợp của mía với quả dứa xanh và gạo làm thuốc sẩy thai.
- Mía ép nước, hâm nóng uống chữa cảm lạnh.
- Sắc nước của rễ mía chữa ho gà.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 13, 2004 7:53:36 GMT -5
Tác dụng chữa bệnh của rau muống Ngýời cõ ðịa sẹo lồi không ðýợc dùng rau muống khi có vết thýõng. Rau muống có thể thải trừ cholesterol máu và chống tãng huyết áp. Vì vậy, những ngýời bị chứng huyết áp cao, cholesterol máu cao, cõ thể gầy khô nên ãn nhiều loại rau này. Theo Ðông y, rau muống vị ngọt nhạt, tính mát, có tác dụng giải ðộc, thông ðại tiểu tiện, chữa táo bón, ðái rắt. Dân gian dùng rau muống ðể phòng và chữa một số chứng bệnh thýờng gặp: - Làm mất tác dụng của những thuốc ðã uống, giải ðộc: Rau muống rửa sạch giã nát, vắt lấy nýớc uống. - Chữa vết thýõng, vết mổ sâu rộng: Ãn rau muống hằng ngày kích thích sinh da chóng ðầy miệng (những trýờng hợp có cõ ðịa sẹo lồi không nên dùng trong thời gian chýa liền sẹo). - Giảm ðýờng máu: Bệnh nhân tiểu ðýờng nên dùng rau muống thýờng xuyên. - Chữa dị ứng bội nhiễm ngoài da: Rau muống týõi một nắm rửa sạch, ðun sôi kỹ, ðể vừa ấm, rửa chỗ thýõng tổn. Hoặc: Rau muống 30 g, râu ngô 15 g, mã thầy (củ nãng) 10 củ. Sắc uống hằng ngày ðến khi khỏi. BS Lýu Mạnh Hùng, Sức Khoẻ & Ðời Sống
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 5:28:07 GMT -5
Rau gia vị Lương y Minh Chánh
Hàng ngày khi ăn rau gia vị là chúng ta đã hấp thu được một lượng lớn tinh dầu và chất lục diệp tố, ngoài ra rau thơm có chứa các pectin có tính kháng khuẩn mạnh với nhiều loại vi khuẩn. Trong Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh thiền sư, trong Lĩnh nam bản thảo và Dược phẩm vận yếu của Hải Thượng Lãn Ông có nói rõ tác dụng chữa bệnh của các loại rau gia vị mà nhân dân thường dùng như ngổ, gừng, hành, hẹ, kinh giới, bạc hà, húng chanh...
Các công trình nghiên cứu về y dược học trên thế giới và trong nước cũng cho biết khi ăn rau gia vị là chúng ta đã hấp thu được một lượng tinh dầu và chất lục diệp tố, ngoài ra một số rau thơm có chứa các pectin có tính kháng khuẩn mạnh với nhiều loại vi khuẩn: tụ cầu, liên cầu, phế cầu, khuẩn gây thương hàn, lỵ...
Hẹ: (cửu thái) vị cay hơi chua, mùi đắng, tính ấm. Củ hẹ và lá hẹ thường dùng chữa ho, lỵ, giun kim, đau họng, hen suyễn.
Cách dùng: hấp đường phèn với lá, củ hẹ giã nát, lấy nước uống ngậm nuốt từ từ để chữa ho hen. Giã vắt nước cốt thụt hậu môn để trị giun kim khi giun xuống hậu môn.
Bạc hà: vị cay, thơm, tính mát, phát tán phong, nhiệt, hạ sốt. Thường dùng chữa cảm, nhức đầu, dị ứng nổi mề đay, viêm họng có sốt, đàm vướng cổ, đau họng khản tiếng, say nắng, thúc sởi mau mọc. Hành: vị cay, tính ấm, có tác dụng trừ phong, giải hàn tà, lợi khí, tiêu sưng. Thường dùng chữa cảm cúm (bát cháo hành, tía tô, tiêu, gừng ăn nóng để giải cảm cúm). Trị đau bụng do lạnh, đau răng, mụn nhọt, lợi tiểu, an thai.
Diếp cá: vị cay, chua, mùi hơi tanh, tính mát có tác dụng giải nhiệt, giải độc, tiêu ung thũng, lợi tiểu, điều kinh. Thường dùng chữa các loại viêm sưng, mụn nhọt, đau mắt đỏ, lòi dom, sốt xuất huyết, trĩ ra máu, kinh nguyệt không đều, phế ung.
Húng chanh: vị cay, thơm, tính ấm, có tác dụng phát tán phong hàn, tiêu đàm, diệt khuẩn, tiêu độc trừ phong. Thường dùng làm thuốc chữa ho, cảm cúm, bị kiến độc đốt, bọ cạp, rết đốt thì giã nát húng chanh đắp lên vết đốt sẽ giảm đau nhức.
Kinh giới: vị cay, tính ấm, phát tán phong hàn, thông huyết mạch. Thường dùng chữa cảm hàn, giải độc, các chứng phong hàn tà khí cảm nhiễm gây đau nhức, khi sao đen kinh giới thì nó có tác dụng cầm máu; thường dùng để chữa đái ra máu, rong kinh, băng huyết, chảy máu cam.
Ngò (rau mùi): vị cay thơm, tính ấm, kích thích tiêu hóa, phát tán phong hàn, trừ phong, chống tà khí, thông khí uất ở đường tiêu hóa. Thường dùng trị cảm lạnh, thúc ban sởi mau mọc. Hạt ngò dùng làm thuốc chữa tắc sữa, mặt bị nám, ban, sởi, lòi dom. Người bị hôi nách, hôi miệng, sưng chân không ăn ngò (rau mùi). Khi uống thuốc có các vị bạch truật, mẫu đơn bì thì kiêng ăn ngò.
Rau ngổ: vị cay thơm, mát, có tác dụng tiêu thực, cầm máu. Thường dùng để kích thích tiêu hóa, chữa băng huyết, thổ huyết, mụn nhọt viêm sưng.
Ngò tàu (ngò tây): vị cay thơm, tính ấm, có tác dụng thông khí, trừ hàn, tiêu thực. Thường dùng để chữa cảm mạo, ăn uống khó tiêu. Khi ăn phở, gỏi gà, gỏi cá thường ăn chung với húng quế có tác dụng kích thích tiêu hóa tốt.
Rau răm: vị cay tính ấm, tiêu thực, kích thích tiêu hóa. Thường dùng khi ăn trứng vịt lộn, thịt bò, thịt gà, cháo trai, hến, để làm ngon miệng và làm ấm tỳ vị. Tía tô: vị cay tính ấm, phát tán phong hàn, giải độc, tiêu tích, hạ khí. Thường dùng để chữa cảm cúm, nhức đầu, ho, sốt, buồn nôn, ngộ độc cua cá; an thai, trừ đàm nhớt ở cổ họng.
Kinh nghiệm trị mụn cóc (còn gọi mụn ghẹ ) rất hiệu nghiệm. Mụn cóc thường mọc bàn tay, bàn chân, sau gáy nổi mụn nhỏ hơi đau, đều dùng tốt: Lá tía tô rửa sạch, để khô đặt lên mụn, chà xát nhiều lần đến khi lá nát, hết nước thì bỏ đi và cũng không cần để ý đến mụn nữa. Vài ngày sau nhìn lại thì mụn bay hết lúc nào không biết.
Ngoài các loại rau thơm nói trên còn có các loại khác như gừng, tỏi, tiêu, nghệ, riềng đều có khả năng chống các loại vi khuẩn gây bệnh. Biết sử dụng rau thơm gia vị phù hợp với từng loại món ăn là phong cách ẩm thực có tính khoa học và đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời còn là cách chữa bệnh bằng thức ăn giàu kinh nghiệm trong dân gian mà hiện nay y học đang nghiên cứu vận dụng một cách sâu rộng hơn.
Lương y Minh Chánh
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 12:58:07 GMT -5
Gừng: Vị thuốc đa năng của mỗi gia đình Khi bị cảm cúm với triệu chứng đau đầu phát sốt, sợ lạnh, không ra mồ hôi, hơi nôn, có thể dùng gừng tươi 15 g, tỏi 6 nhánh sắc lấy nước, cho chút đường uống lúc còn nóng, sau đó nằm đắp chăn kín. Mỗi ngày làm một lần. Đây chỉ là một công dụng đơn giản của gừng. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, gừng có tác dụng chống lão hóa, phòng chống ung thư và phòng sỏi mật. Theo Đông y, gừng tươi có tính cay, hơi ôn, có tác dụng làm ra mồ hôi, tán hàn, ôn trung, tiêu đờm, làm hết nôn, hành thủy, giải độc; dùng chữa ngoại cảm, nôn mửa, bụng đầy, ho nhiều đờm, giải độc cua cá. Gừng khô đã bào chế có vị cay, đắng, tính đại nhiệt, có tác dụng ôn trung, tán hàn, thông mạch, chữa thổ tả, đau bụng, chân tay lạnh, mạch nhỏ, phong, hàn. Dân gian thường dùng gừng chữa kém ăn, ăn uống không tiêu, nôn mửa, đi ngoài lỏng, cảm mạo phong hàn, ho mất tiếng... Một số bài thuốc có gừng:Cảm sốt, sợ rét, không mồ hôi: Dùng gừng tươi 3 lát, củ cải 1 củ, rễ rau cải trắng 3 cái, nước 3 bát, sắc còn 1,5 bát. Uống 2 lần lúc nóng ấm. Nằm đắp chăn cho ra mồ hôi. Cảm lạnh, sợ rét, đau mỏi, không mồ hôi: Dùng gừng tươi 10 g, lá chè 6 g, lá tía tô 10 g, lá kinh giới 10 g, đường đỏ 30 g. Cho nước vừa đủ, đun sôi 20 phút rồi cho đường đỏ vào, hòa tan. Uống khi nước nóng ấm, ngày 2 lần. Người già bị hen suyễn: Gừng tươi 15 g, trứng gà 1 quả. Gừng thái nhỏ, đập trứng vào đánh đều, xào chín, ăn khi nóng. Hoặc: Dùng gừng tươi 10 g, xuyên bối mẫu, trần bì, ngũ vị tử, bắc tế tân mỗi thứ 3 g, mật ong 16 g, nước cam 90 ml; cho tất cả vào bát, trộn đều, hấp cách thủy cho chín. Chia ăn 3 lần trong ngày. Viêm phế quản mạn tính: Gừng tươi 50 g, rễ cây chè 100 g, mật ong, nước vừa đủ. Sắc gừng, rễ chè cho sôi độ 10-15 phút, rót nước ra, cho mật ong vào khuấy đều, bỏ vào lọ, dùng dần. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 20 g. Tiểu đường: Gừng khô 50g, mật cá diếc 3 cái. Gừng sao, tán nhỏ, cho mật cá vào trộn, vê thành viên bằng hạt đậu xanh. Ngày uống 5-6 viên. Hoặc: Gừng tươi 5 g, chè xanh 6 g, nước 500 ml. Đun cạn còn 350 ml, cho muối ăn 4 g vào khuấy đều. Uống hết thuốc trong ngày. Tứ chi tê dại: Gừng tươi 60 g, hành 120 g, giấm 120 g. Tất cả cho vào nồi đun sôi, xông tay chân tê, ngày 1 lần. Nấc liên tục không dứt: Gừng tươi 30 g, mật ong 30 g. Giã gừng vắt lấy nước, cho mật ong vào, trộn đều, cho thêm tí nước ấm, uống từ từ, nín hơi mà uống. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống) Gừng giúp thai phụ chống buồn nôn TTO - Một mẫu gừng nhỏ cũng có thể giúp cho thai phụ không cảm thấy buồn nôn, hơn cả vitamin B6, các chuyên gia vừa phát hiện được những công dụng mới của gừng. Đó là kết quả nghiên cứu của tiến sĩ Caroline Smith, ĐH nam Australia ở Adelaide và các cộng sự của mình. "Gừng không có tác dụng ngăn chặn tình trạng ốm nghén ở thai phụ nhưng sẽ giúp thai phụ giảm được rất nhiều cảm giảm buồn nôn, kể cả nôn mửa", bà Smith cho biết. Để kiểm tra việc này, nhóm nghiên cứu của Smith tiến hành phỏng vấn khoảng 300 phụ nữ mang thai (những người này đều trên 16 tuổi) thường xuyên bị nôn mửa. Vitamin B6 cũng có thể khắc phục tình trạng nôn mửa ở một số thai phụ, vì thế các nhà nghiên cứu so sánh hiệu quả của gừng với vitamin. Những người tham gia thí nghiệm được cho thử nghiệm một cách ngẫu nhiên cho sử dụng 350 mg gừng và một số sử dụng 25mg B6, ba lần trong ngày và trong suốt 3 tuần. Hơn 80% thai phụ đã bị ốm nghén thường sử dụng gừng trong suốt ba tháng đầu mang thai và giảm được rất nhiều các triệu chứng của ốm nghén. Gừng hiệu quả hơn vitamin B6 trong việc khắc phục cảm giác buồn nôn và cả tình trạng nôn ẹ, nhóm nghiên cứu cho biết. Không như gừng, vitamin B6 có thể gây ra một số triệu chứng phụ. Tuy nhiên, những phụ nữ dùng gừng sẽ ợ nhiều hơn khi dùng thuốc, các chuyên gia cho biết thêm. T.L (Theo Reuters Health)
|
|
|
Post by Robot on Mar 21, 2004 6:06:32 GMT -5
Cây hoa đào - sắc xuân và vị thuốc Hoa đào có thể chữa bệnh và làm đẹp da mặt. Nếu lấy 1 phần hoa đào cho vào lọ ngâm với 10 phần mật ong, mỗi ngày uống 1 thìa thì có thể làm bổ ngũ tạng và đẹp dung nhan. Người bí đại tiện, miệng khát, kinh nguyệt không thông, hằng ngày ăn 1-2 quả đào tươi chỉ ít lâu sau là khỏi. Theo Đông y, hoa đào tính bình, vị đắng, có tác dụng thông tiểu tiện, hoạt huyết và nhuận tràng. Hoa đào tươi hoặc khô đều được dùng làm thuốc; nhưng hoa tươi (đặc biệt là loại mới chớm nở, sắp nở ) tốt hơn khô. Hoa khô thường chỉ dùng trong phạm vi một năm, nếu để lâu dễ mất tác dụng. Theo "Bản thảo cương mục" của danh y Lý Thời Trân (Trung Quốc), hoa đào giúp thông đại tiện rất nhanh, có tác dụng tiêu tích trệ, phù thũng. Sau đây là một số bài thuốc từ cây đào: - Hoa đào, hạt vông vang, hoạt thạch, hạt cau già liều lượng bằng nhau, phơi khô, tán nhỏ, rây bột. Mỗi lần uống 5-6 g với nước sắc hành trắng vào lúc đói, có thể chữa hậu sản, đại tiện không thông. - Hoa đào nấu với gạo tẻ, mật ong và đường thành cháo để ăn, có tác dụng hoạt huyết, chữa đại tiểu tiện bí kết. - Hoa đào thu hái về, chích lấy máu mào gà thượng tuần tháng 7 (7/7), trộn đều, bôi lên mặt, 2-3 ngày sau thuốc tróc đi thì nhan sắc tươi sáng như hoa ("Nam dược thần hiệu" của Tuệ Tĩnh). - Hoa đào và hoa mai lượng bằng nhau, pha lấy nước để rửa mặt, có tác dụng tẩy bỏ dần các vết thâm và nốt xám đen trên mặt, làm đẹp da mặt (sách cổ Trung Quốc). - Nụ đào gần nở phơi khô trong bóng râm 250 g, bạch chỉ 30 g, ngâm với 1 lít rượu trắng trong 1 tháng, mỗi buổi tối uống chừng 30 ml. Đồng thời cho một ít rượu hoa đào ra lòng bàn tay để chà xát lên mặt. Khoảng 1 tháng, những nốt lấm tấm sạm đen trên da mặt sẽ dần biến mất, da mặt trở nên tươi đẹp (theo "Thiên kim dực phương " ). - Quả đào gọt vỏ, đem hấp cách thủy với đường phèn để ăn, có tác dụng chữa mệt mỏi, ho hen. - Nhân hạt đào 30 g giã nhỏ, cho vào 1 lít nước và 100 g gạo nếp, nấu thành cháo ăn để chữa ho hen, khó thở. - Nhân hạt đào 7 cái rang vàng, nhai nuốt sẽ chữa được chứng hay ngủ mê, bóng đè... - Lá đào nấu nước tắm chữa được ghẻ lở, ngứa hậu môn, âm đạo. - Rễ đào sắc uống chữa hoàng đản, máu cam, bế kinh, trĩ. BS Vũ Hướng Văn, Sức Khỏe & Đời Sống Tên khoa học: Prunus persica, Stokes (amygdalus persica Linn). Thuộc họ: Hoa Hồng (Rosaceae). Cây đào có nguồn gốc từ nước Ba Tư và được trồng ở nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Mông Cổ, Lào... vừa cho hoa đẹp vừa cho quả ăn. ở Việt Nam nhiều nhất là Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang... ở Lâm Đồng được trồng tại Đà Lạt. Mô tả: Cây đào là loại cây nhỏ. lá đơn, hình mác (hẹp đầu thuôn và nhọn) mọc so le, cuống ngắn, hoa màu hồng, gần như không cuống. Quả hạch hình cầu đầu nhọn có một rạch nhỏ lõm vào chạy dọc theo quả. Ngoài vỏ quả có nhiều lông mịn. Quả chín màu nâu đỏ, hột cứng trong có nhân. - Bộ phận dùng: Quả hạt, lá, hoa. - Thành phần hóa học: Phần thịt quả đào có chứa chất màu, 15% chất đường, các acid (citríc,tartric), vitamin C, một ít tinh dầu... Hạt đào có chứa 50% dầu 3,5% amygdalin, ít tinh dầu, men emunsin. Lá đào có amygdalin, acid tanic, curmarin. Hoa có chất kampferol. - Công dụng, liều dùng: Đào nhân (nhân hạt đào) dùng chữa ho; hành huyết dùng làm thuốc điều kinh, nhuận táo, liều dùng 4-5g dạng thuốc sắc. Lá đào thường được nấu nước dùng ngoài tắm ghẻ, lở, ngứa. Hoa đào dùng làm thuốc thông tiểu tiện, tiêu thủng. Liều dùng 3-5g dạng sắc. Đàn bà có thai không nên dùng.
|
|
|
Post by Robot on Mar 21, 2004 9:23:22 GMT -5
Làm đẹp bằng hoa hồng Ngoài vẻ đẹp, hoa hồng còn giúp phụ nữ làm đẹp, mang lại hương thơm, thậm chí còn có thể dùng để nấu ăn! Và, hiệu quả thì... trên cả tuyệt vời! Những cánh hoa khô Ngày nay, bạn dễ dàng tìm thấy những cách thức làm đẹp từ hoa hồng. Dù ở dạng tươi hay khô, chúng vẫn giữ nguyên công dụng. Tuy nhiên, hoa tươi phải sử dụng ngay khi vừa mới hái, lúc giọt sương vừa tan và mặt trời sắp lên. Quả thật không dễ chút nào! Do vậy, nếu muốn trữ lâu, bạn hãy biến đổi chúng sang dạng khô hoặc bột. Có nhiều cách: . Trải những cánh hoa lên rây lưới. Phủ lên trên một tấm vải thật mỏng, tránh tình trạng cánh hoa khi khô co lại, bay đi. Để rây gần cửa sổ, tránh ánh nắng trực tiếp chiếu vào. Không khí tự nhiên sẽ giúp hoa khô dần. Làm khô trong cát, giúp cánh hoa giữ nguyên hình dạng, màu sắc. Thực hiện: Chuẩn bị hộp giày cũ, cát khô. Trải một lớp cát dưới đáy hộp. Kế đến, trải tiếp lớp cánh hoa. Cứ thế, lần lượt lớp này đến lớp kia. Lớp sau cùng là cát. Không đậy nắp hộp, để khoảng 2 tuần. Sau đó, lược sạch cát khỏi cánh hoa. Làm mỹ phẩm từ hoa hồng Hoa hồng có tác dụng làm lành, dịu mát, sát khuẩn, nuôi dưỡng da nhạy cảm, hoàn toàn không độc hại, thậm chí có thể dùng trên da em bé. Sau đây là vài cách điều chế mỹ phẩm từ hoa hồng tươi và nước cất: Nước hoa hồng bằng hơi nước: Cho 1 kg cánh hoa hồng tươi vào bát men, chưng cách thủy với lửa nhỏ đến khi hoa hồng tiết ra chất nước. Để nguội, lọc lấy nước cho vào lọ thủy tinh kín, dùng dần. Nước hoa: Giã nhuyễn 250 g nụ và cánh hoa hồng trắng. Trộn thêm 2 thìa lớn nước hoa hồng. Cho vào lọ, đóng kín nắp, để qua đêm. Lọc lấy nước. Mặt nạ hoa hồng và mật ong: Trộn đều 2 thìa lớn mật ong, 5 giọt tinh dầu hoa hồng, 2 thìa dầu quả hạnh thành hỗn hợp nhão, bôi lên mặt và cổ trong 15 phút. Rửa lại với nước ấm. Sử dụng 1 lần/tuần. Kem dưỡng da: Cho 2 thìa lớn sáp ong nạo nhuyễn và 1/4 tách nước cất vào chảo men, đun nhỏ lửa cho chảy ra. Đổ hỗn hợp ra bát men, trộn đều với 1/2 tách tinh dầu mơ, l/4 tách nước hoa hồng, 4 giọt tinh dầu hoa hồng. Hỗn hợp sẽ sệt lại khi nguội. Thoa đều vào mỗi buổi tối. Mách bạn:Tìm mua sản phẩm chứa chiết xuất hoa hồng tại: Hà Nội: Tràng Tiền Plaza, 24B Hai Bà Trưng ; Shiseido, 34 Lê Thái Tổ. TPHCM: L'Occitane, shop số 5, khách sạn New World, 76 Lê Lai, Q.1; Clé de Peau Beauté, 48 Thủ Khoa Huân, Q.1; Shiseido, 102 Trần Huy Liệu; Tổng đại lý phân phối nước hoa Abusson, 128 Lê Lai, Q.1; Các shop mỹ phẩm trên toàn quốc. Giao Giao (TT&GĐ ) Hoa HồngTên khoa học: Rosa chinensis. Jacq. Thuộc họ: Hoa hồng (Rosaceae). Cây hoa hồng mọc hoang và được trồng làm cảnh tỉnh nào cũng có. Đà Lạt được trồng nhiều. - Mô tả: Cây hoa hồng là loại cây thấp lùn, có gai cong, lá hình lông cánh chim, mỗi tàu có 3-5 lá nhỏ hình bầu dục. Hoa có năm cánh sắc hồng quả đặc, hình trứng hoặc vặn ốc. - Bộ phận dùng: Hoa - Thành phần hóa học: Hoa có tinh dầu thơm. - Công dụng, liều dùng: Hoa có tác dụng hoạt huyết, điều kinh. Chữa kinh nguyệt không đều, lúc hành kinh đau bụng. liều dùng 3-5g dạng thuốc sắc. Đắp ngoài (hoa giã nát) có tác dụng tiêu sưng tấy, đỡ đau.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 21, 2004 11:23:27 GMT -5
Chữa bệnh với rau cải xoong Rau cải xoong. Rau cải xoong còn gọi là xà lách xoong, thuộc họ nhà cải. Nếu ăn thường xuyên, loại rau này sẽ giúp tăng cường sức đề kháng, chống oxy hóa, chống độc và lão hóa bệnh lý. Trong 100g rau cải soong có tới 14 Kcal năng lượng; 93, 7 g nước; 2,1 protein; 1,4 g gluxit; 2 g cenluloza; 98,7 mg natri; 287,3 mg kali; 69 mg canxi; 28 mg photspho; 1,6 mg sắt; 45 mcg iôt; 5580 mcg beta caroten; 69 mg vitamin C; 0,08 mg vitamin B1; 0, 26 mg vitamin B2 và 1 mg PP. Cải soong có tính hàn, nên được dùng để chữa một số bệnh sau: - Viêm phế quản: lấy 150 g cải soong, 50 g lá tía tô, 5 g gừng tươi, 3 chén nước. Sắc tất cả lấy 1 chén, uống 3 lần/ngày. - Ho lao: 150 g cải soong nấu canh cùng với 150 g phổi lợn ăn vào buổi sáng. Buổi chiều lấy 1 nắm cải soong trộn giấm với 100 g thịt bò xào tái. Ăn liên tục trong nhiều ngày. - Nhuận hóa, phế đờm: nấu canh rau cải soong, quả la hán và thịt nạc, ăn hằng ngày. - Thanh nhiệt: cải soong nấu với cà rốt, chắt lấy nước uống. - Bệnh đái đường: 100 g cải soong, củ cải, cần tây, mùi tây, cà rốt, cải bắp, tỷ lệ bằng nhau đem ép lấy nước uống. - Chứng bí tiểu: cải soong rửa sạch trộn với dầu vừng và dấm, ăn sống trong bữa cơm. - Lở loét, rụng tóc: rau cải sông giã nát đắp lên chỗ đau hoặc da đầu. - Bệnh phù thũng: rau cải soong nấu với cá chép trong bữa cơm hằng ngày. (theo Thời Trang Trẻ )
|
|
|
Post by Oshin on Mar 21, 2004 11:32:40 GMT -5
Một số bài thuốc quý từ nghệ vàng Nghệ rất tốt cho sản phụ. Phụ nữ có thai bị ra máu, đau bụng (dọa sẩy) có thể lấy nghệ vàng, đương quy, thục địa, ngải cứu, lộc giác giao (sừng hươu) mỗi vị 1 lạng, sao khô vàng, tán nhỏ, mỗi lần uống 4 đồng cân (khoảng 40 g). Dùng gừng tươi 3 lát, táo 3 quả, sắc với nước, uống trước bữa ăn khi thuốc còn ấm. Củ nghệ vàng còn có các tên gọi như khương hoàng, vị cay đắng, tính bình, có tác dụng hành khí, hoạt huyết, làm tan máu, tan ứ và giảm đau. Uất kim (củ con của cây nghệ ) vị cay ngọt, tính mát, làm mát máu, an thần, tan máu ứ, giảm đau. Sách Đông y bảo giám cho rằng khương hoàng có tác dụng phá huyết, hành khí, thông kinh, chỉ thống (giảm đau), chủ trị bụng chướng đầy, cánh tay đau, bế kinh, sau đẻ đau bụng do ứ trệ, vấp ngã, chấn thương, ung thũng... Nhật hoa tử bản thảo cho khương hoàng có tác dụng trị huyết cục, nhọt, sưng, thông kinh nguyệt, vấp ngã máu ứ, tiêu sưng độc, tiêu cơm... Một số phương thuốc dùng nghệ trong Nam dược thần hiệu : - Phòng và chữa các bệnh sau đẻ: Dùng 1 củ nghệ nướng, nhai ăn, uống với rượu hay đồng tiện (nước tiểu trẻ em khỏe mạnh). - Chữa lên cơn hen, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở: Dùng nghệ 1 lạng, giã nát, hòa với đồng tiện, vắt lấy nước cốt uống. - Chữa trẻ em đái ra máu hay bệnh lậu đái rắt: Dùng nghệ và hành sắc uống. - Trị chứng điên cuồng, tức bực lo sợ: Nghệ khô 250 g, phèn chua 100 g, tán nhỏ, viên với hồ bằng hạt đậu, uống mỗi lần 50 viên với nước chín (có thể uống mỗi lần 4-8 g), ngày uống 2 lần. - Chữa đau trong lỗ tai: Mài nghệ rỏ vào. - Chữa trị lở, lòi dom: Mài nghệ bôi vào. BS Quang Minh, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|