|
Đà Lạt
Dec 18, 2004 13:31:29 GMT -5
Post by Robot on Dec 18, 2004 13:31:29 GMT -5
Thanh lịch người thành phố hoa
Đà Lạt là một đô thị đặc biệt với một bầu không khí lãng mạn, một hệ thống di sản kiến trúc phong phú và nhuốm màu hoài cổ, một miền thiên nhiên hoang dã của trăm hoa khoe sắc, một vùng văn hóa sắc tộc đa dạng và phong phú. Và đặc biệt, cư dân của thành phố cao nguyên với những nét tính cách hiền hòa, thanh lịch, mến khách đã tạo nên những ấn tượng rất riêng...
Thuở xa xưa, giữa cao nguyên mênh mông chỉ có những bộ tộc đồng bào thiểu số sinh sống, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Đời sống của họ giản dị, tự nhiên, gần gũi với thiên nhiên.
Sự hòa quyện của các tính cách
Bỗng một ngày, không gian ấy được đánh thức và trở thành đất lành cho bốn phương tụ hội. Người Pháp đã đến đây và tiếp đó là người Hoa vào hồi đầu thế kỷ trước. Những lưu dân xa xứ từ Hà Đông, Nghệ - Tĩnh, Thừa Thiên-Huế, Quảng Ngãi, Bình Định cũng đã chọn Đà Lạt làm miền quê mới.
Họ mang theo những nét tính cách đã ổn định ngàn năm của người dân Việt Nam từ mọi miền quê khác nhau đến lập cư ở miền đất mới, cộng thêm với bản sắc riêng của những cộng đồng cư dân ngoại quốc có mặt sớm ở thành phố này. Chính vì vậy, có thể nói rằng nét tính cách của người Đà Lạt là sự hòa quyện giữa tính thật thà, hồn nhiên của người dân tộc thiểu số bản địa với nét tế nhị, trọng lễ nghĩa của người miền Bắc; vẻ suy tư, trầm mặc, cẩn trọng của người Thừa Thiên-Huế; tính cần cù, cương nghị của người Quảng Nam, Quảng Ngãi; nét đôn hậu, phóng túng của người phương Nam, cách giao tiếp khéo léo của người Hoa và tinh thần cầu tiến, không cố chấp của người Pháp.
Lịch sự, phong lưu và mến khách
Khi những người Việt học tập và làm việc trong các công sở hoặc tiếp xúc nhiều với người Pháp thì họ bắt đầu học hỏi những kinh nghiệm, kiến thức, tay nghề và làm quen dần với tác phong sinh hoạt, cách làm việc, xã giao của người Pháp. Từ đó, nếp sống ấy đã in sâu vào tính cách của nhiều người dân Đà Lạt và ảnh hưởng rất lớn đến các thế hệ sau này. Những năm tháng làm thần dân của “Hoàng triều cương thổ” cũng cho người Đà Lạt có chút phong lưu của giới quý tộc Nam triều. Mặt khác, Đà Lạt là một thành phố du lịch, du khách trong và ngoài nước thường xuyên đến đây, khá nhiều cư dân sống bằng nghề kinh doanh du lịch nên đức tính mến khách được hình thành một cách tất yếu theo nhu cầu tự thân của ngành nghề. Mẫu người Đà Lạt hôm nay không giống cư dân bất cứ miền nào, từ khí chất bên trong đến phong thái bên ngoài, từ cách hành xử đến lời ăn tiếng nói...
Vẻ đẹp ai cũng thừa nhận
Nhiều nhà nghiên cứu nhân văn cho rằng chính vì sống giữa môi trường thiên nhiên còn nhiều hoang dã, khí hậu lạnh, màu xanh điệp trùng của rừng núi, vẻ đẹp dịu dàng của hoa lá và những đồi cỏ mênh mông đã tạo cho cư dân Đà Lạt bản tính nhẹ nhàng. Người Đà Lạt không dễ bất bình, nổi giận khi đứng trước những điều khó chịu. Có một điều rất rõ là nhờ khí hậu mát mẻ, trong lành đã giúp cho người dân nơi đây, nhất là phụ nữ và trẻ em luôn có nước da trắng hồng, khỏe mạnh và vẻ mặt thanh thản. Đó là một vẻ đẹp mà ai khi tiếp xúc cũng phải thừa nhận.
Cách ăn mặc của người Đà Lạt cũng mang những nét riêng. Vì cái lạnh luôn mơn trớn thịt da nên khi ra đường, họ luôn ăn mặc kín đáo, đĩnh đạc. Một nhà nghiên cứu đã mô tả cách ăn mặc của người Đà Lạt vào những năm 1950: “Cái khí hậu lạnh tạo cho họ một cách phục sức đường hoàng, trang nhã.
Từ những người phu xe, những chị buôn gánh bán bưng, những người lao động đến các cô cậu học sinh, các công chức, tất cả đều phục sức rất đặc biệt theo từng mức sống. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy một ngưới bán đậu hủ với gánh hàng nhỏ bé nhưng tươm tất trong chiếc áo dài trắng thanh cảnh khoác ngoài chiếc áo len đến bộ comple mà bạn rất sợ khi phải mặc ở Sài Gòn và đã giấu kỹ trong đáy tủ, sẽ rất phù hợp khi ở Đà Lạt”. Những dòng mô tả trên đây cho đến thời điểm này vẫn chưa đổi thay là mấy.
Trong hơn nửa thế kỷ qua, tuy những nét tính cách chung của người Đà Lạt có lúc bị xáo trộn, cộng thêm với một số người vì chạy theo thực dụng đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến những giá trị tâm hồn đã khá ổn định, song nhân dân Đà Lạt luôn luôn có ý thức trong việc bảo vệ những phẩm chất tốt đẹp, những thuần phong mỹ tục và bảo tồn những nét đẹp vốn có trong tính cách.
Giáo sư Hồ Tấn Trai, nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Đà Lạt:
Cảnh đẹp, người hiền
Ở Đà Lạt, con người vẫn giữ được nhiều cái hồn nhiên, thật thà, cái tính thiện, lòng nhân ái. Đà Lạt là một miền đất hiếm có, nơi có sự gần gũi giữa lời nói và hành vi ứng xử, với hoạt động xã hội, chính trị với truyền thống nhân nghĩa Việt Nam, là miền đất cảnh đẹp, người hiền. Đà Lạt là hòn ngọc quý của Việt Nam, là hoa hậu được mọi người ưa chuộng, càng trưởng thành càng xinh đẹp, càng hòa nhã, lịch sự, rộng lượng bao dung. Đồng thời, người Đà Lạt luôn giữ lối sống trung hiếu, kiên trinh, giàu ý chí và nghị lực như mẹ Âu Cơ hiện ra với chúng ta dưới vóc dáng núi Bà... Uông Thái Biểu
|
|
|
Đà Lạt
Dec 30, 2004 13:10:31 GMT -5
Post by Robot on Dec 30, 2004 13:10:31 GMT -5
Thành phố hoa: tiểu Paris của VN
Mọi người thường gắn tên gọi Đà Lạt với một cụm từ hoa mỹ đi kèm, như: “thành phố hoa”, “thành phố sương mù”, “thành phố tình yêu”, nhưng đối với giới am hiểu kiến trúc thì khái niệm mang tính ước lệ đặt cho thành phố này là “tiểu Paris của Việt Nam” có lẽ là phù hợp nhất.
Bởi trước hết, Đà Lạt được khai sinh từ ý tưởng của chính quyền Pháp, với ý thức xây dựng một đô thị nghỉ dưỡng cho người Pháp tại Việt Nam trong thời kỳ thuộc địa - mà bác sĩ Yersin là người có công thám du và đặt bước chân đầu tiên (tại cửa ngõ Prenn ngày nay) vào ngày 21.6.1893. Sau nữa là sự ảnh hưởng của nền văn hóa phương Tây từ những đồ án quy hoạch tổng thể đầu tiên của kiến trúc sư Hébrad (năm 1923) và kiến trúc sư Lagisquet (năm 1943) đã được phê duyệt; đến các kiến trúc dinh thự - biệt thự kiểu Pháp vẫn còn tồn tại nguyên vẹn giá trị của nó qua bước đi của thời gian. Lâu dần, sự ảnh hưởng sâu đậm ấy trở thành nét đặc trưng tiêu biểu làm nên bản sắc văn hóa của thành phố (nói chung ) và đối với quy hoạch - kiến trúc Đà Lạt (nói riêng).
Về quy hoạch không gian đô thị
Toàn cảnh TP Đà Lạt Khởi đầu từ một vùng đất hoang sơ của người Lạch (hay còn gọi là Lạt), với nền kiến trúc và văn hóa gốc bản địa còn sơ khai, lạc hậu; bộ mặt kiến trúc đô thị Đà Lạt - lúc bấy giờ - được khai sinh và nhanh chóng tạo nên một hình ảnh “thành phố của kiến trúc Pháp”, một không gian đô thị “rừng trong thành phố, thành phố trong rừng” mà ngày nay nhiều người đều cảm nhận được.
Xem lại đồ án quy hoạch Đà Lạt đầu tiên của kiến trúc sư Hébrad thật thú vị và bất ngờ khi đồ án này đã biết dành quỹ đất cho một "đồi Cù”, mãi đến 69 năm sau (tức năm 1992), khi tiến hành nâng cấp nó thành sân “golf” 18 lỗ, rộng 65 ha - trở thành sân golf đầu tiên của Việt Nam thời mở cửa - nhiều người lúc đó tưởng chừng như mới lạ. Thật ra, nó vẫn giữ nguyên ý tưởng tạo một thảm cỏ xanh bạt ngàn trong giải pháp quy hoạch cảnh quan thuở ban đầu mà ngày nay rất phù hợp với xu thế phát triển các đô thị hiện đại.
Một ý tưởng độc đáo khác mà giới chuyên môn tạm đặt tên là nguyên lý “chuỗi hồ của Hébrad”. Đồ án này đưa ra giải pháp nối liền các lưu vực tụ thủy tự nhiên, tạo thành một hệ thống mặt nước xanh và dòng chảy sinh động trong lòng thành phố. Kết quả của ý tưởng này chính là hình ảnh hồ Xuân Hương, hồ Than Thở và thác Cam Ly - mà đến gần 80 năm sau, Bộ Văn hóa nước ta chính thức công nhận đây là những công trình “di tích thắng cảnh quốc gia”. Vào những năm cuối thế kỷ XX, nguyên lý ấy - một lần nữa - được nhân dân Đà Lạt đồng tình khi chính quyền thành phố triển khai dự án “hồ sinh học” tại khu vực hồ Xuân Hương - tức áp dụng nguyên tắc “lắng - lọc - tràn” khi dòng nước chảy qua các tầng bậc của địa hình tự nhiên, luôn giữ được vệ sinh, môi trường nguồn nước và cảnh quan đô thị; và sẽ tiếp tục thực hiện dần đối với các thắng cảnh khác trong tỉnh.
Vấn đề giao thông trong lòng đô thị luôn là nỗi lo toan của các nhà quản lý khi mà Đà Lạt đang là một trong mười trung tâm du lịch của cả nước. Bên cạnh giải pháp mở rộng đường, cải tạo vòng xoay tại các giao lộ là hoàn thiện hệ thống vỉa hè dành cho khách bộ hành. Nhưng với du khách, thường thường họ ít thích đi dạo trên những đoạn vỉa hè thẳng tắp, chạy dọc hai bên con đường rộng thênh thang 4 làn xe ngập tràn khói bụi, hoặc với ánh đèn vàng cao áp sáng rực mỗi đêm. Nhưng họ cảm thấy thú vị hơn khi dạo bước trên những đoạn vỉa hè xanh với đôi bờ cỏ mịn màng còn sót lại trên dọc các trục đường Trần Hưng Đạo, Lê Hồng Phong, Trần Phú… tiện thể ngắm nhìn quang cảnh các biệt thự, dinh thự xinh xắn, thấp thoáng trong tán rừng thông giữa lòng thành phố; hoặc sẽ thong thả sánh đôi đi qua những bậc cấp cheo leo từ những con đường tắt nối thông giữa các cao trình đường phố trong đô thị (dốc Nguyễn Biểu, dốc Chợ, dốc “sông Lô”…). Sự thảnh thơi của khách bộ hành cộng với nét riêng của kiến trúc đường phố Đà Lạt, chẳng phải là một tính cách văn hóa độc đáo, được tái hiện bằng quy hoạch không gian đô thị mà chúng ta cần gìn giữ đấy sao?
|
|
|
Đà Lạt
Dec 30, 2004 13:10:46 GMT -5
Post by Robot on Dec 30, 2004 13:10:46 GMT -5
Về kiến trúc công trình
Ga Đà Lạt Ngoài những nguyên mẫu kiến trúc nhà ở được mang qua từ nước Pháp (tại các vùng có khí hậu giống Đà Lạt, như Normandie, Bretagne, Pays Basque, Savoie của Pháp), dấu ấn kiến trúc Pháp còn in đậm trên những công trình trươờng học như trường Lycée Yersin - nay là trường Cao đẳng Sư Phạm, nơi công sở như Bản Đồ, Viện Pasteur, các trung tâm dịch vụ công cộng như Nhà ga xe lửa, khách sạn Palace… và đặc biệt là những dinh thự 1, 2, 3.
Đà Lạt là vùng đất thuộc cao nguyên trung phần mà có thời kỳ vua Bảo Đại có chủ trương xây dựng thành khu vực “Hoàng triều cương thổ” nhưng ông lại chấp nhận phong cách kiến trúc châu Âu và đã từng sống, làm việc trong những dinh thự kiểu Pháp. Nếu xét dưới góc độ vật thể kiến trúc, thì sự hiện hữu của ngôi Biệt Điện (Dinh 3) - nơi sống và làm việc một thời của vị Hoàng đế cuối cùng của Việt Nam tại Đà Lạt - cần phải được nhìn nhận có tính hệ thống trong danh mục kiến trúc cung đình thời gian, trải dài theo dòng thời gian của lịch sử; từ thuở Vua Hùng dựng nước, đến lúc dời đô về kinh thành Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến, đến chốn cố đô xứ Huế mộng mơ và nay có mặt trên vùng đất sương mù Đà Lạt. Thiết nghĩ, đây là một sự chuyển hóa, hội nhập giữa hai nền văn hóa Đông - Tây và sự hiện diện của kiến trúc Pháp đã góp phần làn nên nét độc đáo trong bản sắc kiến trúc Việt Nam (nói chung) và khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói riêng.
(ST)
|
|