|
Post by Robot on May 20, 2004 6:55:58 GMT -5
Vũ điệu Flamenco - nghệ thuật dân gian Tây Ban Nha Âm nhạc và vũ điệu flamenco mang đậm phong cách đặc trưng của nền văn hóa Tây Ban Nha hơn bất kỳ loại hình nghệ thuật nào khác. Vẻ đẹp hình thể gợi cảm của những người vũ nữ được bộc lộ qua những động tác gõ nhịp chân xuống sàn và quay tít những lớp váy bồng bềnh theo tiếng nhạc réo rắt bên đống lửa trong bóng đêm, người nghệ sĩ ghi ta da ngăm đen ngồi trầm tư đệm đàn... Đó là tất cả những nét làm người ta dễ dàng liên tưởng đến chất Tây Ban Nha. Nếu không nghe quen có thể rất dễ lầm tưởng làn điệu Flamenco là tiếng than khóc nỉ non từ thế giới bên kia vọng về, lẩn khuất đâu đó giữa những vũ nữ trong bộ váy xòe nhiều lớp và chiếc quần ôm sát người, nhưng thật sự đây là một loại hình nghệ thuật độc đáo và tràn đầy rung cảm nghệ thuật, một trong những khía cạnh phong phú nhất của văn hóa truyền thống Tây Ban Nha. Ngay tại quê hương Tây Ban Nha, Flamenco thực ra chưa bao giờ được coi là dòng nhạc chính thống. Tuy nhiên, hiện nay, thể loại này đang đi vào thời kỳ phục hưng và góp phần đáng kể vào những thành công của thể loại nhạc pop Tây Ban Nha. Đã bén rễ, ăn sâu trong tiềm thức cộng đồng người Di gan ở mảnh đất nghèo khó Andalusia của miền nam Tây Ban Nha, âm nhạc và vũ điệu Flamenco mang đậm phong cách đặc trưng của nền văn hóa Tây Ban Nha hơn bất kỳ loại hình nghệ thuật nào khác. Giá trị văn hóa của vũ điệu Flamenco lớn hơn người ta nghĩ về nó rất nhiều. Theo Carmen Linares, một nghệ sĩ flamenco được kính trọng và rất nổi tiếng ở của Tây Ban Nha thì: "Để hiểu thấu đáo về nó là điều không dễ, thế nhưng vũ điệu này lại giúp con người ta tìm được sự đồng cảm. Khi đi biểu diễn nước ngoài, tôi biết có những người không hiểu lời ca tôi đang hát, nhưng họ có thể rung cảm với giai điệu và cảm nhận được mối liên hệ trong tâm hồn với những người xung quanh. Flamenco giống như chính cuộc sống vậy, chúng tôi hát về tình yêu, hạnh phúc, nỗi thống khổ..., về tất cả những gì con người từng trải qua trong cuộc đời mình". Những ca khúc Flamenco đều có chung một số giai điệu cơ bản, tuy nhiên một phần không thể thiếu để tạo nên tố chất riêng là đàn ghi ta, tiếng vỗ tay hoặc tiếng gõ nhẹ vào hộp đàn... Tất cả đều mang màu sắc nguyên thủy, hoang sơ của dân ca miền Nam. Người hát được gọi là cantaor hay cantaora, được đệm nhạc bởi một người chơi ghi ta và một hoặc hai người vỗ tay điểm nhịp trở thành một bộ hoàn chỉnh khi biểu diễn Flamenco. Các chủ thể thông thường hướng đến tình yêu, sự mất mát, nỗi luyến tiếc quá khứ hay ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên. Làm nền cho bài hát có thể có một hoặc hai vũ công dậm chân theo nhịp nhạc. Nếu vũ công là nữ thì họ sẽ cầm vạt váy ken nhiều lớp lót, hua hua trước ngực nhằm phô diễn sức sống, nét gợi cảm của phái nữ. Cái làm người xem thích thú nhất là những nhịp vỗ tay rộn ràng theo điệu nhạc dễ lôi cuốn mọi người cùng tham gia. Đôi khi họ hét lên những tiếng đầy phấn khích để khuyến khích hoặc tán dương người biểu diễn. Vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX, loại hình nhạc hội Flamenco bị mai một và dần rơi vào quên lãng. Thể loại nhạc này chỉ thực sự nở rộ trong một vài năm gần đây. Nó đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến dòng nhạc pop của Tây Ban Nha cũng giống như ngôn ngữ La ting trở thành chủ thể trong thế giới Anh ngữ. Flamenco là một sự tái tạo nghệ thuật âm nhạc truyền thống cổ xưa của người Di gan xứ Andalusia... đã được kết tinh vào cuối thế kỷ 19 nhờ các danh ca, nhà soạn nhạc dân gian. Họ đã phát triển những vở ca kịch cổ thành cuốn sử ca mô tả lại cuộc nội chiến thời kỳ đầu công nguyên. Theo nhà nghiên cứu flamenco học Nunez thì Flamenco đã trải qua một sự cải tiến lớn trong suốt chế độ độc tài của Francisco Franco (1939-1975) khi nó được tái hư cấu và phổ biến trong một phiên bản hợp nhất có tên là "lo folclorico". Mục đích của Franco là thống nhất hoá các dòng Flamenco. Khi Franco mất, mối quan tâm đến thể loại nhạc này cũng chìm vào quên lãng. Thế vào đó là các trào lưu nhạc mới tràn vào từ các nước Mỹ và Anh và không còn ai muốn biết về Flamenco nữa. Thật lạ là sau đó, trong thập kỷ 70 và đầu những năm 80, ở Tây Ban Nha đã nổi lên những tài năng lớn như nghệ sĩ ghi ta Paco de Lucia, một nhạc sĩ có tầm cỡ quốc tế của Tây Ban Nha, và ca sĩ Camaron de la Isla, hình ảnh thu nhỏ của nghệ thuật dân gian Tây Ban Nha đối với giới hâm mộ nghệ thuật Flamenco. Ông Nunez cho biết: "Hôm nay, Flamenco đã lại trở thành một phần không thể thiếu của nền văn hóa truyền thống Tây Ban Nha. Dòng nhạc này đã được hồi sinh nhờ chính sức mạnh văn hóa tiềm ẩn trong nó. Phan Thanh Bình (from VIM)
|
|
|
Post by Robot on May 20, 2004 7:02:04 GMT -5
Truyền Thuyết Về Cây Đàn Guitar
Ngày xưa có một cụ già và người con gái sống ở miền Nam Tây Ban Nha trong một ngôi nhà gỗ. Thời đó, cụ già nổi tiếng là một người thợ mộc giỏi, có người còn nói cụ là người thợ mộc tài danh nhất! Con gái của cụ tên là Citrạ Nàng có giọng hát tuyệt vời có một không haị Mỗi lần nàng cất tiếng hát, mọi người đều dừng lại lắng nghe, ngay cả chim trên cành cũng im hót để thưởng thức... Đâu chỉ có thế, giọng hát của Citra còn có năng lực chữa bệnh thần kỳ. Dân chúng khắp miền nam Tây Ban Nha thường tìm đến yêu cầu nàng hát mỗi khi có dịch bệnh phát sinh.
Một đêm mưa bão, có người gõ cửa ngôi nhà gỗ của cha con nàng! Họ mở cửa. Đứng trước ngưỡng cửa là một bà già khốn khổ, áo quần tả tơi ướt đẫm. Bà già lạnh cóng, cơ hồ đứng không muốn nổi. Hai cha con vội vàng nhóm bếp lò và mang quần áo khô cho bà cụ, rồi cho bà uống sữa nóng với mật ong cho lại sức.
Sáng hôm sau, khi bà cụ đã hồi sức, bà cho Citra biết cụ có một cô cháu nội đang ốm nặng sắp chết vì mắc phải một căn bệnh là kỳ khiến mọi lang y đều bó tay. "Đó là lý do một bà già như lão phải lặn lội cả tháng trời đến đây gặp cô, Citra ạ, chỉ để cầu xin cô cứu cháu nội tôi." Và bà lão ngồi hàng giờ kể cho Citra nghe về cô cháu. Càng nghe, Citra càng cảm thấy gần gũi, gắn bó với cô gái đáng thương chưa quen biết như thể đã thân thiết tự bao giờ.
Hôm sau, nàng cáo từ cha già để theo bà lão đi cứu cô cháu bằng chính giọng hát của nàng. Người cha nhờ hai người bạn đi theo hỗ trợ và sau mấy tuần lễ họ đã đến một ngôi làng ở Asturias. Cô cháu của bà cụ đã ngất liệm, thoi thóp gần chết. Citra liền cất tiếng hát. Chưa bao giờ trong đời mình nàng hát hay đến như thế! Nàng hát mãi không thôi... cho đến ngày thứ ba thì cô gái mở mắt tỉnh dậy. Căn bệnh quái ác đã được cứu chữa!
Nhưng trên đường về, một trận bão tuyết trên vùng núi lạnh đã chôn vùi Citra và hai người bạn già đồng hành. Khi bão đã tan, may sao một đoàn người bắt gặp Citra vùi sâu trong tuyết và lạnh cứng như chết. Họ đã cứu nàng và đưa về với người cha già.
Citra thoát chết, nhưng vì thanh quản đã bị liệt vì tuyết lạnh, nàng không bao giờ còn cất tiếng hát được nữa. Thế là nàng trở nên u sầu, lúc nào cũng đắm chìm trong một trạng thái ưu uất đáng sợ...
Nóng lòng muốn cứu con gái, người cha bỗng nhớ ra mình còn một súc gỗ hồng trong nhà kho chứa đồ làm mộc của mình. Thế là ngày ngày ông cụ hết chăm lo cho Citra lại đục đẽo trong nhà kho âm thầm làm một món quà cho con gái. Ông cưa gọt cả năm ròng và cuối cùng hoàn thành một thứ nhạc cụ lạ kỳ nhưng xinh đẹp mang hình dáng một người thiếu nữ. Sau đó ông nhờ những người thợ săn trong làng săn về cho ông hai con naị Một con lớn, ông lấy gân chân căng ra làm những sợi dây trầm; còn con tơ, ông ấy gân căng làm những dây bổng.
Khi cây đàn hoàn tất, ông đứng trước cửa nhà vuốt ngón tay trên những sợi dây đàn gân thú. Một chuỗi âm thanh sâu lắng, quyến rũ ngân rung... Lần đầu tiên, từ khi bình phục, Citra bước ra ngưỡng cửa tìm xem những âm thanh thần tiên ấy phát ra từ đâu.
Người cha trao cho nàng cây đàn độc đáo ấy. Citra nâng đàn lên và ắt đầu dạo nhạc. Tiếng đàn bay bổng... Dân chúng khắp miền nam Tây Ban Nha tìm đến xem chiếc đàn lạ lùng ấy. Mỗi lần nàng cất tiếng đàn, mọi người đều dừng lại lắng nghe, ngay cả chim trên cành cũng im hót để thưởng thức... Đâu chỉ có thế, tiếng đàn của Citra còn có năng lực chữa bệnh thần kỳ như tiếng hát của nàng ngày trước. Dân chúng thường tìm đến yêu cầu nàng đàn mỗi khi có dịch bệnh phát sinh....
Cái tên Citra dần lan truyền khắp thế giới và cây đàn đã được đặt theo tên nàng cũng được mô phỏng ở khắp nơi. Ở Ấn Độ, cây đàn của nàng được gọi là đàn Sitar (hay Chitar), ở Ý nhạc cụ này được gọi là Chitarra. Một số nơi khác, chữ “C” được đổi thành chữ “G” và thế là ngày nay ta có đàn Gitara ở Tây Ban Nha, đàn Guitare ở Pháp, đàn Guitar ở Anh-Mỹ, và đàn Ghi-ta ở Việt Nam.
Trần Đức Tài (theo Naftali Lahav)
|
|
|
Post by Robot on May 20, 2004 7:06:38 GMT -5
Guitare tức là Segovia Andrès SegoviaCâu nói ngày xưa của Tây Ban Nha: “Ai nói về đàn guitare là nói về Segovia”. Chỉ một lời thôi thấy cả hình dáng khổng lồ của người nghệ sĩ Guitare kiệt xuất nhất mọi thời đại này. Người đầu tiên không nghĩ rằng chính mình đã góp phần hình thành nên một trong những niềm tự hào của dân tộc Tây Ban Nha, có lẽ là ông chú Eduardo đã nuôi dạy Segovia thời thơ ấu. Và mỗi khi thằng bé khóc cay đắng nhớ mẹ thì ông lại cầm bàn tay nhỏ xíu của cậu gảy lên 6 sợi dây đàn guitare một giai điệu Andalucia ngọt ngào. Thế kỷ 20, năm mở đầu. Cậu bé Segovia 7 tuổi rời thành phố Linares quê hương đến ở Granada tưng bừng lễ hội, chợ phiên với tiếng đàn của Guitare lang thang. Guitare Tây Ban Nha có 6 dây, mỗi dây hát một tiếng lòng. Chẳng có thứ đồ chơi trẻ con nào quyến rũ Segovia bằng chiếc Guitare. Cậu bé thích nằm gối tay trên đống cỏ khô cho ngựa, nhìn trời, nghe các gã trai Digan đánh điệu Tango Flamenco bốc lửa hơn ngồi nếm những thứ bánh bà thím Maria làm trong ngày lễ thánh Pe’dro. Cho đến một ngày Segovia được thấy trong quán rượu vùng ngoại ô Granada nghệ sĩ Almadobar chơi “Prelude” của Tarrega vĩ đại. Cậu bé đã cười, đã khóc, đã quì xuống hôn tay con người sáng tạo nên những âm thanh thần thánh. Tình yêu âm nhạc của Segovia đã cháy bùng thành ngọn lửa và chỉ tắt lịm cùng với trái tim già nua gần một thế kỷ thổn thức của ông. Dĩ nhiên, thần tượng của Segovia là Tarrega và Sor. Cậu bé thực sự hạnh phúc khi ngồi giam mình với cây guitare trong căn phòng sát mái nhà, bồn bề những đồ vật cũ, dò dẫm đánh các Etudes và Fantaisies của hai nhà soạn nhạc guitare bậc thầy này, say mê, háo hức như lạc vào xứ thần tiên. Thỉnh thoảng từ dưới quảng trường vọng lên qua khung cửa sổ bé xíu tiếng tung hô của công chúng cho một Metador vừa chiến thắng ngoài đấu trường. Như mọi người Tây Ban Nha chân chính, Segovia vô cùng kiêu hãnh về các võ sĩ đấu bò lừng danh của quê hương mình, đâu có biết rằng sau này cả Tây Ban Nha còn kiêu hãnh hơn về cậu. Không phải với một tấm khăn choàng đỏ như lửa mà với cây đàn guitare biết hát ca, biết bày tỏ, biết rung lên nhưng tiếng tơ thầm kín nhất của tâm hồn. Tuổi thơ kể cũng êm ả nếu bà thím Maria không thường rầy la: “Thằng bé chẳng chịu học hành tử tế, lớn lên làm gì mà ăn?”. Và dù bà có tròn mắt khủng khiếp khi nghe từ chính miệng ông cháu: “Sẽ chơi guitare” thì định mệnh đã an bài – Chúa trời đã kết duyên Segovia với Guitare. Buổi công diễn đầu tiên của Segovia là vào cuối năm 1909 ở “Trung tâm nghệ sĩ” Granada. Thắng lợi vang dội! Ông chú đã phải lau đẫm một chiếc khăn tay những giọt nước mắt sung sướng của bà thím Maria chứng kiến cảnh công chúng nồng nhiệt hoan hô cháu bà. Sau đó đến lượt Sevilla. Chàng trai 17 tuổi đã “chiếm đoạt” được trái tim của người thành phố phương Nam này. Họ gọi Segovia là “Tâm hồn thơ của Andalucia”. Từ đây trước mặt Segovia là Madrid – nơi phán xử cuối cùng của những tài năng âm nhạc. Thế nhưng, thủ đô của Tây Ban Nha hết sức lãnh đạm với chàng thanh niên tràn đầy tham vọng. Xưa nay người Tây Ban Nha (và cả thế giới) chỉ xem guitare như thứ nhạc cụ của những quán rượu, hội hè, đường phố… Bởi thế, ý đồ tổ chức một buổi độc tấu guitare trên sân khấu của nhạc viện, nơi chỉ dành cho những bậc thầy tài danh như Granados (piano), Casals (cello)…, giới âm nhạc “bác học” ở Madrid cho là một sự ngạo mạn. Làm sao có thể mở ra chiều sâu tình cảm, tư tưởng các tác phẩm của Mozart hay Bach? Ngay Tarrega, một Guitarist lỗi lạc nổi tiếng khắp bán đảo Pyrenees với những “Hồi tưởng về Alahambra”, “Caperice Ả Rập” bất hủ, ngay cả Paganini – “Vua Violin” đã tấn Guitare là “hoàng hậu” mà cũng không làm lung lay được định kiến với guitare như thứ nhạc cụ “xướng ca” dân dã, huống hồ một gã thanh niên mới 20 tuổi! Segovia bị chặn lại trước “cổng thành” Nhạc viện Quốc gia. Chàng trai đi về phía Đông Valencia, quê hương của Tarrega (Segovia coi như là quê hương của guitare) chàng trai đã gặp học trò giỏi nhất của Tarrega – Mighl Liobet. Segovia thốt lên: “Không có một guitarist nào bắt tôi phải quên đi những khả năng hạn chế của cây đàn này và lại mở cho tôi thấy những tiềm năng phong phú đến dị thường của nó như ông!”. Thế nhưng, Segovia thực sự ngạc nhiên thấy Liobet chỉ thích biểu diễn trong các tư gia hoặc sân khấu nhỏ. Học trò Tarrega nói: “Phòng hòa nhạc quá mênh mông để đàn Guitare “tràn ngập” được nó. Thính giả phải căng tai nghe – một điều chẳng thích thú gì! Đã vậy không có nhiều những tác phẩm đặc sắc viết cho guitare đủ để hấp dẫn công chúng và giới phê bình”.
|
|
|
Post by Robot on May 20, 2004 7:06:57 GMT -5
Segovia không tin và anh đã làm “tràn ngập” tâm hồn của hơn 1000 thính giả trong phòng hòa nhạc lớn Palau ở Barcelona. Công chúng hoan hỉ tột độ. Giới báo chí gọi Segovia là “Paganini của Guitare”… Tên tuổi của anh bay khắp Tây Ban Nha. Chỉ còn lại Madrid!
Vecada là ông bầu trùm âm nhạc ở Madrid thẳng thừng từ chối Segovia tổ chức những buổi độc tấu Guitare, mặc dù anh đã dâng lên cho ông một loạt thành phố đã bị Guitare – Segovia “chinh phục”: Sevilla, Barcelona, Malaga, Billao…
Tuy nhiên, như mọi người thực thông minh, sáng ra Kecada đã nghĩ lại. Ông “cho” Segovia biểu diễn không công ở gian nhỏ của khách sạn “Risch”. Thành công vang dội đến mức ông bầu trùm nhạc ở Madrid đã lấy hai tay mở tung cánh cửa gian lớn của Nhà hát Lớn thủ đô “La Comedia” đón Segovia vào. Ông ta không nhầm! Và Vecada sẽ còn nhớ mãi không khí chiến thắng tưng bừng của ngày hôm ấy. Sân khấu đầy hoa. Người nghe đứng chật hành lang. Đàn bà ném khăn lên người Segovia. Đàn ông vỗ tay, miệng la “bis”, “bis”. Các bậc mũ cao áo dài trong giới âm nhạc xuýt xoa…
Chàng trai tỉnh lẻ Granada đã đưa cây đàn guitare từ ngoài đường phố “đột nhập” vào các phòng hòa nhạc lớn sơn son thếp vàng của dòng âm nhạc chính thống, lên ngôi cho nó. Sau Madrid, “Guitare – Segovia” chinh phục xong Tây Ban Nha và bây giờ là thế giới.
Trước hết là Pháp, đất nước bên kia dãy Pyrene’es. Năm 1924, người ta thấy trong nhạc viện Paris một cuộc biểu dương sức mạnh nghệ thuật của “thầy phù thủy Guitare”. Những đại biểu xuất sắc nhất của âm nhạc hiện đại đã bị Guitare – Segovia bắt hồn trong lưới âm thanh huyền diệu bung ra từ 6 dây đàn. Paris rất hạn chế nói đến sự ngạc nhiên! Vậy mà ở các tòa báo và quán café, người ta chỉ bàn về “phép lạ Tây Ban Nha”! Dưới những ngón tay thần của Segovia, guitare đã hát như một cô gái đáng yêu, thổn thức tiếng lòng như một thi sĩ và suy tư như triết gia.
Dường như ông không gảy vào dây đàn, mà ve vuốt nó như đang âu yếm người tình. Âm thanh đã đầy vẻ đẹp lại còn có cả “hương vị”! Ấn tượng thật khó diễn tả bằng lời. Cây đàn guitare quen thuộc biến thành một nhạc cụ mới, hấp dẫn công chúng cố đến thật gần sân khấu để nhìn cây đàn và người nghệ sĩ chơi đàn. Không có một hành động kịch. Không có một sự khoa trương. Không vung tay, không lắc đầu. Lối Segovia chơi vô cùng tự nhiên, đơn giản. Đó là khả năng tuyệt diệu lắng nghe chính mình và cây guitare của mình.
Chính ở Paris, Segovia đã chơi “Chacone” của Bach. Bach trên guitare! Sự kết hợp này với ai có thể là sự lố bịch, ngạo ngược. Nhưng đây lại là Segovia! Ông rất táo bạo đi tới “Chacone” với một tinh thần đổi mới sâu sắc và khát khao mở rộng vô cùng khả năng của cây guitare. Quan niệm cho rằng guitare là thứ nhạc cụ biểu đạt kém những tư tưởng triết học đã bị “Chacone” – Segovia phủ nhận hoàn toàn. “Phù thủy” Segovia biến hóa cây guitare gần như một violin – Đấy là thiên tài của ông.
Trong cuộc “Đông tiến” chinh phục thế giới, Segovia đã đến tận Nhật. Ông là Guitarist độc tấu đầu tiên đã “chiếm lĩnh” đất nước “mặt trời mọc”. Nhà phê bình Tacahoshi nói: “Segovia không thuộc dạng những nghệ sĩ phô diễn kỹ thuật. Ông là người nghệ sĩ đầy cảm hứng. Nghe đàn Segovia lần đầu tiên tôi hiểu được Beethoven. Đúng biết biết chừng nào khi nói: “Guitare thực chất là một dàn nhạc! Segovia đã sáng tạo một thế giới kỳ diệu của thơ ca và huyền thoại. Tôi tưởng như rằng Chúa trời đã xuống trái đất!” Đến đầu những năm 30 thế kỷ chúng ta, Segovia đã bước vào hàng các nhà biểu diễn tài danh bậc nhất: Koussevitzky, Purtwengler, Cortot, Kreisler. Tiếng đàn của ông như cây gậy thần mở tung mọi cánh cửa phòng hòa nhạc, dù đó là Conrent – Garden hay Nhà hát Bolshoi…
Bây giờ thì nỗi lo âu của Liobet cho guitare không còn nữa. Segovia đã “dứt” Guitare ra khỏi tay các nhà soạn nhạc hạng hai trao lại cho những bậc thầy. Hàng loạt các nhà soạn nhạc nổi tiếng cảm hứng tiếng đàn của ông viết riêng cho guitare từ những tiểu phẩm đến concerto, sonata: Scott (Anh), Costelnuovo Tedesco, J.Iber (Pháp), C.Pedrel (Achentina), M.Ponce (Mehico). Villa Lobos, nhà soạn nhạc Braxin lỗi lạc, một guitarist sành điệu đã tặng Segovia “concerto cho guitare với dàn nhạc”. Rodrigo hàm ơn cuộc đời bằng một kiệt tác chân chính của nghệ thuật guitare hiện đại: Bản “Fantaisie cho chàng hiệp sĩ cao quí Andres Segovia” v.v… và v.v…
Từ một cây đàn dân gian “đồng nội”, nhờ có Segovia ngày nay guitare đã trở thành một nhạc cụ được phổ biến và yêu thích nhất. Đây không phải một tình yêu thời thượng mà có sức mạnh vĩnh hằng. Hàng triệu người trên trái đất đã đến các phòng hòa nhạc lắng nghe J.William – “Vua guitare” ở Anh, A.Dias ở Venezuela, H.Tomas ở Tây Ban Nha, K.Parkening ở Mỹ, O.Triglia ở… Tất cả đều là học trò của Segovia.
Segovia là nhà sư phạm lỗi lạc. Nguyên tắc giáo dục căn bản của ông: Một guitare trước tiên phải là một người nhạc sĩ. Lẽ nào guitarist chơi “Chacone” theo bản chuyển biên (Transereption) của Segovia chỉ cần thế giới tâm hồn hẹp hơn Pianist chơi “Chacone” theo bản chuyển biên của Rusoni?
Cuộc đời Segovia là cuộc kết hôn chung thủy với cây guitare. Tình yêu lao động, khát vọng hoàn thiện không ngừng đã nuôi dưỡng sức quyến rũ ma thuật của Segovia ở tuổi 90! Trên sân khấu hòa nhạc. Ông được trao tặng vô số phần thưởng danh dự, từng là Viện sĩ Hàn Lâm (cho một Guitarist!), nhưng tình yêu của hàng triệu con người được ông đưa đến một trời nghệ thuật cao quí và thanh khiết với Guitare – Segovia mới là điều ông quí nhất.
Ngày nay, nếu có đến Tây Ban Nha, thăm thành phố Linares bạn sẽ thấy trên đường phố Hose’Antonio ngôi nhà 3 tầng giản dị có một tấm bảng đá hoa viết rằng: “Nơi đây, ngày 21.2.1893 đã ra đời Andres Segovia thiên tài – Người con lỗi lạc của thành phố Linares”. Segovia từ trần ngày…
Hà Linh Quân
|
|