|
Post by con dzit on Jan 15, 2004 12:30:25 GMT -5
Việt Nam có rất nhiều lễ tết cổ truyền rất ý nghĩa ở nhiều thời ðiểm khác nhau trong nãm.Nhýng nhắc ðến Tết, chúng ta thýờng nghĩ tới một dịp vui ðầu nãm mới - Tết Nguyên ðán (còn gọi là Tết cả ) Là tết lớn nhất trong nãm, Tết Nguyên ðán (Tết cả ) vào ðúng ngày Mùng một tháng Giêng - ngày ðầu tiên của nãm mới. Theo phong tục cổ truyền Việt Nam, Tết Nguyên ðán trýớc hết là tết của gia ðình. Trong ba ngày tết, diễn ra ba cuộc gặp gỡ lớn ngay tại mỗi nhà: Thứ nhất là cuộc "gặp gỡ" của những gia thần: Tiên sý hay Nghệ sý - vị tổ ðầu tiên dạy nghề gia ðình mình ðang làm, Thổ công - thần giữ ðất nõi mình ở và Táo quân - thần coi việc nấu ãn của mọi ngýời trong nhà (Táo quân lên chầu trời ngày 23 tháng Chạp nhýng ðến ngày 30 cũng về ðể "họp mặt" và chuẩn bị cho nãm mới). Thứ hai là cuộc "gặp gỡ" tổ tiên, ông bà... những ngýời ðã khuất. Nhân dân quan niệm linh hồn ngýời ðã khuất cũng về với con cháu vào dịp Tết. Thứ ba là cuộc ðoàn tụ của những ngýời trong nhà. Nhý một thói quen linh thiêng và bền vững nhất, mỗi nãm Tết ðến, dù ðang ở ðâu, làm gì, trong hoàn cảnh nàọ.., hầu nhý ai cũng mong muốn và cố gắng trở về quây quần với gia ðình. Dịp Tết Nguyên ðán ngýời ta làm bánh chýng, trồng cây nêu, ði chúc mừng nhau, mở hội, tổ chức các cuộc vui chõi thi ðấu, ãn uống... rất týng bừng. Trên các bàn thờ, ngoài lễ vật, mâm ngũ quả, bánh chýng... còn thýờng có một cành ðào (ở miền bắc) hoặc mai (ở miền nam). Tết Nguyên ðán thực sự là ngày hội ngộ lớn, ngày nhớ õn, tạ õn, chúc mừng, sum họp vui vẻ và thiêng liêng.
|
|
|
Post by con dzit on Jan 15, 2004 12:36:24 GMT -5
Tết Nguyên đán có từ bao giờ? Nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ thời Ngũ Đế, Tam Vương. Đời Tam Vương, Anh Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng Giêng, nhằm tháng Dần (con cọp) làm tháng đầu năm, do đó Tết Nguyên Đán vào đầu tháng Dần. Nhà Thượng, thích màu trắng nên chọn tháng Sửu (con trâu) tức tháng chạp làm tháng đầu năm. Đến thời nhà Chu ( 1056- 256 trước công nguyên) ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý (con chuột ) tức tháng Mười Một làm tháng Tết. Các vui nói trên, theo ngày giờ lúc mới tạo thiên lập địa: Nghĩa là giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh ra loài người mà đặt ra ngày Tết khác nhau. Đến đời Đông Chu, Khổng phụ Tử ra đời, đổi ngày Tết và một tháng nhất định: tháng Dần. Mãi đến đời Tần ( thế kỷ III trước công nguyên), Tần Thuỷ Hoàng lại đổi qua tháng Hợi ( con lợn), tức tháng Mười. Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế ( 140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần ( tức tháng Giêng) từ đời Hạ và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa. Đến đời Đông phương Sóc, ông cho rằng tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ bốn sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế ngày Tết được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy.
|
|
|
Post by con dzit on Jan 15, 2004 12:41:00 GMT -5
Ngày Tết có những phong tục gì? [/center] Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay như khai bút, khai canh, hái lộc,chúc Tết, du xuân, mừng thọ.... Từ già đến trẻ ai cũng biết, ngày tết trong nhà ít nhất cũng phải có cành hoa, bánh trưng, chai rượu... Sau đây chúng tôi xin nêu ra một số phong tục đáng đựoc duy trì và phát triển. Tống cư nghinh tân:Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, cùng hàng xóm vệ sinh nhà thờ, đường xóm, tắm giặt, mua sắm quần áo mới và mọi thứ thức ăn, vận dụng trong ngày tết... Nhiều gia đình nhắc nhở, dặn dò con cháu từ phút giao thừa trở đi, không cãi cọ nhau, không vứt rác bừa bãi, không nghịch ngợm, trách phạt nhau.... Đối với hàng xóm láng giềng, trong năm cũ có điều gì không hay không phải đều xuý xoá hết, tất cả mọi người dù lạ dù quen, sau phút giao thừa đều niềm nở, vui vẻ và chúc nhau những điều tốt lành. Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi: Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khoẻ tiến bộ, thành đặt hơn năm cũ. Lộc tự nhiên đến càng sớm càng tốt, nhưng nhiều nhà chủ tự đi hai lộc ( chỉ là một cành non ở đình chùa, ở chốn nghiêm trang về nhà ), tự mình xông nhà hoặc dặn trước người “ nhẹ vía” mà mình thích đến xông nhà. Đáng lẽ sáng mồng một đông vui lại hoá ra ít khách, không ai dám đi đến nhà khác sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay lại đổ tại mình “ nặng vía”, vì tục xông nhà chỉ tính người đầu tiên đến nhà, từ người thứ hai trở đi không tính. Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ. ông bà, cha mẹ cũng chuẩn bị một ít tiền để mừng tuổi cho con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm làng giềng, bạn bè thân thích, đồng thời chúc nhau những lời chúc tốt đẹp. Người nào thích điều gì thì chúc điều đó, chúc sức khoẻ là phổ biến nhất, luôn hướng tới sự tốt lành và kiêng nói tới những điều rủi ro hoặc xấu xa. Quanh năm làm ăn vất vả, ít có điều kiện qua lại hỏi thăm nhau, nhân ngày lễ tết đến chúc mừng nhau, gắn bó tình cảm. Nhiều nhà, hễ đến chúc tết nhau nhất thiết phải nâng ly rượu, nếm vài món thức ăn gì đó chủ mới vui lòng, năm mới từ chối sợ bị “ giông” cả năm. Quà tết, lễ tết: Việc biếu quà tết có ý nghĩa tỏ ân nghĩa tình cảm, con rể tết bố mẹ vợ, học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc... Quà biếu, quà tết đó không đánh giá theo giá trị thị trường, nhưng cũng đừng nên gò bó, câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: không có quà ngại không dám đến. Lễ mừng thọ: Ở các nước Tây Âu thường mừng thọ vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ở nước ta ngày xưa ít ai nhớ chính xác ngày sinh tháng đẻ nên vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thất tuần, bát tuần, cửu tuần.... tính theo tuổi mụ. Ngày tết, ngày xuân cũng là dịp mọi người đang rảnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui. Cũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ấn, học trò sẽ khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở cửa hàng lấy ngày. Sau ngày mồng Một, tất cả “ Tứ dân bách nghệ” đều chọn ngày “khai nghề”, nếu mồng Một là ngày tốt thì chiều mồng một đã bắt đầu, riêng khai bút thì giao thừa xong chọn giờ hoàng đạo thì bắt đầu. Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượu chè, nhưng trong dịp Tết, nhất là tối 28, 29, gia đình quây quần bên nồi bánh trưng thì cho phép được vui chơi như tam cúc, cờ tướng, chắn, tổ tôm, tú lơ khơ...., bao gồm cả trẻ con, người lớn và những gia đình lân cận, ai thích trò nào chơi trò ấy. Đến khi hết tết sẽ thu lại hoặc đốt luôn khi hoá vàng tiễn đưa ra tiên. Kiêng không hót rác đổ đi trong ba ngày Tết: Tục này nguyên từ bên Tàu, trong “ Sưu thần kỳ” có chuyện người lái buôn tên là Ân Minh được thuỷ thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà được vài năm thì giàu lên. Một hôm nhân ngày mồng Một tết, Ân Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Ân Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không hót rác ngày tết, ta bắt chước và đến nay vẫn nhiều người theo tục này. Cúng giao thừa ngoài trời: Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên Đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom thiên hạ dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có vị trí như quan toàn quyền. Và các cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả... ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới để mong các quan phù hộ cho một năm mới mọi sự tốt lành.
|
|
|
Post by con dzit on Jan 15, 2004 12:58:09 GMT -5
Giao thừa [/color] Lẽ trời đất có khởi thuỷ phải có tận cùng, một năm có bắt đầu ắt phải có kết thúc, bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa.
Giao thừa là gì?Theo từ điển Hán Việt của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới đón lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này, có lễ trừ tịch
* Lễ trừ tịchTrừ tịch là giờ phút cuối cùng của năm cũ sắp bắt đầu qua năm mới. Vào lúc này, dân chúng Việt nam theo cổ lệ có làm lễ TRỪ TỊCH. Ý NGHĨA CỦA LỄ NÀY LÀ ÐEM BỎ HẾT ÐI NHỮNG ÐIỀU xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt đẹp của năm mới sắp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để " khu trừ ma quỷ", do đó có từ "trừ tịch". Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa
* Cúng ai trong lễ giao thừa:Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông hành khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà.
*Sửa lễ giao thừa:Người ta cúng giao thừa tại các đình, miếu, các văn chỉ trong xóm cũng như tại các tư gia. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở giữa trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm chiếc mũ của Ðại Vương hành khiển.
Ðến giờ phút trừ tịch, chuông trống vang lên, người chủ ra khấu lễ, rồi mọi người kế đó lễ theo, thành tâm cầu xin vị tân vương hành khiển phù hộ độ trì cho một năm nhiều may mắn. Các chùa chiền cũng cúng giao thừa nhưng lễ vật là đồ chay. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì giản tiện hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.
*Tại sao cúng Giao thừa ngoài trời:Dân tộc nào cũng coi phút giao thừa là thiêng liêng. Các cụ ta quan niệm: Mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một ngài có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: được mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Trái lại, gặp phải ông lười biếng, kém cỏi, tham lam thì hạ giới chịu mọi thứ khổ.
Các cụ hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần ta không nhìn thấy được) thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà Trời đã cai quản mình năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà..
*Lễ cúng Thổ Công:Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ cũng khấn Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa.
* Mấy tục lệ trong đêm trừ tịch
- Sau khi làm lễ giao thừa, các cụ ta có những tục lệ riêng mà cho đến nay, từ thôn quê đến thành thị, vẫn còn nhiều người tôn trọng thực hiện.
- Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình và nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
- Kén hướng xuất hành: Khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
- Hái lộc: Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là "lấy lộc" của Trời đất Thần Phật ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
- Hương lộc: Có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó về cắm và bình hương bàn thờ nhà mình.Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật ,Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
- Xông nhà: Thường người ta kén một người " dễ vía" trong gia đình ra đi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lễ trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái cành lộc ở đình chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và ngưòi này sẽ tự "xông nhà" cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người nhà dễ vía người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông nhà trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại sự may mắn dễ dãi.
|
|
|
Post by Oshin on Jan 31, 2005 11:25:46 GMT -5
Mâm ngũ quả ngày Tết Dù ở thành phố hay nông thôn, dù nhà khá giả hay nghèo khó, trên bàn thờ ngày Tết cổ truyền của mọi gia đình nước ta đều có mâm ngũ quả để thờ cúng tổ tiên. Quan niệm về mâm ngũ quả ở mỗi vùng, mỗi địa phương và mỗi hoàn cảnh cũng khác nhau; Có khi chỉ gồm hai, ba loại quả, nhưng cũng có khi tới hàng chục loại khác nhau.
Mối liên hệ giữa ngũ quả và ngũ hành
Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 trạng thái vật chất cấu tạo nên vũ trụ.
Kim màu trắng, mộc màu xanh, thủy màu đen, hỏa màu đỏ, thổ màu vàng. Mâm ngũ quả cũng lung linh năm sắc màu đó.
Các quả thường được bày vào dịp Tết là: Bưởi, chuối, hồng, cam, quýt, quất, xoài, táo, đào, na (mãng cầu), đu đủ, dưa hấu... Tất cả đều là sản phẩm được tạo nên bởi sự giao hòa của trời đất (càn khôn), là kết quả lao động của con người.
Trong những ngày Tết, ai cũng muốn tỏ lòng biết ơn trời đất tổ tiên nên bày mâm ngũ quả thờ cúng để “báo” tổ tiên những thành quả của năm qua, mong muốn năm mới sẽ thành công hơn.
Khi chưng mâm ngũ quả, người cao niên thường chọn các quả có ý nghĩa như: Quả bưởi tròn ý nói sự đầy đủ, sung túc; Quả na nhiều hạt ngụ ý sự sum vầy đông con cháu; Quả quất tượng trưng cho người quân tử; Quả đu đủ là sự cầu mong của những gia đình nghèo được “đủ ăn”.
Theo các nhà dược liệu và thầy thuốc Đông y thì mâm ngũ quả cũng là một tập hợp của nhiều vị thuốc.
Tác dụng chữa bệnh của một số loại quả trong mâm ngũ quả
* Quả bưởi (quả bòng): người Thái gọi là cọ phúc, thuộc họ cam quýt - Rutaceae.
- Lá bưởi có tác dụng chữa cảm (dùng cùng một số lá khác để nấu nồi thuốc xông chữa cảm sốt).
- Vỏ bưởi dùng chữa đầy chướng bụng, bí tiểu.
- Vỏ hạt bưởi có chất pectin để cầm máu.
- Múi bưởi giúp giải khát, dùng tốt cho người tiểu đường.
- Hoa bưởi có hương thơm đặc biệt, dùng ướp trà và một số thực phẩm.
* Đu đủ: còn có các tên là phiêu mộc, phan qua thụ, mắc hung.
Quả chín có tác dụng bổ dưỡng, rất tốt cho trẻ em và người cao tuổi, người mới khỏi bệnh.
Đu đủ xanh chứa chất papain có tác dụng phân giải tế bào, giúp nấu thịt chóng mềm. Rễ đu đủ dùng làm thuốc cầm máu.
Hoa đu đủ hấp đường phèn làm thuốc chữa ho cho trẻ em khàn tiếng.
Ở châu Phi, dân gian còn dùng lá đu đủ để chữa khối u.
* Quả hồng: tên khác là thị đinh.
- Tai quả hồng còn có tên Thị đế dùng chữa khí nghịch - nấc.
- Thị sương là chất đường tiết ra từ quả hồng; dùng chữa đau rát họng, khô họng.
- Thị tất là nước ép từ quả hồng xanh, dân gian dùng chữa cao huyết áp.
* Hồng xiêm: (hình như di thực từ Thái Lan nên có tên này).
Tên khác: Tầm lửa, Sacoche, Saboche. Tên khoa học: Sapota achras.
- Nhựa hồng có tác dụng kích thích tiêu hóa.
- Vỏ quả chữa tiêu chảy
* Chuối: là loại quả giàu dinh dưỡng, tốt cho người cao tuổi và trẻ em bị táo bón. Không dùng chuối cho người tiểu đường. Chuối hương phối hợp bột lòng đỏ trứng gà dùng chữa trẻ suy dinh dưỡng.
Như vậy, mâm ngũ quả là tâm sự gửi gắm của mỗi gia đình, nói lên lòng biết ơn trời đất, tổ tiên, ước muốn đầy đủ và sung túc, hòa hợp như năm sắc màu của thiên nhiên trong ngũ hành.
Theo SK&ĐS
|
|
|
Post by Robot on Feb 5, 2005 15:41:50 GMT -5
Nghe ca khúc mùa xuân qua VietNamNetwww.vnn.vn/vanhoa/amnhac/2005/02/373696Trong dòng chảy sôi động của nhịp sống hiện đại đôi khi chúng ta bất chợt nghe được một giai điệu đẹp và sáng đến mức như lạc vào một thế giới khác. Cái thế giới ấy mới mẻ, tinh khôi và mọi sự đều như mới bắt đầu: Ánh sáng bắt đầu của một buổi sớm mai, tình yêu chớm nở như nụ hồng gửi hương cho gió, đâu đây dòng suối nhẹ chảy chở những cánh đào phai như dấu chỉ phía đầu nguồn có một rừng hoa đang khoe sắc. Đối với cố nhạc sĩ Văn Cao, thế giới ấy là hiện thực tinh thần nhưng đối với giới trẻ ngày nay nó là cõi mộng, là ốc đảo giữa sa mạc tình người. Ca khúc Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao với những bước đi đầu tiên của nền âm nhạc mới chuyên chở khát vọng về cái đẹp, về sự hài hoà giữa con người với thế giới. Điều này khác hẳn với quan niệm, lối sống mang tính xung đột giữa cái tôi cá thể và toàn thể thế giới bên ngoài. Mùa xuân đầu tiên (văn Cao) Đảng cho ta mùa xuân (Phạm Tuyên) Tình ca Tây Bắc (Bùi Đức Hạnh) Bài ca Trường Sơn (Trần Chung) Ta ra trận hôm nay (Văn An) Xuân Tây Nguyên (Kpaylăng) Nhạc rừng (Hoàng Việt) Sông Dakrông mùa xuân về ( Tô Hải) Lá xanh (Hoàng Việt) Xuân chiến khu (Xuân Hồng) Mùa xuân nho nhỏ (Trần Hoàn) Mùa xuân trên thành phố HCM ( Xuân Hồng) Việt Nam ơi mùa xuân đến rồi (Huy Du) Đường chúng ta đi (Huy Du) Mùa xuân trên những triền núi cao Tây Bắc như một tấm thổ cẩm với các nét hoa văn được dệt nên bởi những vạt hoa Ban, hoa mận, hoa đào. Giai điệu của Tình ca Tây Bắc (Bùi Đức Hạnh) vẫn còn độ trong, vẻ sáng nhưng nó là vẻ đẹp hoang sơ của tự nhiên chưa bị con người tàn phá chứ không còn độ trong của cảm xúc như Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao nữa. Cùng lấy cảm hứng từ những vạt rừng nhưng Xuân chiến khu của Xuân Hồng lại đưa chúng ta trở về những ngày đầu kháng chiến của thế kỷ trước. Nét nhạc vừa sáng, vừa vui như những hoa nắng lấp lánh, sinh động trong dòng suối trong vắt như thuỷ tinh. Chất lãng mạn, hiệp sĩ của một thời "Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm / Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa" như một lời nhắc lại quá khứ Những người đã đứng tuổi khi nghe ca khúc này có thể cảm thấy được hơi thở ấm của các chiến sĩ vệ quốc đang bốc khói giữa buổi sáng lạnh lẽo giữa rừng đại ngàn. Vẫn chủ đề mùa xuân, nhưng âm hưởng tráng ca có tác dụng gắn kết mọi người thành một khối thống nhất, tâm hồn vui phơi phới tràn đầy lòng tự hào, tự tôn dân tộc qua các ca khúc mang tính đại chúng của một thời như: Ta ra trận hôm nay; Bài ca Trường Sơn; Sông Dakrông mùa xuân về; Đường chúng ta đi vv... Nhân dịp đầu xuân Ất Dậu, VietNamNet xin giới thiệu cùng độc giả chùm ca khúc đặc sắc này. * VietNamNet
|
|
|
Post by Robot on Feb 6, 2005 10:50:38 GMT -5
Những phong tục đẹp ngày Tết
Mỗi nơi trên thế giới đều có những phong tục đón Tết khác nhau, có phong tục tồn tại và phát triển, có phong tục lại mất đi theo đà tiến hoá của xã hội. Riêng phong tục đón Tết của dân tộc ta bắt nguồn từ những điển tích, huyền thoại xa xưa xem ra có vẻ huyền bí. Nhưng nếu chúng ta tìm hiểu kỹ sẽ thấy nó mang nhiều ý nghĩa thực tế.
Tục cúng Ông Táo
Thường lệ vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, từ thành thị đến thôn quê, khắp nơi trong nước ta dân chúng làm lễ tiễn đưa Ông Táo. Người xưa cho rằng ngày ấy vua Bếp lên chầu Trời để tâu việc làm ăn, cư xử của gia đình trong năm. Qua đó nói lên tình cảm và lý trí của nhân dân ta đối với công việc bếp núc, nhằm đánh giá cao việc chăm sóc dinh dưỡng của đời sống con người và đánh giá lại việc ăn ở của mình trước khi bước sang năm mới.
Tục dựng cây nêu
Một cổ tục của ngày Tết Việt Nam là tục dựng cây nêu. Cây nêu là một cây tre dài chừng 2,5 đến 3m dựng trước sân nhà vào tối đêm giao thừa. Trên ngọn nêu có buộc một cái bùa bát quái vẽ trên giấy đỏ, một chiếc giỏ con đựng trầu cau và những ống sáo, những miếng kim khí lớn nhỏ... Khi có gió va chạm vào nhau chúng phát ra những tiếng leng keng nghe rất vui tai. Ở đây chỉ riêng cái việc dựng nêu trong sân để đón ông bà tổ tiên về ăn Tết cùng gia đình đã nói lên được tính dân tộc, thể hiện tình cảm "uống nước nhớ nguồn". Giỏ trầu cau treo ở cây nêu nói lên ý nghĩa lân bang, tình nghĩa xóm làng (miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu mời khách đến thăm nhà) và lòng yêu âm nhạc thể hiện ở những nhạc cụ mua vui đầu xuân treo trên ngọn nêu.
Tục chơi hoa kiểng
Hoa là linh hồn, hoa là cảnh sắc thiên nhiên trang điểm cho đời, nếu thiếu hoa thì còn gì là ngày Tết nữa. Vì vậy chưng hoa kiểng ngày Tết là một nhu cầu làm đẹp của dân tộc ta có truyền thống từ ngàn xưa, hơn nữa nó còn mang đậm nhiều ý nghĩa.
Trên bàn thờ gia tiên cắm những bông vạn thọ, trường xanh... với sắc hoa vàng rực, đã nói lên được điều ước mong của mọi người là năm mới khoẻ mạnh và trường thọ. Chưng cây hoa đào, hoa mai, với sắc đỏ thắm của đào và những cánh mai vàng rực là những ước mơ hy vọng về sự đổi mới của mọi người, của gia đình, của Tổ quốc - thể hiện phong cách lạc quan, tự tin.
Tục chưng mâm ngũ quả
Ngày Tết, ngoài các thức ăn cúng ông bà tổ tiên trên bàn thờ nhất thiết phải chưng mâm ngũ quả. Chuối là cái nền cho mâm ngũ quả, thứ đến là bưởi hoặc phật thủ, hai loại này bắt buộc phải có. Ba loại còn lại thì tuỳ loại quả có ở mỗi vùng khác nhau. Nhưng chung lại, mâm ngũ quả là những loại trái cây chứa nhiều chất dinh dưỡng, đáp ứng đủ cho nhu cầu hoạt động của con người. Vì vậy, chưng mâm ngũ quả ngày Tết là một ý nghĩa nói lên ước vọng của gia đình bước sang năm mới được no đủ.
Tục chúc Tết
Tết Nguyên đán là những ngày trang trọng, vui tươi nhất của dân tộc ta. Cũng là dịp để mọi người có điều kiện thăm hỏi lẫn nhau: con cháu thăm hỏi cha mẹ, chú bác, ông bà; học trò thăm hỏi thầy cô; gặp mặt bạn bè chúc tụng...
"Mồng một là Tết nhà cha": Sáng mồng một Tết, sau khi lễ gia tiên, người con (hoặc dâu hoặc trưởng) mời cha mẹ ngồi vào hai ghế tựa ở giữa nhà, các con cháu đứng theo thứ tự ngôi thứ: anh chị trước, các em sau, sau cùng là các cháu, mọi người đều mừng thọ và tế sống ông bà, cha mẹ bằng hai lạy và hai vái (người chết thì bốn lạy, bốn vái). Ông bà cũng mừng tuổi các con cháu bằng phong bao được gói bằng giấy hồng điều.
"Mồng hai nhà mẹ": Sáng mồng hai Tết, cha mẹ dẫn đoàn con cháu về quê ngoại chúc tết. Tuần tự lễ tưởng niệm tổ tiên: mừng thọ ông bà ngoại theo nghi thức ở nhà cha, mừng tuổi bà con thân thích bên ngoại và được mừng tuổi lại. Cả hai gia đình cùng chuyện rò vui vẻ và ăn cỗ đầu xuân, càng làm cho tình nghĩa hai gia đình thêm thắm thiết.
"Mồng một là Tết nhà cha, Mồng hai nhà mẹ..." - điều đó chứng tỏ ông cha ta rất coi trọng chữ hiếu, chọn hai ngày đầu năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ hai gia đình nội, ngoại vì hiếu thảo là gốc của đạo đức gia đình.
"...Mồng ba Tết thầy": Công ơn cha mẹ sinh thành, dưỡng dục, công ơn thầy giáo dục tư cách đạo đức, mở mang trí tuệ cho mình, vì thế "công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy" đều được nhân dân ta coi trọng.
Tục chúc Tết là một nét đẹp văn hoá thể hiện được lòng quan tâm lẫn nhau, chung vui xuân và đem tặng nhau ý lành, lời ngọc và niềm hy vọng tốt đẹp cho nhau.
Sau cùng những kiêng cữ ngày Tết như: cha mẹ nhịn quở mắng, anh em nhịn cãi nhau... là những ý muốn tốt lành, nhân ái thể hiện nếp sống văn minh và gia đình có văn hoá.
Phong tục ngày xuân là những nét đẹp của đất nước, của dân tộc luôn sống mãi với thời gian. Ðây là những phong tục đẹp của nhân dân ta đã coi trọng ân sâu và thái độ ứng xử tinh tế có nghĩa, có tình trong đời sống.
|
|
|
Post by Robot on Feb 6, 2005 10:51:05 GMT -5
Xuất hành
Đầu năm mới, người Việt còn có tục xuất hành. Xuất hành là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần...
Thường thường, người ta theo các hướng tốt, xuất hành đi lễ chùa, đền hoặc đi chúc Tết các bậc huynh trưởng, thân quyến hay bằng hữu. Đối với nhà nông ngày xưa, đầu năm mới xuất hành còn để chiêm nghiệm thời tiết. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi, người ta có thể đoán được năm mới hên hay xui, chẳng hạn: - Gió Nam: chỉ đại hạn - Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc - Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả - Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải - Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu - Gió Đông: chỉ có lụt lớn....
Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người mình còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si, cây xương rồng... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc này thường đem về cắm ở bàn thờ Tổ Tiên.
Thú chơi câu đối Tết
Mỗi năm, khi Tết đến, từ thành thị tới các làng quê, cùng với việc mua sắm hàng Tết, dựng cây nêu, người ta không quên mua dăm quả cau, bao chè tới xin câu đối cụ Nghè, cụ Cử.
Câu đối thờ viết trên giấy đỏ dán ở cột, ở cửa nhà nội dung thường bày tỏ lòng biết ơn của cháu con đối với tiên tổ:
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên (Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân; Người ta có trăm tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)
Ở làng trang Đông Hồ câu đối trên đã được cải biên chút ít và đưa vào bộ tranh chủ treo ở bàn thờ gia tiên, hai bên là chữ Phúc, chữ Thọ và đôi câu đối:
Từ thời xuân tại thủ Ngũ phúc thọ vi tiên
Những chữ Hán được trang trí cách điệu: một bên là con rồng, một bên là con phượng trên nền giấy điểm xuyết hoa, lá, chim muông.
Những câu đối này thường kèm theo mấy chữ đại tự cũng viết trên giấy đỏ treo thành bức hoành: "Ấm hà tư nguyên" (Uống nước sông nhớ đến nguồn); "Ðức lưu quang" (Ðức chan hoà ánh sáng).
Dịp Tết còn có các câu đối tức cảnh xuân của các bậc văn hay chữ tốt, cũng được viết trên giấy đỏ treo ở cổng.
Vậy tục treo câu đối Tết có từ bao giờ? Sách xưa có kể phong tục của người dân Bách Việt, trong ngày Tết Nguyên đán theo bùa gỗ có hình hai vị thần Thần Ðồ và Uất Luỹ treo hai bên cửa ngõ. Ðó là hai vị thần sống dưới gốc đào lớn dưới núi Ðộ Sóc chuyên cai quản đàn quỷ, hễ quỷ nào "phá rào" đi làm hại dân thì thần hoá phép trừ đi. Sau này việc treo bùa gỗ "Ðào phù" được thay bằng câu đối hai bên cửa.
Ðời sống hấm khá dần, mỗi người, tuỳ hoàn cảnh, gửi gắm vào câu đối những ý tứ, những niềm vui cùng ước vọng vào một năm mới đang đến. Vào thế kỷ 15, thú chơi câu đối Tết đã trở nên phổ biến, khắp Kinh kỳ, từ dinh thự của quan lại tới các tư gia, đâu đâu cũng treo câu đối Tết. Lại có cả cấu đối nói về nghề nghiệp dán ở cửa hàng, cửa hiệu. Tương truyền, vào một năm, sắp tới giao thừa, vua Lê Thánh Tông ra phố phường xem dân ăn tết. Thấy một nhà không treo câu đối, vua vào hỏi, biết đó là nhà một người thợ nhuộm vợ goá, con trai đi vắng, vua bèn lấy giấy bút và viết.
Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ; Triều đình chu tử tổng ngõ gia. (Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ Ðỏ tía triều đình tự cửa ta)
Cùng với chữ Hán, nhiều danh sĩ nước ta còn viết câu đối Tết bằng chữ Nôm. Ðầu thế kỷ 20, Nguyễn Khuyến (1835-1909) đã sử dụng tài tình chữ viết của dân tộc, đưa cả ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào câu đối. Trong 67 câu đối hiện còn của cụ thì 47 câu đối Nôm. Ðây là cảnh Tết của một nhà nghèo mà lòng vân phơi phới sắc xuân khi giao thừa sắp đến:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Hiểu rõ vần xoay của tạo hoá, cụ ước ao.
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.
***
Gần 10 năm nay, người Hà Nội đã quen thuộc với vẻ đẹp cổ kính của chữ Nho, chữ Nôm qua bút pháp của các nhà Nho: Bùi Hạnh Cẩn, Lê Xuân Hoà, Nguyễn Văn Bách, Trần Lê Văn... Hàng ngày cùng với việc bốc thuốc dạy học nghiên cứu các vị còn say xưa, viết chữ chân, thảo, lệ... tặng cho những người yêu Nôm thư pháp. Nét bút của các vị, ngày thường đã cứng cỏi, khí phách nay giữa ánh xuân của đất trời càng thêm mềm mại, tài hoa. Và hàng năm, như đã thành lệ đẹp vào dịp Tết, tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám lại tổ chúc triển lãm thư pháp, thư hoạ. Dịp này một số nhà nho lại được mời đến viết câu đối tết. Vẻ xưa khơi dậy đã thu hút hàng ngàn người trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng.
Người khách đầu tiên bước vào nhà trong năm mới sẽ đem lại may mắn hoặc rủi ro cho gia đình trong cả năm đó. Vì quan niệm đó mà người ta thường chọn người xông nhà cho gia đình mình, mời những người có "vía" mau mắn, hoặc hợp tuổi với gia đình, thường thì là đàn ông(hổng hiểu vì sao nữa ) Xông nhà vào đêm giao thừa, hoặc sáng mồng một tết. Mặc cho khách ào đến cái rồi lại đi nhưng mâm cỗ để tiếp khách xông nhà bao giờ cũng được Mama chuẩn bị cực kỳ thịnh soạn(vì là người đem cả một năm may mắn đến cho gia đình cơ mà)
Tư Liệu - VNRK
|
|