|
Post by Robot on Jun 23, 2004 12:33:28 GMT -5
Paris có gì lạ không Em?"Paris có gì lạ không Em ?". Tôi không có cái may mắn biết đến Paris từ trước, thời người ta viết bài thơ này, rồi làm thành bài hát. Hình như là Phạm Duy phổ nhạc thì phải. Nhờ cái bài hát mà biết tới bài thơ, rồi từ bài thơ mà biết tới Paris trước cả khi đặt chân tới nó. "Paris có gì lạ không Em ?" . Với tôi thì Paris không có gì lạ cả. Khi đặt chân lần đầu tới Paris, tôi thấy thất vọng. Hệt như chú bé Rê mi trong truyện "Không gia đình". Paris không phải là cành vàng lá bạc. Paris chật chội, chen chúc, ở đâu người ta chẳng phải kiếm sống, nhưng đâu đó trong Paris có cái gì đó Hà nội. Một bức rèm sắt, một bóng cây, một bậc cửa... Đi nhiều nơi ở châu Âu, không nơi nào tôi không thấy lạ. Ở Paris thì không. Quả thực điều lạ ở Paris là nó không lạ. Vì Paris bao giờ cũng như thế. Paris trong hiện tại không khác gì Paris trong bưu thiếp nhưng năm 30. Cái nghịch lý buồn cười ấy, không phải chỉ mình tôi thấy. Có một học giả người Nhật làm việc ở Paris trong UNESCO, có viết một quyển sánh giới thiệu về nước Nhật cho người Pháp cũng nói như vậy. Trong đó ông ta nhận xét rằng, nước Pháp trung thành với truyền thống của nó hơn cả nước Nhật. Ví dụ về ăn uống, người Pháp vẫn ăn những đồ ăn đó, uống những đồ uống đó, vẫn làm pho mát, làm rượu vang như cách đây mấy trăm năm trước. Ngựoc lại nước Nhật thay đổi khủng khiếp. Người Nhật hiện tại cá nhân không kém gì người Mỹ, quan hệ nam nữ không khác gì người Mỹ, thói quen ăn uống so với trước năm 45 cũng đã khác. Tóm lại cái hình ảnh truyền thống của nước Nhật là do nhưng người không hiểu gì về Nhật nói, và nước bảo vệ được truyền thống nhất là nước Pháp chứ không phải Nhật.
|
|
|
Post by Robot on Jun 23, 2004 12:42:43 GMT -5
Ở Paris thì khác, người ta có thể tìm được những quán cà phê có decoration không thay đổi từ hồi đầu thế kỷ. Vào đó người ta có thể tưởng tượng như đang cùng thời với Zola. Trên đường Saint Germain người ta có thể sống trong không khí của thời các nhà họa sĩ ấn tượng. Trên đường Saint Michel, người ta vẫn thấy được không khí những năm 40, khi các gia đình giầu có ở VN đưa con sang Pháp học để trốn lính và đồng thời buôn tiền Đông Dương lậu. Các sinh viên bất đắc dĩ ấy, lấy các quấn cà phê ở đây làm học đường. Ở ga metro Guy Moquet, trên tường người ta vẫn gắn tờ áp phích của Đức Quốc xã, tuyên án xử tử để khủng bố kháng chiến Pháp, trong đó có một người Việt Nam. Có thời đi làm lúc nào tôi cũng đi qua đó. Bây giờ chỉ nhớ ông họ Hoàng, là giáo sư, thành viên Đảng cộng sản Pháp. Lúc đó người Vn vẫn bị người Pháp gọi là An nam mít. Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi, không biết có ai trong gia đình ông biết đưa xác ông về VN không, hay ông đã nằm trong một hố chôn người tập thể vô danh nào đó. Tất nhiên ông Chu tất tiến có thể nói, "bác nói quá lời thế thì chịu, có phải ai cũng thích cổ sử". Điều đó có thể hiểu được, nhưng từ đó người ta có thể đặt câu hỏi "Vậy người ta đi du lịch làm gì ?". Với tôi thì có nhiều kiểu du lịch, không kiểu nào hay hơn kiểu nào, vì nó phụ thuộc vào nhu cầu của từng người. Có người đi du lịch để xả stress. có người đi du lịch vì muốn phưu lưu. Có người muốn đi du lịch vì thích điều lạ. Cũng có người đi du lịch chỉ nhằm để khoe. Nhưng đã di du lịch, thì người ta phải để cái mối lo vật chất sang một bên. Còn nếu đi du lich mà chỉ lo thon thót bị mua đồ đắt, bị lừa thì có lẽ không nên đi. Có lẽ vì không có ai có thể gạt được mối lo đó 100% nên trong các tour du lịch nó luôn đi theo xu hướng từ nước giầu, có sức mua cao, sang nước nghèo có sức mua thấp. Ở Pháp, các tour chủ yếu là sang châu Phi, các nước Tây ban Nha, Bồ đào Nha. Hầu như không có tour nào bảo người ta đi Đức hay Bắc Âu. Như vậy một người ở Mỹ, nơi mà đời sống vốn rẻ hơn, thì không nên đi Pháp, đặc biệt là Paris. Paris cũng như nhiều thành phố thế giới khác như Nữu ước, Luân đôn, hay Tokyo là những nơi đắt đỏ nhất thế giới. Nó cũng là những thành phố cosmopolite nên không thể trông cậy vào sự hiền lành, đáng yêu, ngây thơ của dân chúng được, vì đây là nơi tụ hội của người tứ xứ. Điều này hệt như người nhà quê ra Hà nội, ra đến bờ hồ gươm là chóng mặt. Cho nên nếu chịu chơi thì hãy đi. Còn nếu không chịu được thì không nên đi. Ở Paris không thiếu nước. Nhưng nếu người ta thuê hô ten xập xệ, hay những phòng cho con ở (chambre de bone), thì việc không có nước tắm là khả năng có thể có. Cũng như ở Mỹ, Ghetto da đen là một sự thực, nhưng không đại diện cho nước Mỹ. Paris có gì lạ không em ? Không, Paris không có gì lạ cả. Lúc nào cũng thế hệt như một cái thiếp ảnh cũ. Chẳng nhẽ người viết lời thơ ấy không biết. Nhưng có thực cái lạ tác giả bài thơ đề cập tới là cái lạ của du khách không ? Muốn biết thì phải đọc câu thơ tiếp theo "Paris có gì lạ không Em Khi Anh về Em có còn ngoan" Tôi không phải là người đặc biệt yêu thơ, am hiểu về thơ. Nhưng có lẽ hai câu thơ này là hai câu thơ sử dụng thời gian vào bậc hay nhất trong tiếng Việt. Nếu chỉ đọc câu đầu, thì người ta cảm tưởng tác giả hỏi về quá khứ, như một người thông thường đi xa về. Nhưng thực ra tác giả chưa đi xa Paris. Ông vẫn ở vào thời hiện tại, và câu hỏi này giành cho tương lai. "Khi Anh về Em có con ngoan". Có một chút gì đó, tinh nghịch, lo âu, ghen tuông ở trong đó. Như vậy tác giả có muốn Paris lạ không ? và cái lạ của Paris có phải là cái lạ đường phố không ? Có lẽ không phải. Đây có lẽ là cái lạ của một cuộc tình. Cho nên hãy đừng lạ. Hay giữ nguyên nó như thế. Và người ta có thể dùng chữ Paris như một từ khái quát, cho tất cả mọi thành phố: Berlin, Budapest, Luân đôn, Tokyo, Kyoto, Thượng Hải, Bắc kinh, và cả San Jose nữa. "Paris có gì lạ không Em Khi Anh về Em có còn ngoan" So hai câu này với hai câu đầu trong bài thơ của ông Chu Tất Tiến, cũng nói về một cô gái thì thấy nó thật thô thiển. Cho nên Paris có gì lạ không Em, và nó không lạ mới là điều thú vị, chứ nó lạ thì chán chết. Pho Thuong Nhan.
|
|
|
Post by Robot on Jan 25, 2005 13:26:58 GMT -5
www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=64467&ChannelID=100 Ký sự đường xa Ngày cuối năm ở Vienna...Những cỗ xe ngựa chở du khách trong sân lâu đài Hoàng gia TTCN - Daniel và tôi đi Vienna vào những ngày cuối năm, khi tuyết rơi trắng xóa khắp miền Tây nước Áo nhưng ở thủ đô không có một giọt tuyết nào, chỉ có gió thổi lùa vào sáu, bảy lớp áo đủ làm lạnh run cầm cập. Bạn trai tôi Daniel là người Áo nhưng học ở Thụy Sĩ, lần cuối cùng anh đến Vienna cũng đã cách đây mấy năm, còn tôi chưa từng đến đây lần nào. Vậy nên sau bữa ăn sáng kiểu Viennese với cà phê nóng hổi, bánh mì và thịt nguội ở nhà Thomas - chú ruột của anh, chúng tôi lấy lại sức sau hơn bảy tiếng đồng hồ trên xe lửa và háo hức muốn đi thăm thành phố ngay. Cuốn Rough guide trong phần giới thiệu về Vienna đã viết: “Những du khách lần đầu đến Vienna đều vẽ sẵn trong đầu hình ảnh một nơi lãng mạn với những hoài cổ Habsburg và những âm hưởng nhạc”. Quán Loos Thật vậy, khi chú Thomas chở hai đứa tôi đi vòng quanh thành phố, qua những công trình kiến trúc kiểu Baroque từ thế kỷ 18 đẹp như mơ bên những cây mùa đông trụi lá, tôi thốt lên: “Trời, giống như đang xem chương trình vòng quanh thế giới trên TV vậy”. Daniel cười: “Chừng nào tới TP.HCM chắc tôi cũng nói vậy”. Đúng là người ta chỉ quí những gì mình không có. Ở Ringstrasse, nơi tập trung hầu hết những địa danh nổi tiếng của thành phố, tôi đặc biệt thích lâu đài Hoàng gia (Hofburg), một khu phức hợp tượng trưng cho văn hóa và di sản Vie nna được xây từ năm 1275 với 19 sân, 18 cánh rộng mênh mông. Gia đình hoàng gia Áo đã ở đây suốt sáu thế kỷ: từ thời Rudolf đệ nhất năm 1279 đến Charles đệ nhất năm 1918. Những cỗ xe ngựa chở khách du lịch đi vòng quanh thành phố nằm chờ ở đây, gợi nhớ đến những bộ phim về châu Âu thời xa xưa. Ở các quảng trường lớn của Vienna có những anh chàng trẻ măng, có lẽ là sinh viên đi làm bán thời gian, mặc quần áo hoàng gia đứng cầm những tấm brochure thu hút khách du lịch đi xem hòa nhạc, uống cà phê hay đi tour vòng quanh phố cổ Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hitler về Vienna và tuyên bố “mối liên hệ giữa nước Áo và nước Đức phát xít” tại Hofburg. (Hitler là người gốc Áo nhưng bạn chớ dại dột đề cập chuyện ấy với người địa phương vì người Áo rất xấu hổ về điều này. Vả lại, Áo là quê hương của rất nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới khác để nhắc đến như nhà phân tâm học Sigmund Freud hay các thiên tài âm nhạc Mozart, Strauss, Beethoven...). Mùa hè, những quán cà phê còn kê bàn ghế ra ngoài đường - đúng kiểu cà phê al fresco châu Âu, nhưng với cái lạnh 2OC có lẽ không ai thích ngồi uống cà phê ngoài phố. Ở khu phố đi bộ Karntner Strasse với những nghệ sĩ lang thang chơi guitar, violon và kèn trumpet, tôi bật cười khi bắt gặp một quán bar tên Loos (trong tiếng lóng của người Anh, loo có nghĩa là… toilet). Sau tôi mới biết đây là một quán bar nổi tiếng được kiến trúc sư người Mỹ Adolf Loos, một trong những nghệ sĩ theo trường phái nghệ thuật mới (Art-Nouveau), vẽ kiểu vào năm 1908. Trong cửa hiệu nữ trang Swarovsky nổi tiếng của thành Vienna Khu phố đi bộ Kohlmarkt - có nghĩa là Chợ Than vì ở đây trước là nơi bán than (cách đặt tên khác nào phố Hàng Than của 36 phố phường Hà Nội) - chẳng hề đen đúa như tên gọi, ngược lại những con đường ở đây sạch sẽ và sang trọng hơn đâu hết! Ở cuối Kohlmarkt là quảng trường Michaelerplatz, nơi có tòa nhà Looshaus xây dựng vào năm 1911 cũng của KTS Adolf Loos, bây giờ là trụ sở ngân hàng. Cựu hoàng đế Áo Frank Joseph rất ghét tòa nhà này và gọi những cửa sổ ở đây là “cửa sổ không có lông mày” (vì những cửa sổ kiểu Loos không có những hình chạm khắc trang trí bên ngoài như ở những kiến trúc Vienna khác).
|
|
|
Post by Robot on Jan 25, 2005 13:27:19 GMT -5
Một trong những địa điểm thu hút khách du lịch nhiều nhất ở Vienna là Hundertwasserhaus, khu chung cư được nghệ sĩ người Áo Friedensreich Hundertwasser thiết kế. Ông chuyển đổi những căn hộ bình thường thành một khu đầy màu sắc, trông như đồ chơi của trẻ con, biến nó thành một địa danh nổi tiếng.
Dân địa phương cũng không mấy ưa công trình kiến trúc mới Haas Haus do KTS Hans Hollein thiết kế, được khai trương năm 1990, còn sách du lịch Lonely Planet gọi đây là tòa nhà “hiện đại một cách không biết xấu hổ” (unashamedly modern), một phần cũng vì nó được xây đối diện nhà thờ Thánh Stephans (Stephansdom), một nơi có ý nghĩa với Vienna tương tự như tháp Effel ở Paris vậy.
Phía đông Stephansdom là những con hẻm còn giữ lại dấu ấn nguyên thủy của thành phố, đặc biệt tòa nhà số 8 đường Raubensteingasse là nơi Mozart qua đời khi đang sáng tác bản Lễ cầu hồn (Requiem). Vienna là cái nôi âm nhạc cổ điển, xuất xứ của điệu valse dìu dặt, và người dân ở đây rất tự hào với những dấu ấn âm nhạc như tòa nhà Opera nổi tiếng thế giới, bộ sưu tập nhạc cụ cổ, nhà hát lớn...
Bên cạnh đó còn có những ngôi nhà nơi các thiên tài âm nhạc như Beethoven, Haydn, Mozart, Schubert... sống và sáng tác những bản nhạc bất hủ, trong đó không thể không nhắc tới Johan Strauss với khúc luân vũ bất tử An der schưnen, blauen Donau, được biết đến ở VN với cái tên Dòng sông xanh hay Sóng sông Danube.
Đêm giao thừa ở Vienna Tôi đến sông Danube (sông Donau theo tiếng địa phương) vào buổi trưa ngày cuối năm 2004. Gió thổi hắt từ nước sông lạnh buốt và con sông mùa đông không xanh màu da trời như trong bài hát. Sông Danube dài 2.840km uốn lượn qua nhiều nước châu Âu, nhưng với bản nhạc của Strauss, trong trí nhớ nhiều người đó là con sông xanh của thủ đô nước Áo mà thôi.
Đêm cuối năm, chúng tôi đi dạo từ Spiegelgasse, khu phố yên tĩnh treo đầy đèn hình sao và bông tuyết về lại Stephansplatz, nơi hàng trăm ngàn người dân Vienna và khách du lịch chen chúc xem pháo hoa bắn lên nền trời những đường lượn rực rỡ mừng năm mới.
Chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa tôi sẽ phải lên chuyến bay đầu tiên từ Vienna về London vào sáng sớm ngày đầu năm 2005, nhưng hình ảnh pháo hoa lúc nửa đêm, những ngôi nhà cổ, thánh đường uy nghiêm, xe ngựa, sông Danube và những hoài cổ Habsburg sẽ còn theo tôi cho đến khi tôi quay lại nơi đây lần nữa.
NGÔ THỊ GIÁNG UYÊN Vienna, Southampton 1-2005
|
|