|
Post by Oshin on Feb 28, 2004 8:56:07 GMT -5
Thụy Ðiển Hữu Ngọc Ghi chép từ một chuyến ði Sân bay thủ ðô Stockholm, ở một cầu thang lớn bằng gạch men, mỗi bậc dài có ghi khẩu hiệu : mõ mộng muôn nãm!Trong máy bay (nội ðịa), trên khay thức ãn mang ðến chỗ ngồi cho khách, có mấy gói xinh xinh, chẳng biết ðựng gì ở trong. Trên một gói ghi (tiếng Anh) là: Màu của tuyết Vị của nýớc mắt Mênh mông của ðại dýõngTrên gói hạt tiêu ghi: Hạt tiêu vốn ðýợc mệnh danh là Món quà của phýõng Ðông . Mặc dù từ gift (tiếng Anh là món quà), tiếng Thụy Ðiển có nghĩa là thuốc ðộc , ðừng vì thế mà ngần ngừ, cứ ãn ði! (Chữ gift tiếng Ðức cũng nghĩa là: chất ðộc. Hạt tiêu ở châu âu thời Trung Cổ từ ấn Ðộ, phýõng Ðông, ðều quý nhý vàng). Gói ðýờng ghi: Bạn hãy týởng týợng ðýờng rõi xuống nhý tuyết, quang cảnh ðýờng phủ trắng nhý tuyết, nhýng nhiều ngýời sẽ ãn sạch ðýờng-tuyết .Ðài phát thanh quốc nội Thụy Ðiển có kênh dùng tín hiệu là tiếng chim hót, mỗi mùa một loại chim, cứ nghe ðó mà biết thiên nhiên chuyển mùa. Trong cửa hàng ãn và trong nhà, rất thích thắp nến gây không khí. Cứ xem mấy nét trên trong cuộc sống hàng ngày thì thấy dân Thụy Ðiển thật lãng mạn, thích hài hýớc và yêu thiên nhiên. Ai lại ðề ra khẩu hiệu: mõ mộng muôn nãm! thay cho các khẩu hiệu chính trị hay kinh tế. Một nýớc nghèo, không mõ mộng làm cật lực chýa ðủ ãn thì làm sao có thể có khẩu hiệu ấy ðýợc! Phải là Thụy Ðiển, một nýớc phúc lợi (PIB theo ðầu ngýời mỗi nãm trên 2 vạn ðôla) bảo ðảm cho toàn dân ãn, mặc, ở, thuốc men, học, giải trí, mới dám chõi sang nhý vậy. Lãng mạn: ngýời Thụy Ðiển sống nội tâm nhiều, ðất rộng ngýời thýa, khí hậu lạnh lẽo, ðạo tin lành Luther in dấu ấn khắc khổ, nên có khuynh hýớng u sầu (theo Ake Daun)-yêu thiên nhiên. Trong mấy thập kỷ ðầu thế kỷ 19, chủ nghĩa lãng mạn ðã mang ðến một sinh lực mới cho vãn học. Hài hýớc: một cạnh khía khác của tâm tính Thụy Ðiển. Phải chãng nhà thõ Bellman (thế kỷ 18) ngýời ca tụng rýợu và gái giang hồ, rất ðýợc mến mộ, ðại diện cho khuynh hýớng bông lõn hài hýớc khá phổ biến. Tôi biết một số cán bộ Thụy Ðiển ở Sứ quán Hà Nội: bình thýờng, họ rất thầm lặng, dè dặt, nhýng ở những cuộc họp hẹp (tiễn ðýa cán bộ hết hạn phục vụ về nýớc, lễ hội...) họ rất biết cù , khiến mọi ngýời cýời nhý nắc nẻ. Thật ái ngại cho anh Ðình Quang, tính nghệ sĩ vẫn không chịu bỏ thuốc lá mặc dù hút không nhiều. Ðến nhiều khách sạn, không có phòng ðýợc hút thuốc, cứ phải ra cửa ngoài gió lạnh làm một hõi. Hôm ðến Goteborg, ðýợc ở một nhà khách ngoại. Yên chí là ðóng cửa lại hút thuốc ðýợc! Ai ngờ nhìn lên týờng thấy yết thị: Ai hút thuốc bị phạt 1000 ðôla . Té ra trong phòng có máy phát hiện khói, nối liền với số cứu hỏa có khói, lập tức sẽ có xe vòi rồng chữa cháy ðến. Một cuộc báo ðộng giả nhý vậy giá 1000 ðôla. Ở Thụy Ðiển, lýõng cao nhýng giá cả rất ðắt. Nếu mua gì, ãn gì cứ ýớc lýợng tính theo tiền Việt Nam thì nhịn tất. Một cốc bia ở sân bay giá 9 ðôla (có thể uống ðýợc hõn nãm chục cốc ở ta). Một chiếc bánh mỳ có nhân 5-6 ðôla, vào cửa hàng ãn thýờng 1 món khoảng 10-12 ðôla. Sinh hoạt phí ngày 40 ðôla kể cả tiền taxi thì không ðủ (Không phải trả tiền phòng ngày 100-120 ðôla loại thýờng). Umea, một thành phố nhỏ phía Bắc, có ðến 25.000 sinh viên, rất tự hào về trýờng ðại học. Chị họa sĩ Ðặng Thị Khuê triển lãm sắp ðặt (installation) ở ðây rất ðýợc hoan nghênh vì biết gắn truyền thống với hiện ðại, nhất là lại từ Ðông Nam á xa xôi ðến. Bảo tàng mỹ thuật thành phố: rất nhiều tác phẩm hiện ðại lạ lùng khó gây cảm xúc cho một ngýời châu á thuộc một nýớc nông nghiệp còn chýa công nghiệp hóa. Thí dụ có một bức tranh vẽ ruột gan bóc trần ðầy máu mê, nhý con lợn vừa mổ, có cho cũng chẳng dám treo. Nếu không có ông giám ðốc bảo tàng giải thích ý nghĩa bức tranh (họa sĩ Braxin muốn thể hiện cuộc ðấu tranh cho công bằng xã hội), thì tôi chẳng hiểu gì cả. Ðặc ðiểm: sạch sẽ và yên tĩnh. Một ðất nýớc gần 200 nãm không có chiến tranh. Thiên tài quân sự cuối cùng là vua Karl XII (mất nãm 1718). Từ ðó, không có anh hùng binh nghiệp nữa. Hữu Ngọc - thu 2003
|
|
|
Post by Oshin on Mar 6, 2004 3:28:06 GMT -5
Trên thế giới có rất nhiều dòng sông nổi tiếng, trở thành hình ảnh tiêu biểu cho cả một hay nhiều quốc gia. Ví dụ, dòng sông Mekong chảy từ Trung Hoa xuống Lào, Campuchia và Việt Nam, dòng sông Hoàng Hà ở Trung Hoa, dòng sông Hằng ở Ấn Ðộ, dòng sông Seine ở Pháp, hay dòng sông Danube ở châu Âu, v.v... Ðối với giới yêu thõ, dòng sông Seine là một hình ảnh cực kỳ thõ mộng, tuy nhiên, ðối với giới yêu nhạc, dòng sông Danube lại là một hình ảnh vô cùng quyến rũ và quen thuộc. Bởi vì có ai yêu âm nhạc mà lại không biết bản nhạc valse nổi tiếng " Danube Xanh" của nhà soạn nhạc ngýời Áo Johann Strauss, ngýời từng ðýợc mệnh danh là "ông vua của loại nhạc valse".Sự ðóng góp của nýớc Áo vào nền âm nhạc cổ ðiển Danube Danube là một con sông huyết mạch của cả châu Âu, hay nói chính xác hõn, là con sông lớn thứ nhì của châu Âu, chỉ sau sông Volga. Dài tổng cộng 2.800 cây số, sông Danube bắt nguồn từ nýớc Ðức, chảy qua 8 quốc gia nữa là Áo, Slovakia, Hungary, Croatia, Nam Tý, Bulgarie, Rumanie và Ukraine, và cuối cùng ðổ ra Hắc Hải. Từ lâu, sông Danube ðã ðem lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế cho các nýớc vừa kể. Có nhiều quốc gia ðã tận dụng sức nýớc của con sông này bằng cách xây ðập nýớc cũng nhý xây các nhà máy thuỷ ðiện. Ngoài ra, sông Danube còn là ðýờng giao thông thýõng mại chính, là nõi vận chuyển hàng hoá xuất và nhập khẩu cho nhiều nýớc. Có 3 thủ ðô lớn của châu Âu nằm bên giòng Danube: ðó là thủ ðô Vienna của nýớc Áo, Budapest của Hungary và Belgrade của Nam Tý. Nhý vậy rõ ràng Danube là một dòng sông có tính chất quốc tế. Thế nhýng, dýới mắt của giới yêu chuộng nghệ thuật, ðặc biệt là âm nhạc, Danube dýờng nhý chỉ là tài sản riêng của nýớc Áo. Ðiều ðó cho thấy sức mạnh và ảnh hýởng lớn lao của nhà soạn nhạc Johann Strauss cũng nhý của nền âm nhạc cổ ðiển tuyệt vời của Áo nói chung. Ðiều ðó cũng cho thấy là nói ðến nýớc Áo, trýớc tiên chúng ta phải nhắc ðến những nhà soạn nhạc tài hoa lừng lẫy mà ðất nýớc này ðã sản sinh ra và bù lại, bằng tài hoa xuất chúng của mình, họ ðã làm vang danh nýớc Áo trên phạm vi toàn thế giới. Johann Strauss Johann Strauss sinh nãm 1825 tại thủ ðô Vienna, trong một gia ðình nổi tiếng về âm nhạc. Thân sinh của ông, cũng tên là Johann Strauss, là một nhà soạn nhạc lừng danh của Vienna, tác giả của gần 300 bản nhạc, trong ðó có một số trở thành những tác phẩm cổ ðiển.Trong dòng họ Strauss có ðến gần một chục nhạc sĩ. Tuy nhiên, Johann Strauss (con) là ngýời tài nãng nhất. Ðó là một thứ tài nãng thiên phú, bộc lộ ngay từ lúc còn rất bé: sáng tác ðầu tay của ông ðýợc soạn vào nãm lên 6. Thế nhýng, cha của Strauss lại chỉ muốn ông sau này làm việc trong ngành ngân hàng, cho nên không những không khuyến khích mà còn cýõng quyết cấm con trai tiếp nối con ðýờng sự nghiệp của mình. May cho Strauss, là mẹ ông ðã ðứng ra thu xếp cho ông ðýợc lén lút học vĩ cầm với một nhạc sĩ ðang tham gia trong giàn nhạc của chồng. Nãm 1840, lúc Strauss 15 tuổi, cha ông bỏ nhà ra ði theo ngýời tình mới. Ðối với Strauss, biến cố này có ý nghĩa nhý một sự giải thoát bởi vì từ ðó, Strauss có toàn quyền tận hiến ðời mình cho âm nhạc. Với một sự nghiệp sáng tác phong phú gồm hàng trãm nhạc khúc thuộc nhiều ðiệu khác nhau nhý valse, polka và quadrille, có thể nói, Johann Strauss ðã làm mýa làm gió trong nền âm nhạc khiêu vũ tại thủ ðô Vienna trong suốt thế kỷ 19. Tuy nhiên thành công lớn nhất của Strauss là ở loại nhạc valse và có lẽ bài "Giòng Danube xanh" là tác phẩm xuất sắc nhất của ông, ðồng thời cũng là bài valse ðýợc ýa chuộng nhất trên thế giới. Trong cuốn "Classical Music, the Great Composers and Their Masterworks", John Stanley nhận xét về nhạc valse của Strauss nhý sau: " Tất cả những bài valse của Strauss ðều theo một mô thức cấu trúc cãn bản, gồm một dạo khúc khai vũ chậm rãi; tiếp theo ðó thýờng là nãm phân ðoạn luân vũ và ðýợc kết thúc bằng một hậu khúc trong ðó các nhạc ðề chủ yếu ðýợc tái hiện dýới hình thức một chuỗi các vế liên hoàn, tạo nên một cảm giác dồn nhanh nhịp. Ðó là một dạng thể mà bất cứ một nhà soạn nhạc vững vàng nào cũng có thể áp dụng một cách trôi chảy; nhýng những bài valse hay nhất của Strauss thì hài hòa hõn, ðýợc phối khí hoàn hảo hõn, kết cấu tiết tấu cân ðối hõn, và giai ðiệu duyên dáng hõn bất cứ ai khác. Những bài valse ðó ðã thể hiện ðýợc tâm trạng của ngýời dân Vienna ở thế kỷ 19 - ðó là sự tinh tế và chủ nghĩa hýởng lạc".
|
|
|
Post by Oshin on Mar 6, 2004 3:28:49 GMT -5
Mozart Ngoài Yohann Strauss, chúng ta còn phải kể ðến một vài tên tuổi lừng lẫy khác nhý Mozart và Schubert. Wolfgang Amadeus Mozart sinh nãm 1756 tại thành phố Salzburg. Từ nãm 3 tuổi Mozart ðã biết chõi ðàn piano và ðàn vĩ cầm. Chị của Mozart là Maria Anna cũng chõi ðàn keyboard rất xuất sắc. Nãm 1762, cha của Mozart dẫn hai chị em ông ði trình diễn tại cung ðiện Vienna. Hai chị em Mozart ðýợc triều ðình Áo ban tặng nhiều phẩm vật, còn cha ông thì ðýợc ban thýởng tiền. Sự thành công này ðã dẫn ðến chuyến lýu diễn thứ hai, xa hõn và cũng dài ngày hõn ðến tận thủ ðô Paris của nýớc Pháp vào nãm sau. Thời gian ấy chýa có xe lửa và ðýờng xá cũng chýa tốt nhý hiện nay nên cuộc hành trình bằng xe ngựa của họ kéo dài khá lâu. Trên ðýờng ðến Paris, hai chị em Mozart thýờng xuyên biểu diễn cho các gia ðình quý tộc và khi họ dừng lại ở các thị trấn lớn thì cha Mozart tổ chức những buổi hòa nhạc thu hút ðýợc rất nhiều ngýời ðến nghe. Tại cung ðiện Versailles ở Paris, sự thành công của họ cũng vô cùng rực rỡ. Chính tại Paris, những tác phẩm của Mozart, bao gồm 4 bản xô-nát ðýợc phát hành lần ðầu tiên. Nãm ðó soạn nhạc thiên tài chỉ mới có 7 tuổi. Sau Paris là liên tiếp những chuỗi ngày tháng lýu diễn của Mozart ở nýớc ngoài, từ Anh quốc ðến Hòa Lan, Ý, v.v... Có thể nói tên tuổi của Mozart vang dội khắp nõi ở châu Âu trýớc khi thành phố Salzburg công nhận tài nãng của ông. Mozart lâm bệnh nặng vào mùa thu nãm 1791 và qua ðời vào tháng 12, lúc mới 35tuổi, ðể lại một sự nghiệp ðồ sộ gồm 50 bản nhạc giao hýởng, 22 vở opera, vô số bản xô-nát dành cho ðàn piano và vĩ cầm, v.v... Nãm 1991, nhân kỷ niệm 200 nãm ngày mất của Mozart, nhạc của ông ðýợc trình tấu ở khắp nõi trên thế giới. Ví dụ nhý tại thành phố New York, Hoa Kỳ, 11 ðoàn nghệ thuật ðã phối hợp giới thiệu sự nghiệp của Mozart ðồng thời tổ chức nhiều buổi nói chuyện và triển lãm ðể vinh danh một thiên tài lỗi lạc. Riêng tại thành phố Salzburg là nõi ông sinh ra thì tuần lễ Mozart ðýợc tổ chức hàng nãm vào tháng giêng. SchubertSinh nãm 1797 tại thủ ðô Vienna, Schubert là con út trong một gia ðình có nãng khiếu ðặc biệt về âm nhạc. 3 ngýời anh của Schubert ðã dạy ông chõi ðàn piano và vĩ cầm từ lúc ông còn rất bé. Tuy nhiên, một thời gian sau, Schubert lại tỏ ra výợt trội hõn hẳn các anh. Nãm 11 tuổi, nhờ có giọng hát hay, Schubert xin ðýợc một học bổng vào trýờng Konvikt, là trýờng chuyên ðào tạo các giọng nam cho ðội hợp ca của triều ðình. Cuộc sống của Schubert tại trýờng khá vất vả vì những bữa ãn ở trýờng không ðủ no, trong khi ðó gia ðình ông lại nghèo, không thể gửi ðủ tiền cho ông mua thêm thức ãn. Schubert thýờng xuyên bị ðói, ngoài ra ông cũng không có tiền mua giấy kẽ giòng sẵn ðể viết nhạc. May mắn là ông có một ngýời bạn lớn tuổi hõn, ngýỡng mộ tài nãng của ông nên thýờng cung cấp giấy cho ông sáng tác. Nãm 1813, tức nãm Schubert 16 tuổi, ông bị ðuổi ra khỏi trýờng, lý do là vì ông ðã ðến tuổi bị vỡ tiếng. Vì không hội ðủ chiều cao ðể tham gia quân ðội hoàng gia, cho nên ông quyết ðịnh nối nghiệp cha, làm nghề thầy giáo. Ngoài thì giờ ði dạy, Schubert dành hầu nhý toàn bộ thời gian còn lại cho việc sáng tác. Chỉ trong vòng 5 nãm, ông ðã hoàn tất 5 bản giao hýởng, 6 vở opera và 300 bài hát. Chính vì sáng tác nhiều bài hát nhý vậy mà sau này nhiều ngýời cứ týởng Schubert chỉ là một nghệ sĩ sáng tác bài hát nhýng thật ra tác phẩm của ông rất ða dạng gồm cả nhiều bản giao hýởng cũng nhý nhiều bản tứ tấu và xô-nát. Vừa rồi là phần trình bày một khía cạnh ðặc sắc của nýớc Áo: ðó là sự ðóng góp lớn lao của quốc gia này vào nền âm nhạc cổ ðiển Tây phýõng.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 6, 2004 3:33:01 GMT -5
Nýớc Áo - Các thành phố lớnÁo là một quốc gia ðẹp nổi tiếng ở châu Âu. Vẻ ðẹp của nýớc Áo là vẻ ðẹp ðýợc tạo thành một phần từ thiên nhiên và một phần từ vãn hoá. Býớc chân trên lãnh thổ nýớc Áo, ngýời ta không những chỉ ðýợc nhìn ngắm những ðồi núi hay sông hồ thõ mộng mà còn ðýợc chiêm ngýỡng vô số những di tích lịch sử lâu ðời và vô cùng tráng lệ.Về phýõng diện thiên nhiên, nói ðến Áo, chúng ta không thể không kể ðến dãy núi Alps. Ðó là dãy núi dài nhất và cao nhất của châu Âu, chạy qua nhiều nýớc là Pháp, Ý, Thuỵ Sĩ, Ðức, Nam Tý và Áo. Tại Áo, dãy Alps chiếm khoảng 65% diện tích của nýớc này. Phong cảnh của dãy Alps ở nýớc Áo rất thõ mộng, bao gồm những ðỉnh núi có tuyết phủ quanh nãm, những thung lũng nhỏ hẹp, những hồ nýớc xanh biếc và những khối bãng khổng lồ. Ðây ðó dọc theo dãy núi là những toà lâu ðài nguy nga, những cãn nhà gỗ cheo leo, những ngôi làng mạc cổ cũng nhý những trung tâm nghỉ mát nổi tiếng nhất thế giới. Ðỉnh cao nhất của dãy Alps tại Áo là Gross Glockner - 3.800 thýớc. Ngoài dãy núi Alps, là nõi du khách có thể ðến chiêm ngýỡng cảnh núi non hùng vĩ hay trýợt tuyết quanh nãm, có 3 thành phố lớn của nýớc Áo ðýợc yêu chuộng nhất là thủ ðô Vienna, thành phố Salzburg và thành phố Innsbruck. ViennaThủ ðô Vienna chiếm ðến 20% dân số của cả nýớc, với hõn 1 triệu rýỡi ngýời. Nằm ở phía tây bắc của nýớc Áo, Vienna ðýợc xem là một trong những thành phố nổi tiếng nhất của châu Âu. Ngày xýa, Vienna từng là thủ ðô của cả ðế quốc Áo, một lãnh thổ rộng lớn kéo dài từ Thuỵ Sĩ ðến tận nýớc Nga. Ðế quốc Áo sụp ðổ vào nãm 1918, sau khi Áo và quốc gia ðồng minh Ðức bị ðánh bại trong thế chiến thứ nhất. Hiện nay, Vienna chỉ là thủ ðô của một nýớc Áo Cộng hòa và nhỏ bé có diện tích gần 84.000 cây số vuông, tức khoảng 1/8 của lãnh thổ trýớc kia. Tuy nhiên, Vienna vẫn còn lýu giữ rất nhiều dấu tích lịch sử của thời vàng son cũ, ví dụ nhý những toà lâu ðài tráng lệ, những công trình kiến trúc ðộc ðáo, và những thành tựu ðặc sắc về nghệ thuật. Nhà hát OperaCung ðiện HofburgCung ðiện Belvedere Tại thủ ðô Vienna, ngýời ta có thể tìm thấy nhiều di tích cổ nhý Nhà hát opera, ðýợc xây vào nãm 1869 ; cung ðiện Hofburg, một công trình kiến trúc vĩ ðại và phức tạp kéo dài ðến 7 thế kỷ mới hoàn tất, hiện nay là nõi tập trung cả thảy 6 viện bảo tàng; cung ðiện Belvedere, ðýợc xây vào ðầu thế kỷ 17, nổi tiếng nhờ có Viện Bảo tàng Áo, nõi trýng bày cả một chiều dài thành tựu nghệ thuật của nýớc Áo từ thời Trung cổ cho ðến thời kỳ ðýõng ðại. Ngoài Viện Bảo tàng Áo, Viện Bảo tàng Freud cũng ðýợc du khách ðặc biệt chú ý. Tuy sinh trýởng tại Czechoslovakia nhýng Sigmund Freud chủ yếu sinh sống và làm việc tại Vienna. Viện Bảo tàng Freud chính là nhà ở ðồng thời là phòng khám trýớc kia của Freud từ nãm 1891 cho ðến nãm 1938. Sau khi tốt nghiệp Ðại Học Vienna, Freud trở thành bác sĩ phân tâm học ðầu tiên và lừng danh nhất thế giới. Viện Bảo tàng Freud hiện trýng bày một số vật dụng cá nhân của ông nhý mũ, áo khoác, cũng nhý một số ðồ ðạc trong nhà của ông ngày trýớc. Tuy nhiên, biểu týợng chính của thủ ðô Vienna có lẽ là ngôi nhà thờ St. Stefan, ðýợc kiến trúc theo kiểu baroque, tức là một hình thức kiến trúc ðặc biệt thịnh hành ở châu Âu vào thế kỷ thứ 17 và 18. Ngôi nhà thờ này ðã nhiều lần bị hý hại trong thời gian các trận chiến diễn ra ngay tại thủ ðô Vienna. Cách ðây hàng trãm nãm, ðạn ðại bác của quân ðội Thổ Nhĩ Kỳ ðã bắn trúng nhà thờ, và hiện nay dấu vết của nó vẫn còn nằm trên týờng. Gần ðây nhất, sau một trận oanh kích xảy ra vào thế chiến thứ hai, ngôi nhà thờ bị bốc cháy, làm cho nóc nhà thờ và nhiều bức týờng bị tàn phá nặng nề. Sau khi thế chiến kết thúc, phải mất ðến 10 nãm nhà thờ mới ðýợc sửa chữa và tu bổ lại nhý ngày nay. Xung quanh nhà thờ là một quảng trýờng thýờng xuyên có nhiều nhạc sĩ, kịch sĩ và họa sĩ ðến sinh hoạt và biểu diễn, mang lại cho cả khu vực một bầu không khí vừa vui týõi trẻ trung vừa ðầy tính chất vãn nghệ. Âm nhạc là niềm say mê sâu ðậm của ngýời dân Vienna. Trýớc ðây, Vienna ðýợc xem là thủ ðô âm nhạc của cả châu Âu. Nhà soạn nhạc ngýời Ðức Johannes Brahms từng gọi Vienna là "thánh ðịa của giới nhạc sĩ". Nãm 36 tuổi, chính bản thân Brahms cũng quyết ðịnh rời bỏ quê hýõng ðể sang Vienna sinh sống cho ðến cuối ðời. Ngày nay, âm nhạc và khiêu vũ vẫn là một phần rất quan trọng trong ðời sống vãn hoá của ngýời dân Vienna. Vienna có 4 dàn nhạc giao hýởng lớn thuộc loại lừng danh nhất thế giới. Hàng nãm, ðúng vào mùa lễ Fasching, có khoảng 300 buổi khiêu vũ ðýợc tổ chức tại thủ ðô Vienna, trong số ðó nổi tiếng nhất là buổi khiêu vũ tại Nhà hát opera quốc gia. Trong buổi khiêu vũ ðặc biệt này, mọi ngýời ðều mặc trang phục của thời cung ðình xa xýa.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 6, 2004 3:33:18 GMT -5
SalzburgNằm ở miền trung của nýớc Áo, thành phố Salzburg là quê quán của nhà soạn nhạc Mozart, do ðó ngýời ta có thể tìm thấy dấu vết của ông ở nhiều nõi, ðặc biệt là tại 2 viện bảo tàng Mozart. Viện bảo tàng thứ nhất là ngôi nhà mà Mozart ðã sinh ra, lớn lên và sống cho ðến nãm 17 tuổi và viện bảo tàng thứ hai là chỗ cý ngụ của Mozart từ nãm 1773 ðến nãm 1787. Cả hai nõi ðều trýng bày những nhạc cụ mà Mozart từng sử dụng, những tờ giấy viết nhạc cũng nhý một số vật dụng cá nhân khác của ông. Salzburg cũng là nõi tổ chức tuần lễ Mozart hàng nãm vào tháng giêng ðể vinh danh ngýời con yêu quý của mình. Thành phố Salzburg thu hút ðýợc nhiều du khách, một phần nhờ Lễ hội Salzburg ðýợc tổ chức hàng nãm vào mùa hè, từ cuối tháng 7 ðến cuối tháng 8. Ðây là một lễ hội âm nhạc có tầm vóc quốc tế, ðýợc thành lập từ nãm 1920, chuyên trình diễn nhạc cổ ðiển, kịch opera, v.v..., trong ðó có cả tác phẩm của Mozart. Bất cứ dàn nhạc hay ca sĩ nào ðýợc mời tham dự lễ hội ðều có thể xem nhý tài nãng của mình ðã ðýợc thế giới công nhận. InnsbruckThành phố Innsbruck, nằm ở phía tây nýớc Áo, trong một thung lũng ở trên dãy núi Alps, là nõi ðã diễn ra hai lần Thế vận hội mùa ðông, vào nãm 1964 và 1976. Innsbruck nổi tiếng là một trung tâm trýợt tuyết của nýớc Áo. Tuy nhiên ðó cũng là một thành phố có tính chất lịch sử bởi vì vào cuối thế kỷ thứ 15, hoàng ðế Maximilian ðệ nhất ðã ðặt cung ðiện tại ðây, sau ðó Innsbruck trở thành nõi cý ngụ của hoàng gia Áo trong vòng hõn một thế kỷ rýỡi. Một trong những ðịa ðiểm thu hút nhiều du khách nhất là Hofkirche, tức ngôi mộ của hoàng ðế Maximilian ðệ nhất. Hofkirche Ðây là nõi trýng bày quan tài khổng lồ của nhà vua, ðýợc chạm nổi bằng những hình ảnh lúc ông còn sinh tiền. Chung quanh quan tài là 28 bức týợng bằng ðồng của tổ tiên hoàng ðế. Ngôi mộ này ðýợc xem nhý một trong những công trình ðiêu khắc ðộc ðáo nhất của thời kỳ Phục hýng. Tuy nhiên ðó thật ra chỉ là quan tài và mộ giả, có tính cách týợng trýng mà thôi. Lý do là vì hoàng ðế ðýợc chôn cất tại một thị trấn cách thủ ðô Vienna hõn 50 cây số về hýớng nam chứ không phải tại ðây. Minh Nguyệt
|
|
|
Post by Oshin on Mar 6, 2004 3:56:13 GMT -5
VERONA - Sự kết hợp tuyệt vời của Nýớc và ÐáCó một thành phố của nýớc và ðá nằm dọc theo con ðýờng từ Bắc xuống Nam, một nõi chốn hội tụ của những nền vãn hóa khác nhau, một trung tâm quân sự từ thời La Mã kéo dài qua thời kỳ Theodoric, từ Longobards cho tới sự thống trị của vua Áo Franz Joseph, vừa giống nhý Venice mà lại cũng vừa giống nhý Roma. Ðó chính là Verona, thành phố của những ðiều tuyệt vời ấy và còn hõn thế nữa dýới con mắt của những ngýời yêu nghệ thuật. Xin ðýợc bắt ðầu từ những ngày ðầu tiên của thành phố.
"Publius Valerius, Quintus Cecilius, Publius Cornelius và Quintus Servilius ðã trúng thầu cho việc xây dựng týờng thành, của ô cùng ðýờng phố và hai ngýời ðầu tiên chịu trách nhiệm nghiệm thu công trình" Ðây chính là giấy khai sinh của thành phố Verona ðýợc khắc sâu vào một phiến ðá gắn trên cửa ô Porta dei Leoni có niên ðại khoảng 49 nãm trýớc Thiên Chúa giáng sinh, khi mà nền cộng hòa La Mã ðang suy thoái và Augustus ðang dựng lại ðế chế của mình. Ngay sau ðó, trong thời kỳ trị vì của Augustus, việc xây dựng ðýợc triển khai bắt ðầu từ một nhà hát rất hoàn hảo bên kia dòng sông Adige výõn tới tận ðỉnh ðồi mà dọc theo sýờn của nó Verona ðýợc xây lên. Trên tận cùng ngọn ðồi San Pietro sừng sững một ngôi ðền mà hầu nhý tất cả các kiến trúc sý thời Phục hýng ðều ðã tái tạo lại kiểu dáng của nó trong các bản vẽ của mình - ngôi ðền in bóng lên nền trời và có thể nhìn thấy từ mọi ngả ðýờng dẫn tới dòng sông. Nếu tính những công trình từ thủa ban ðầu của thành phố thì không chỉ có týờng thành, cửa ô, và những con ðýờng mà còn có cả những quảng trýờng "piazzas", nhà ở, cầu, vòm và những tờ nhà công cộng và Arena vĩ ðại ðến mức ðộ khiến nó có thể tồn tại qua mọi thời gian và luôn là một trong những nhà hát ngoài trời ðẹp nhất trên thế giới. Cây cầu 5 nhịp, dài 120m nổi tiếng "Ponte Pietra" Thật may mắn là dấu vết của những thế kỷ rực rỡ này vẫn còn lýu lại ở Verona. Ta có thể thấy ðiều ðó qua những công trình nổi tiếng nhý Nhà hát, Arena, cầu Ponte Pietra, vòm cổng Arco dei Gavii và những cửa Ô vẫn còn nguyên vẹn với ðầy ðủ các chi tiết của nó. Hay ta có thể tìm thấy những bộ sýu tập về La Mã và Hy lạp trong bảo tàng công cộng ðầu tiên của châu Âu do Scipione Maffei sáng lập, ở ngay gần cổng thành Portoni della Bra. Ta vẫn còn phân biệt ðýợc rõ ràng bố cục của Verona thời La Mã "per uadrum compaginata" cùng với "insulae" nằm gọn giữa dòng sông Adige uốn khúc và những bức týờng thành cổ xýa mà những gì còn sót lại cũng ðủ gợi cho ta hình dung ra tầm cỡ của nó những thế kỷ xýa. Cổng Portoni della Bra, lối vào chính của thành phố. Những bức týờng của thành phố trải dài từ cổng Bra ra tới tận bờ sông là nói lên sự thay ðổi của Verona,thành phố tự trị, ðã lớn lên gấp hai lần kích thýớc của chính nó từ những ngày còn dýới thời La Mã và giúp chúng ta nhớ lại những cuộc ðụng ðộ giai cấp của thời Romeo và Giulietta. Bên cạnh ðó là những công trình tuyệt tác nhý nhà thờ lớn Duomo, nõi vẫn còn lýý giữ những kiệt tác của các danh họa ngýời Verona cùng những bậc thầy hội họa khác của nýớc Ý nhý Titian, bề thế và duyên dáng trong sắc ðá cẩm thạch "polychrome". Nhà thờ lớn Duomo. Cũng với tầm cỡ nhý thế, ðại Giáo ðýờng San Zeno, nằm bên ngoài týờng thành nhý hiện nay, ngôi nhà thờ Hoàng gia mà dấu vết của nền vãn hóa Ðức vẫn còn thấy rất rõ trong nghệ thuật trang trí Tu viện và cánh cổng bằng ðồng ðúc với những hình ðiêu khắc nổi tiếng. Sự hiện diện của San Zeno là một sự ủng hộ ðáng kể cho việc ra ðời của thành phố tự trị hoàn toàn tự do Verona. Lật lại những trang lịch sử của thành phố ta có thể tìm thấy những ngày không thể nào quên ấy khi mà các gia ðình quý tộc cùng dân chúng tuyên thệ, trọng sự có mặt của Giáo chủ Verona, cùng cai quản và xây dựng thành phố. Ðó là nãm 1138, sự hình thành của một thể chế chính trị sõ khai nhý thế ðã ðặt tiền ðề cho býớc ðầu của một chýõng quan trọng trong lịch sử của Verona. Balisica San Zeno Nội thất bên trong nhà thờ San Zeno Thời kỳ phát triển nhất của thành phố trùng hợp với giai ðoạn trị vì của gia ðình Della Scala, khi mà Cangrande della Scala cho bao bọc thành phố bằng một bức týờng thành mới ðầy ngoạn mục khiến cho Verona trở thành một trong những thành phố lớn nhất châu Âu thời ðó. Cổng vòm Arco dei Gavii
|
|
|
Post by Oshin on Mar 6, 2004 3:56:49 GMT -5
Thành phố chuyển mình trong nhịp sống mới: những nhà thờ mới ðýợc xây thêm cùng với những cung ðiện, výờn hoa, khu nhà ở dành cho ngýời quí tộc và những tòa lâu ðài của họ ở ngoại vi thành phố cùng với cây cầu "thoát hiểm" dùng khi nguy cấp ðể chạy sang náu mình bên lãnh ðịa của Tyrol. Những nghệ sĩ vĩ ðại nhất của thời kỳ này ðều tìm ðến với výõng triều của gia ðình Della Scala, khởi ðầu là Dante và Giotto mà những tác phẩm của họ, ðáng tiếc là hiện này không còn nữa, ðã làm sống ðộng và tạo cảm hứng cho hội họa ðýõng thời. Theo Giotto là Altichieri ngýời mà những tác phẩm thể hiện trong ngôi nhà thờ nhỏ Cavalli ở Sant'Anastasia ðã dự báo trýớc một tài nãng nghệ thuật mang tính sang trọng của Stefano da Verona và Pisanello. Tác phẩm nổi tiếng ðầy bí ẩn là Madonna del Roseto còn lýu giữ tại bảo tàng Castelvecchio. Týợng Dante trong trung tâm thành phố Mặc dù quyền lực của các ông hoàng kế vị Della Scala nhanh chóng suy thoái và vào nãm 1405 Verona bị sát nhập vào trong nền Cộng hòa Venetia nhýng sự kết hợp này lại mang ðến cho Verona một nền vãn hóa mới ðầy rực rỡ. Ðiều này ðýợc thể hiện rất rõ ràng trong tác phẩm Thánh St Georges và nàng Công chúa của Pisanello nõi mà sự sang trọng ðầy lãng mạn của phong cách Gothic ðýợc kết hợp với sức mạnh của khả nãng quan sát hiện thực. Býớc ngoặt quan trọng ðối với nền hội họa của Verona và sự chấp nhận của nó với hội họa Phục Hýng ðến cùng với Andrea Magtegna, ngýời ngýỡng mộ các tác phẩm của Donatello ở Padua và trở thành ngýời ðại diện lớn cho một trýờng phái mới, hoàn toàn khác lạ về hình thức và không gian. Trýớc khi rời Verona ðể tới làm việc tại triều ðình Gonzaga Mantegna, lúc ðó chýa ðầy 30 tuổi, ðã vẽ bức họa nổi tiếng Madonna và các vị Thánh cho nhà thờ San Zeno. Cùng với sự từ bỏ phong cách Gô-tích truyền thống mà sau ðó trở thành mốt cùng với cách thể hiện vật thể theo kiểu cổ ðiển, Mantegna ðã ðặt hòn ðá tảng cho một phong cách cổ ðiển mới ðầy sáng tạo. Nhý thế Andrea Mentagna ðã làm trỗi dậy hội họa cổ ðiển cùng với sự trợ giúp của nghiên cứu, khoa học và khảo cổ học. Sau trận thảm bại ở Cambrai, Verona một lần nữa lại chịu sự thống trị của Venetian và chính quyền Cộng hòa phải ðối diện với hai vấn ðề lớn: thứ nhất, những bức týờng cổ xýa không còn ðủ khả nãng bảo vệ thành phố nữa; thứ hai là nằm về biên giới phía tây, Verona có một vị trí chiến lýợc quan trọng hàng ðầu. Nhý thế vào khoảng nãm 1530 Venice ra lệnh cho các kiến trúc sý thiết kế một hệ thống phòng thủ mới cho thành phố. Bức týờng thành mới với các cửa ô ðồ sộ ngoài chức nãng kiểm soát sự ra vào thành phố còn ðồng thời hoạt ðộng nhý những nút giao thông quan trọng của các trục ðô thị. Cổng "Porta Nuova" trở thành ðiểm xuất phát của một con ðýờng mới trải dài thẳng qua cửa ô xýa cũ của thành phố "Portoni della Bra" cho tới tận Arena. Nhý thế kỳ quan của thời kỳ La Mã bỗng ðýợc tôn lên với một dáng vẻ chýa bao giờ có ðýợc từ trýớc ðến nay. Cùng thời kỳ ðó rất nhiều các xýởng vẽ ðã cho ra hàng loạt các mô-típ trang trí mới và các ðiêu khắc gia làm phong phú thêm cho kiến trúc của các ngôi nhà bằng các bức týợng bán thân và ðiểm xuyết thêm cho các khu výờn bằng các bức týợng mang ðầy tính nghệ thuật. Có một chi tiết nhỏ là họa sĩ trẻ ðầy tài nãng Paolo Caliari ðã bắt ðầu sự nghiệp sáng tạo của mình tại chính thành phố này, từ quản trýờng "Palazzo Canossa". Những xýởng vẽ ðầy sức sống này tiếp tục làm rực rỡ Verona suốt thế kỷ 16 và và ngay cả sau ðó nữa. Họ thể hiện một nghệ thuật hiển nhiên của vùng Veneto nhýng cũng chịu ảnh hýởng của cả nền vãn hóa Lombarrd và truyền thống của vùng Tuscan-Roman nữa. Khi nền Cộng hòa xụp ðổ, thành phố chìm trong những cuốc chiến ðẫm máu bất tận và những ngýời dân Verone thậm chí ðã phải chứng kiến việc ngýời Pháp phá hủy bức týờng thành nổi tiếng của Sanmichele và kết cục là ðýờng viền của thành phố gần nhý biến mất. Một thảm kịch! Nhýng may mắn là sau ðó dýời thời thống trị của ngýời Áo thành phố ðã ðýợc tý sửa lại và khôi phục những giá trị của nó vốn có. Nhý thế sự ðóng góp của Verona cho nýớc Ý thống nhất hiển nhiên là di sản có một không hai: những bức týõng thành cổ, trong ðó lớp týờng thành phía trong có niên ðại từ thời La Mã và thời thành phố tự trị và vòng týờng thành bên ngoài thành phố với tổng chiều dài hõn 9km liên tục, không ngắt quãng. Từ thời La Mã cổ ðại cho tới thời kỳ thống trị của ngýời Áo, trải qua suốt thời kỳ Trung cổ và Phục Hýng, những bức týờng thành của Verona là một nhân chứng lịch sử và ðồng thời cũng là một minh họa tuyệt vời về kỹ thuật xây dựng cũng nhý những hiểu biết về quân sự trong phòng thủ của ngýời Verona. Chúng cũng ðã thể hiện ðýợc rất nhiều ngôn ngữ nghệ thuật phong phú và ða dạng của những thế kỷ rực rỡ ấy. Quảng trýờng trung tâm thành phố hiện nay Piazza Bra
|
|
|
Post by Oshin on Mar 9, 2004 5:51:12 GMT -5
Áo dài (Ðỗ Trung Quân) Ngày ấy...chýa lâu lắm, khi áo dài trắng ðã trở lại với sân trýờng, với phố xá. Chỉ trắng không thôi cũng ðã quá thõ rồi. Thế rồi một trýa mùa hè Sài Gòn, áo trắng lãng ðãng qua phố còn chở theo những chùm phýợng vĩ hái vội ở ðâu ðó...Hình ảnh ðủ làm sững ngýời, gợi thức cả một tuổi trẻ vừa ði qua. Thế rồi thõ và nhạc ra ðời. Lại một chiều trên phố cổ Hội An. Những tà áo dài có màu thời gian bay lên với gió sông Hoài cổ kính và thõ mộng. Có ngýời rùng mình trong im lặng khi nhìn thấy hoa rêu nở lấm tấm trắng trên týờng vôi cũ ðã bao nhiêu thế kỷ. Áo dài Thổ cẩm, cái màu tím hoang dại của hoàng hôn Tây Bắc, màu nâu của củ, của rễ cây rừng, màu chàm lục của lá rừng nồng hắc, màu trắng của hoa lau. Tạ õn khung cửi, cái khung cửi thô sõ có tự bao ðời ðang nằm yên trong bóng tối mờ mờ, im lặng và kiên nhẫn mỗi ngày lại kẽo kẹt với thời gian. Tạ õn con tằm, lá rừng và những bàn tay vô danh ðang lặng im ðẩy thoi dệt, kể những chuyện cổ tích kỳ dị bằng mật mã của hoa vãn, của màu sắc trên mảnh vải ẩn giấu một linh hồn. Áo dài trên phố, áo dài trong dạ tiệc và bình dị hõn cả là áo dài của mẹ ngày Tết lên chùa, vạt áo thõm trầm hýõng, thõm ngọc lan. Màu áo của oản xôi, của trắng hoa huệ, nâu ðất ðai làng xóm. Áo dài của bây giờ và trong ký ức của vô vàn những con ngýời dù ở chân trời góc bể... Gió chở ðôi tà, còn ðôi tà luôn chở nhớ ði theo...
|
|
|
Post by Oshin on Mar 10, 2004 5:46:17 GMT -5
Lễ hội hoa ở Chiang Mai - Chiang Mai Flower FestivalMột trong những điểm hấp dẫn du khách đến Chiang Mai - Thái Lan là lễ hội hoa vào tháng hai hằng năm. Thành phố Chiang Mai tháng hai ngập tràn sắc màu sống động của muôn hoa, trải khắp trên thung lũng, ngọn đồi và những cánh đồng xanh rộng lớn. Màu cam đến màu cà hoa giấy, nhung thẫm dã yên thảo trong sắc hồng, trắng, tím, đỏ trạng nguyên, sặc sỡ cúc vạn thọ Phi châu, đủ các loại hồng và đặc biệt nhất là Phong Lan với hàng ngàn loài được đem triển lãm. Trong vòng ba ngày lễ, những bông hoa đạt giải được trưng bày tại công viên Rama IX phía bắc thành phố. Người ta đến với lễ hội không chỉ để ngắm hoa mà không khí còn thực sự sôi động bởi nhiều hoạt động vui nhộn khác như những buổi trình diễn văn hóa nghệ thuật truyền thống, những cuộc thi nông sản, thi hoa, thi ẩm thực quốc tế, và cuộc thi sắc đẹp với đám rước Hoa Khôi thật hoàng tráng nữa.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 19, 2004 8:02:27 GMT -5
30 - 4 ở Hà LanTrích "ký sự đường xa" - Trương QuangỞ Bắc Âu, mùa Xuân chỉ thật sự bắt đầu sau cơn mưa rào vào cuối tháng 3, thường đổ xuống trong đêm như một cánh tay lặng lẽ đánh thức thiên nhiên sau một giấc ngủ dài suốt mùa Đông băng giá. Sáng hôm sau, mặt trời lên rực rỡ, chan hòa trên những cành hoa anh đào hồng thắm, thủy tiên vàng nõn nà, uất kim hương đài các và hoa củ nghệ tây óng ả như những tấm áo cưới trắng trinh nguyên. Các lọai hoa nở cơ man trên những đồng cỏ xanh mướt như những quả tim nhỏ rộn ràng dưới nắng, trong vườn và trên những bậc cửa sổ vừa mở ra đón gió và nắng Xuân. Những con quạ đen, sáo bạc đầu và sẻ lông xám bắt đầu lăng xăng với những cọng rơm, cỏ khô, ríu rít xây tổ trên những máng xối. Vài con thiên nga trắng mượt mà thả mình trong nước lặng lờ, tạo những gợn sóng rẽ quạt trên những cạnh hồ nhỏ... Vào đầu tháng 4, thiên nhiên và con người xứ sở hoa uất kim hương và bóng đá thường khi đã sẵn sàng hân hoan đón mừng lễ hội. Nhưng mọi sự ít khi diễn ra suôn sẻ như mong muốn. Năm nay, đất nước vốn được mệnh danh là " xứ sở của sữa và mật ong" đã bắt đầu mùa Xuân với nhiều âu lo, vừa bất ngờ, vừa dai dẳng. Là một nước có nền kinh tế lệ thuộc vào ngoại thương, người Hà Lan có nhiều lý do để lo lắng. Từ bên ngoài, cuộc chiến tranh Iraq, cơn dịch SARS toàn cẩu, đồng Euro tiếp tục lên giá "không kềm hãm", đã ảnh hưởng trầm trọng đến doanh nghiệp Hà Lan. Nhưng chính những "vấn đề bên trong" mới làm người Hà Lan giật mình, tự điều chỉnh và thay đổi cách sống và suy nghĩ thường tình. Hãy thử ghi lại một vài sự kiện chính : - Cuộc ám sát lãnh tụ cực hữu Pim Fortuyn đã tạo cơ hội cho làn sóng chống "người nhập cư" và đạo Hồi.
- Những cố gắng liên tiếp để tạo thành một nội các mới sau gần 100 ngày thương thuyết căng thẳng chưa đem lại kết quả cụ thể nào.
- Nạn dịch gia cầm nối tiếp dịch "lở mồm long móng" năm ngoái đã buộc cơ quan thú y dịch tễ phải giết chết hơn 6 triệu con gà (gần bằng nửa dân số Hà Lan) để ngăn chặn lây lan ra toàn quốc và các nước lân bang.
- Số tội phạm có tổ chức tăng cao.Tất cả những biến cố đó đã xảy ra dồn dập và trên quy mô bất thường, khiến những người Hà Lan, vốn rất dễ dàng thích nghi với hoàn cảnh và kiên trì đối phó với thách thức phải bận tâm suy nghĩ. Tuy không hoàn toàn bi quan, nhưng ở khắp các diễn đàn hầu như đều bàng bạc một mối quan tâm chung về sự cần thiết phải phục hồi những giá trị và mẫu mực căn bản của một xã hội bình đẳng, tương trợ lẫn nhau và nhân ái, từng là niềm tự hào của Hà Lan trong những thập kỷ qua. Giải pháp đề nghị thật giản dị : trở về với những điều căn bản ( back to basics). Những "điều căn bản" đó thật ra đã được thể hiện tiềm tàng trong cách sống và suy nghĩ của người Hà Lan. Điều đáng ngạc nhiên khâm phục là tính tự nguyện " phục hồi và cải thiên xã hội" của người Hà Lan. Trong các cuộc tranh luận công khai và riêng tư, người ta thường nhắc nhở đối thủ : "Vâng, vấn đề nhập cư thật sự găng và phức tạp đấy, nhưng ta cũng nên cẩn trọng, đừng quên truyền thống tương trợ và nhân ái của mình". (Hà Lan là một trong những nước đầu bảng trên thế giới dành 1% GDP cho viện trợ nhân đạo hàng năm). Đài truyền hình cũng bắt đầu phổ biến những cảnh người trương dù che cho một em bé trong cơn mưa, kẻ đưa tay dắt một người cao tuổi qua đường, hoặc lật lại cổ áo cho một người vội vã lên xe điện, nhường nhịn, hòa nhã với nhau trên các tuyến đường hay bị tắc nghẽn, không xả rác trên đường phố. Nhiều khu phố bắt đầu tự tổ chức những cuộc "tranh tài thể thao" hoặc "liên hoan mừng Xuân" nho nhỏ để củng cố tình láng giềng "sớm tối có nhau".n Những diều tưởng như nhỏ nhoi đó thật ra đã giúp người Hà Lan cùng vượt qua những khó khăn và thách thức chung, đồng thời cũng giúp họ bớt "quá khích" hơn trong cách suy nghĩ về "mối đe doạ của người nhập cư" và lạc quan hơn về "tình hình thế giới" so với những người láng giềng Đức, Bỉ hay Pháp. Cũng trong tinh thần giải quyết vấn đề một cách "giản dị" và trong tinh thần "trở về với những điều căn bản" đó, phải kể đến những thần dân Hà Lan mừng sinh nhật nữ hoàng của họ. Nó thể hiện toàn bộ những đặc tính căn bản của một xã hội vừa trọng thị (nền quân chủ lập hiến) vừa thực tế (thị trường tự do), rất chi là Hà Lan !
|
|
|
Post by Oshin on Mar 19, 2004 8:07:06 GMT -5
Thật ra, 30-4 không phải là ngày sinh của nữ hoàng đương thời, người thường được thần dân gọi giản dị là "Beatrix". Bà sinh vào tháng 12, là một trong những tháng rét buốt nhất trong năm ở Bắc Âu, không phải là thời điểm lý tưởng cho các cuộc lễ hội chúc mừng ngoài trời. Để tránh cho thần dân phải co ro trong mưa tuyết, hoàng gia đã quyết định tiếp tục giữ ngày sinh của cựu nữ hoàng Willemnina đã thoái vị như một ngày lễ hội chung, để vinh danh triều đại Oranje đã trị vì xứ sở Hà Lan từ mấy trăm năm nay. Ngày hội thường bắt đầu bằng sự xuất hiện của vị nữ hoàng trên lan can tòa lâu đài ở Soestdijk vào buổi sáng trong sự háo hức của thần dân già, trẻ tự động kéo đến từ khắp các vùng, mang theo hoa, bánh trái, đặc sản, vật lưu niệm để chúc mừng ngày sinh của nữ hoàng yêu mến của họ. Nhưng lễ hội chỉ thực sự bắt đầu khi những khu chợ bán đồ "lạc xon" ( rommel markt) bắt đầu mở trên khắp các đưòng phố của các thị trấn và thành phố lớn, nhỏ trên toàn quốc. Không ai biết rõ nguồn gốc của kiểu chợ tự phát này, nhưng qua thời gian những khu chợ này đã trở thành một nét đáng yêu và thi vị nhất, trong rừng cờ xí màu da cam và nhạc rộn ràng của ngày lễ hội sinh nhật nữ hoàng ( Koninginnedag). Thoạt tiên, đó là cơ hội dành cho trẻ con thực tập "óc doanh nghiệp", vốn là ưu thế đặc trưng của các thế hệ doanh nhân Hà Lan trên khắp thế giới, khởi đầu từ những chuyến tàu buôn từ Amsterdam đi châu Á vào thế kỷ 17. Các "thương nhân tương lai" thường được dành riêng những vỉa hè tiện lợi và đẹp nhất giữa trung tâm thành phố để bày bán tất cả những đồ vật vụn vặt tạp nham đã thu nhặt và gom góp từ cha mẹ, bạn bè...từ những tháng trước. Từ sáng sớm đến cuối buổi chiều, những "chủ nhân ông" nhi đồng này đã bày biện, rao hàng và thương lượng giá cả các món hàng của mình một cách thành thạo, nhiệt tình và chuyên nghiệp đến không ngờ. Chẳng có ai nỡ kì kèo với những "con buôn" lanh lợi tí hon này, hay lờ đi không bỏ vài đồng xu Euro vào chiếc mũ của những nhạc sĩ nhi đồng đang "phồng mang, trợn mắt" thổi bài mừng sinh nhật ( lang zal in leven) với chiếc Saxophone dài gần bằng chiều cao của người "nhạc sĩ" ! Ai cũng biết là phần lớn "lợi nhuận " của một ngày làm ăn đầy hào hùng đó rồi cũng sẽ được sung vào quỹ cứu trợ nạn đói ở châu Phi hay bảo vệ thú quý hiếm ở đâu đó trên hành tinh. Và tất cả mọi người đều cười vui, giớn cợt, hỉ hả với nhau, tạm quên những rối rắm của cuộc đời ! Ngày 30-4 không còn là một ngày vui riêng cho dân Hà Lan nữa mà đã trở thành một sự kiện hấp dẫn khách du lịch bốn phương. Sau khi đã dạo chơi vườn Keukenhof, nơi trưng bày những cánh hoa uất kim hương màu đen tuyền có tên "hoàng tử Ba Tư" duy nhất trên thế giới, thử ghé lại một thành phố lớn như Amsterdam, Rotterdam, The Hague, Ultrecht, Groningen, hay bất cứ một thị trấn nhỏ như Bussum, Delft, hay một nơi nào đó ở Hà Lan trong ngày, bạn sẽ thấy cuốn hút một cách tự nhiên vào không khí lễ hội sôi động, náo nhiệt và đầy ý nghĩa của một xã hội biết sống, thụ hưởng và chia sẻ. Nếu may mắn, bạn có thể tìm được một con tem còn thiếu trong bộ sưu tập, một đĩa nhạc hiếm hoi của Sylvie Vartan thời 1960, hay nếu may mắn hơn nữa, bạn có thể tìm thấy "một nửa của mình" trong đám đông rạng rỡ ngày lễ hội. Thần dân Hà Lan "xuống đường" trong ngày 30-4 để chúc mừng sinh nhật nữ hoàng của họ, nhưng quan trọng hơn cả là tìm thấy bản chất xã hội của mình - bình đẳng - hòa hợp -nhân ái - giữa một cộng đồng tuy nhỏ nhưng quá nhiều sắc tộc (chiếm đến hơn 10% tổng dân số ).
|
|
|
Post by Robot on Mar 19, 2004 10:55:10 GMT -5
Giếng bậc thang - kiến trúc độc nhất vô nhị của Ấn Độ Một chiếc giếng bậc thang được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Ở quốc gia Nam Á này, người ta xây giếng bậc thang như một hành động sùng kính để được ân xá mọi tội lỗi trong đời. Hầu như mọi làng mạc, thành phố của bang Gujurat đều có ít nhất một chiếc giếng loại này. Ngày nay, rất nhiều giếng đã cạn nước, số khác lỗi thời, song một số vẫn còn tồn tại như là biểu tượng, là nơi thờ cúng. Giếng bậc thang ở Ấn Độ không giống các loại giếng mà chúng ta thường thấy. Đó là cả một công trình lớn gồm hai phần: phần nổi trên mặt đất là Madapa, tức là cửa vào giếng được xây dựng khá công phu, và nhiều tầng nằm sâu dưới lòng đất gồm nhiều bậc thang dẫn xuống tận mặt nước được gọi là Kuta. Dưới cùng là Kund, nghĩa là đáy giếng, nơi chứa nước. Điều lạ lùng là tất cả những tầng giếng đều ở dưới lòng đất, được chống đỡ bằng các cột lớn, sâu tổng cộng đến 87 mét. Các mặt của thành giếng đều được trang trí bằng những họa tiết điêu khắc độc đáo. Hai giếng bậc thang cổ nhất ở Gujarat là Navghan và Adi-Chadi. Cả hai đều nằm trong một ngọn núi đá non. Thành vách giếng được chạm khắc sâu và tỉ mỉ. Tiếp đó là hai giếng Jhilani và Manjushr ở Dahank được xây dựng vào thế kỷ thứ 6. Gần 5 thế kỷ sau, giếng Suryakund đã được xây dựng cạnh khu đền thờ Thần mặt trời nổi tiếng ở Modhera. Giếng Rani Ki ở khu làng Patan là giếng đẹp nhất, được xây dựng vào năm 1032 sau Công nguyên theo yêu cầu của hoàng hậu Rani Udaymati, vợ của ông vua lớn nhất triều đại Chalukya. Phần lớn khu giếng này vẫn nằm dưới lòng đất từ nhiều năm nay, còn những phần nổi trên mặt đất thì đã bị tháo gỡ để trang trí cho một chiếc giếng bậc thang khác. Dù đã bị hư hại nhiều nhưng những phần còn lại của giếng Rani Ki vẫn rất gây ấn tượng với nhiều người vì quy mô đồ sộ của nó và những họa tiết đa dạng, độc đáo bên trong. Hình của các vị tổ sư của đạo Hindu đều được chạm khắc trên thành giếng, trong các hốc tường và hành lang bao quanh. Có thể thấy ở đây các tác phẩm điêu khắc về thần Vishnou ở nhiều tư thế khác nhau. Trong số đó, bức chạm đẹp nhất mô tả thần Vishnou ngồi trên kệ hình rắn, tượng trưng cho thần Sheshnaga. Hình ảnh các nữ thần cũng xuất hiện rất nhiều trong các giếng bậc thang này, như nữ thần Sông núi, nữ thần Khiêu vũ. Đó cũng là những hình ảnh đẹp nhất tượng trưng cho quyền lực sinh sản của tự nhiên. Chẳng hạn cảnh mô tả nữ thần Khiêu vũ đứng dưới gốc cây xoài, tay để trước bụng gợi sự phồn thịnh, sinh sôi giống như cây xoài sum suê hoa trái. Các nữ thần thường được chạm cùng với một chiếc gương, một chiếc hũ hoặc bồng một đứa trẻ, hay đơn giản là đang trong tư thế nhảy múa. Dường như các nghệ nhân đã thả hồn cho cảm hứng của mình bay xa khi trang trí Rani Ki. Một số tác phẩm điêu khắc ở đây được so sánh với các tác phẩm điêu khắc trong đền thờ mặt trời ở Modhra, đền Vimala Vasahi ở núi Abu hoặc trong các lăng mộ Phật giáo Ấn Độ. Một số hình ảnh chỉ đơn giản là những cảnh thể hiện tín ngưỡng phồn thực như cảnh một con khỉ đang cởi quần áo một người phụ nữ hoặc cảnh một số cô gái đang cởi bỏ đồ lót, còn những con bò cạp thì bò trên đùi họ. Các thành giếng bậc thang còn được chạm khắc cảnh chiến trận, vũ khí, những chiến binh đang đối mặt với kẻ thù được thể hiện dưới dạng người hoặc con vật. Giếng Mata Bhavani ở Asarva là một giếng bậc thang khá độc đáo, được xây dựng từ thời đại Chalukya dành cho thánh mẫu AmbaBhavani. Nó mang đậm ý nghĩa tôn giáo với kiến trúc hấp dẫn, đẹp mắt với những họa tiết đặc trưng của thời tiền Trung cổ. Asarva còn nổi tiếng với một chiếc giếng khác mang tên Dada Harir ki. Chiếc giếng này có niên đại từ thế kỷ 16, dưới thời vua Mahmud Begarah. Đây là vị vua thẳng tính nhất trong số các vị vua trị vì tại Gujurat. Ta có thể thăm giếng bằng nhiều dãy cầu thang cố định, hình xoắn ốc đến tận đáy giếng. Vì đây là một công trình của người theo đạo Hồi nên không có cảnh phồn thực mà chủ yếu là các họa tiết trang trí hình hoa lá. Tuy nhiên, cũng có một số họa tiết hình con vật do ảnh hưởng của đạo Hindu. vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/03/3B9D09A5/gieng1.jpg[/img]Thành giếng Adalaj. Dù được xây dựng trước nhưng giếng Adalaj (cách Ahmedabad 18 km) rất giống giếng Dada Harir về mặt bố cục và diện tích, có điều có nhiều nét hoa văn đa dạng và tỉ mỉ hơn: các ban công, hốc tường và các cột chống đỡ các tầng giếng đều được trang trí bằng các họa tiết pha lẫn những nét đặc trưng của Hindu giáo và Hồi giáo. Theo truyền thuyết địa phương giếng này được xây dựng để tưởng nhớ một tình yêu bất tử và việc giếng luôn đầy nước tượng trưng cho sức sống mãnh liệt của nàng Rudba Devi, người vợ xinh đẹp của vua Veer Singh. Trong cuộc chinh phục các vùng đất mới, vua Beghara đã chiếm được vùng Dandai Desh và giết chết vua Veer Singh của triều đại Vaghela. Sau đó, Beghara cầu hôn hoàng hậu Rudba Devi. Nàng đề nghị vua Beghara chờ một thời gian để xây xong giếng Adalaj tưởng nhớ người chồng cũ của mình. Beghara đồng ý mà không biết rằng Rudba Devi đã dành 20 năm liền để hoàn thành chiếc giếng. 20 năm sau, Beghara cầu hôn lại và hoàng hậu đã trả lời bằng cách gieo mình xuống giếng. Kiến thức Ngày nay (theo Ca m'intéresse)
|
|
|
Post by Robot on Apr 1, 2004 15:03:46 GMT -5
Bảo tàng văn hóa các loại trà của Châu Á Trà từ lâu nay đã được yêu thích không chỉ bởi hương vị mà còn vì những tác dụng hữu ích của nó đối với sức khỏe và đời sống của con người, đặc biệt là với người Á Đông. Mới đây, một bảo tàng về văn hóa các loại Trà của các nước Châu Á đã chính thức đi vào hoạt động.
Nằm trong một trong số những trung tâm văn hóa nổi tiếng nhất của Seoul (Hàn Quốc), bảo tàng các loại Trà của Châu Á trưng bày hàng trăm vật dụng liên quan đến Trà như bình đựng trà, cốc, dụng cụ pha trà…
Những đồ vật trưng bày ở đây rất đa dạng, bao gồm những vật dụng làm bằng gốm, sứ, đá, ấm đun nước bằng kim loại, những người pha trà làm bằng gỗ, những chiếc bình sặc sỡ với hoa văn và kiểu dáng. Tổng cộng có khoảng 400 hiện vật các loại, chủ yếu được tập hợp từ bốn đất nước rất nổi tiếng về Trà là: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản và Tây Tạng.
Ở văn hóa trà của Hàn Quốc, người xem thấy được một nét văn hóa của thời kỳ đồ đá mới được thể hiện qua ấm trà và tách dùng trà làm bằng đá được đánh bóng. Văn hóa trà của Trung Quốc lại thể hiện ở sự đa dạng về chủng loại và hương vị của các loại trà cũng như những tác dụng về mặt y học cổ truyền của chúng. Nhật Bản mang đến một phong cách trà đạo mang đậm tính nghi lễ truyền thống của người Nhật qua những bức họa cổ xưa mô tả về những nghi thức trà đạo.
Có thể nói rằng đây là lần đầu tiên văn hóa trà của Tây Tạng được đem ra trưng bày và quảng bá. Người Tây Tạng quanh năm sống trên núi cao. Thức ăn chính của họ là thịt và họ lấy trà thay cho rau xanh. Vì vậy, những bình đựng trà của Tây Tạng được làm từ vỏ cây, gỗ và có rất nhiều hình dạng khác nhau, thuận tiện cho việc mang theo bên mình.
Du khách đến thăm bảo tàng có thể dạo chơi trong khuôn viên thanh tịnh và uống bất cứ loại trà nào mà mình yêu thích. Ngoài ra, khách tham quan còn có thể tăng thêm vốn hiểu biết của mình về văn hóa dùng trà của các nước Châu Á qua các buổi giới thiệu, biểu diễn pha trà và nói truyện về nghệ thuật dùng trà.
Theo HNM
|
|
|
Post by Robot on Jun 23, 2004 12:18:02 GMT -5
SAN JOSE CÓ GÌ LẠ KHÔNG, EM? Chu Tất Tiến Có lẽ trong số dân trung niên, tầm tầm, rất ít người không biết đến câu: “Paris có gì lạ không, em?” Hồi ấy, nghe câu thơ này, tự dưng trong hồn thấy cơn lãng mạn dâng trào, con trai thì phải làm ngay một ly cà phê cho đã, hoặc “rít” một hơi thuốc lá cho tới tận cuống, rồi bâng khuâng nhả khói chầm chậm, nhẹ nhàng để làn khói bay lảng vảng trong không một lúc rồi mới tan đi. Còn con gái? Nho nhỏ thì ôm lấy cuốn “Lưu bút ngày xanh” vào lòng, mắt lơ đãng nhìn vào những tấm hình bạn bè và những dòng chữ thân thương, để nhớ đến cánh bướm vàng khô ép trong cuốn vở trắng tinh, những lời gán ghép đỏ mặt,và những giây phút vui đùa rũ rượi bên nhau. Nhớn nhớn một chút thì cắn môi, tay vân vê những sợi tóc dài buông thả trên bờ vai, nhìn qua cửa sổ, hướng về phía cánh cửa nhà của “chàng” cách đấy không xa, lắng nghe tiếng đàn ghi-ta chập chững của chàng mà tơ tưởng đến một thành phố diệu vợi bên trời Tây biền biệt kia, có dòng sông Seine lờ lững uốn quanh phố thị như cánh tay của nàng Venus đa tình đang vươn ra, mời mọc. Nhưng rồi, thời gian qua, có dịp đến Paris, để thấy Paris chẳng có gì lạ cả! Y hệt như trong những tấm “carte postal” ngày xưa. Dù hai, ba chục năm trôi qua, Paris vẫn thế, vẫn nóc thánh đường cổ kính, vẫn tháp Eiffel xương xẩu, và những con đường chật hẹp chỉ đủ lọt một chiếc xe hơi và một chiếc xe đạp. Dân Paris đi làm, ăn mặc chững chạc, “complê, cravát”, nhưng tay lại cắp một ổ bánh mì dài thòng không nhân, cuộn trong một tờ giấy vàng ố. Đường xá nhiều xe, nhưng đa số là xe tàn và tắc xi, những anh tắc xi “chém” bạo hơn máy chém thời Robespiere, vừa bước lên xe đã thấy đồng hồ nhẩy vài đôla rồi; hỏi tài xế thì cho biết đó là tiền “baga”, nghĩa là tiền chở đồ! Vào tiệm uống cà phê thì coi chừng cà phê Paris làm loãng máu, vì giá dành riêng cho du khách được tính đặc biệt, uống xong một ly thì xây xẩm mặt mày, máu tan ra như nước. Nếu đói bụng mà muốn thưởng thức cơm Tầu, Paris đãi khách bằng loại hủ tiếu không thịt, chỉ toàn bánh và nước. Muốn có thịt, phải kêu riêng một tô thịt riêng, giá tương đương với tô bánh. Paris chật hẹp, Paris không có nước xài thả giàn như ở Mỹ, dân Paris hai, ba ngày tắm một lần, nên nước hoa Paris bán đầy phố. Khách sạn Paris có hai loại: loại quyền quý, loại trung bình. Loại quyền quý thì không dám bước chân vào, sợ khi trả buồng, bước ra thì cụt cẳng. Loại trung bình thì chán phè, buồng chật, thang máy hẹp, phòng tắm bé tẻo tèo teo, nhìn khăn trải giường không dám nằm úp mặt xuống. Bởi vậy, Paris chẳng có gì lạ cả. Chắc thêm ba chục năm nữa, Paris vẫn là một vũ nữ về chiều, ngồi trên ghế đá, lắc lư đầu nhìn khách vội vã bước qua. Trong khi đó, thì tại Tiểu Bang miền viễn Tây này, có một thành phố mà lúc nào lên chơi cũng thấy lạ: San Jose! Từ Orange lên miền Bắc, xe vượt qua những con đèo ngoằn ngoèo, rồi tới một khoảng dài xa lộ mà chỉ có một “lane”, đi ban đêm, tim đập thình thịch, chỉ sợ vừa quẹo ra là thấy lù lù một chiếc xe tải khổng lồ đâm sầm tới. Và những khúc xa lộ chạy trong thành phố, những vườn nho lẩn giữa những trang trại kiểu xưa đột ngột biến hiện trong những tòa nhà đang xây cất hiện đại. Rồi thung lũng hoa vàng từ từ hiện ra, rất sương khói, rất mờ nhạt, và rất lạ. Xa lộ cũng từng ấy “lane” mà hình như khác với xa lộ Orange, không diễn tả được. Cũng kẹt xe, cũng xe cộ nối đuôi nhau, nhưng một khi vào tới xa lộ San Jose rồi, thì cảm giác lâng lâng sao đó, không còn cảm thấy sự căng thẳng của lái xe lâu giờ, không thấy “road rage” làm muốn chửi thề liên tục, không thích bấm còi dầu người bên cạnh lái ẩu, mà chỉ muốn tha thứ, muốn mỉm cười với người không quen. Sao vậy, nhỉ? San Jose có chi lạ mà mỗi lần lên, lại như trẻ hẳn ra? Quán ăn San Jose cũng bàn, cũng ghế, cũng phở, cũng bún bò Huế, cũng hủ tiếu, cơm tấm, nhưng hình như bà chủ San Jose dễ thương hơn, tươi mát hơn, nên thức ăn có vị đậm đà hơn. Quán cà phê San Jose buổi sáng vắng hoe, không ồn ào như Orange, nên thưởng thức một ly nong nóng vào lúc sương còn lảng vảng trong hồn, thấy như cà phê San Jose độc nhất vô nhị. Trong cà phê có pha sương, trong sữa đậu nành có chút gió, trong tô phở có nụ cười. Giá sống ở đây trắng nuốt như nàng sơn nữ Phà Ca, rau răm ở đây nhấp nháy như cặp mắt ai Quan Họ. Aên uống ở đây, tình tứ và lãng mạn hơn Paris nhiều. Buổi tối, lái xe đi vòng vòng thành phố, thấy San Jose như cô thiếu nữ kiều diễm, nửa Tây Phương, nửa Châu Á, thay đổi mầu áo từng giờ, từng phút. Những quán sách, dĩ nhiên ít sách hơn ở Orange, nhưng lại cám dỗ vô cùng. Những chợ, những quán “to go”, dĩ nhiên nhỏ hơn Orange, nhưng lại đầm ấm hơn, thân thiết hơn, bước vào chỉ muốn mua một chút gì đó, rồi tần ngần bước ra, muốn để một chân lại trong cửa. Hình như khí hậu ẩm ẩm, lành lạnh làm cho San Jose có một không khí lúc nào cũng lạ.
|
|
|
Post by Robot on Jun 23, 2004 12:21:21 GMT -5
Như thế, đến San Jose rồi là không muốn về, dù San Jose đất chật, người đông. Nhất là một hôm, San Jose tặng cho một kỷ niệm đẹp, mãi mãi không quên. Chiều Chủ Nhật ấy, San Jose mưa như mưa tháng Bẩy, người Orange đi lễ tại một ngôi nhà thờ cổ kính nằm giữa lòng thành phố. Orange đậu xe lại, giương dù định bước ra, chợt thấy ngay bên cạnh, San Jose cũng vừa đậu xe, mà ngập ngừng nhìn lên trời, đếm những hột mưa ào ào rơi xuống như những sợi chỉ thủy tinh trắng trong. San Jose quên dù ở nhà mất rồi! Orange suy nghĩ trong một giây, rồi bước đến cạnh xe San Jose, gõ cửa nhè nhẹ, rồi lấy tay chỉ chỉ vào cây dù. Cặp mắt nai San Jose mở to, ngần ngại trong giây lát rồi khép nhẹ. Cánh tay nhẹ nhàng đưa xuống mở cửa. Cây dù của Orange nghiêng vào, che mái tóc, rồi che cho cả chiếc váy đen dài của San Jose. Từ ấy, dưới mái dù ấy, chân Orange và San Jose đi cạnh nhau, tránh vũng nước này, nhẩy lên viên gạch nọ, lách qua bụi cây, bước lên thềm giáo đường. Tới dưới mái hiên, dù gấp lại, và nghe rõ tiếng cây dù thở dài. Sao mưa không tạt vào ướt cả thánh đường để dù được giương lên mãi? Dù bâng khuâng, và ráng mỉm miệng cười khi nghe tiếng “thanks” nhỏ nhẹ, ngân vang trong lòng dù.
Thánh lễ hôm ấy hình như dài hơn mọi hôm. Cha giảng hình như hơi nhiều, người ta chịu lễ hơi đông. Và rồi, chờ mãi thì cũng thấy lễ tất. Bước ra khỏi cửa, gặp ngay cặp mắt San Jose đang đứng chờ. Vẫn lặng lẽ, không một lời chào, không một gật đầu, dù giương cao, che cho mái tóc San Jose khỏi ướt, và lại trở lại con đường cũ. Không, không phải, đường này sai rồi, tại cây dù lúng túng nên đi lạc rồi, không thấy xe đâu. Hay Orange cố tình đi lạc? Không phải đâu, Orange đang cố dõi mắt tìm xe chứ! Đây, đây rồi. Xe San Jose đậu cạnh xe Orange đây. Cánh cửa mở ra, San Jose bước vào và ngước lên nhìn. Mắt San Jose mở lớn đến nỗi Orange thấy cả mình trong đó. “Thanks.” Tiếng nói thứ hai và là tiếng cuối cùng. Xe San Jose từ từ chuyển bánh. Orange bỗng tự nhiên thấy mình già hẳn. Mới phút trước là chàng thanh niên trung niên, hùng tráng, mạnh bạo; chỉ phút sau, chân đã lập cập kiểu ông già tám mươi, tay rung rung cắm chìa khóa mãi mà không vào, đóng cửa mãi mà không kín, “đề” mãi mà xe không nổ máy làm nước mưa tung tóe vào, ướt cả tóc tai... Tự dưng, Orange muốn ngâm câu thơ cuối của một bài thơ xưa: “Orange ơi! Hồn ở đâu bây giờ?” nhưng thấy một câu thơ không đủ, người Orange bèn phải viết nguyên một bài thơ tặng cho San Jose như sau:
San Jose có gì lạ không, em?
San Jose có gì lạ không, em? Hình như, ở đó, tóc em rất mềm Hình như gió núi làm em mỏng Đêm lạnh, thở dài, bỗng lạnh thêm.
San Jose có gì lạ không, em? Cà phê buổi sáng chưa đã cơn thèm Nhìn qua cửa sổ, như chim sâu nhỏ Nửa muốn nằm vùi, nửa muốn bay lên
San Jose có gì lạ không, em? Quán xá về khuya, khách ngồi như thiền Thinh lặng ngó hồn theo dòng nhạc Thơ thẩn về nơi rất thân quen
San Jose có gì lạ không, em? Chủ Nhật, mưa bay, đi dù rất hiền Chân “ma sơ” chạm chân trần thế Anh bỗng thèm một vòng lưng êm
San Jose có gì lạ không, em? Giữa ban ngày mà lòng như đêm Giọt mưa hôm ấy còn lành lạnh Cánh cửa nào đã khép lại hồn em?
Và San Jose lúc nào cũng lạ Người tình lúc nào cũng lãng đãng xa Đến hoài mà vẫn như tờ giấy trắng Chưa nụ hôn nào nóng bỏng môi ta..
Chu Tất Tiến
|
|