|
Post by Robot on Mar 22, 2004 14:57:41 GMT -5
Lễ hội chùa Hương Chùa Hương và động Hương Tích là danh lam nổi tiếng của Việt Nam thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Ðức, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 70km. Chùa Hương là một tập hợp nhiều động, nhiều chùa trong một tổng thể cấu trúc kết hợp vừa thiên nhiên vừa nhân tạo bao gồm núi, đồi, hang, động, suối rừng, chùa tháp... Lễ hội chùa Hương kéo dài từ 6 tháng giêng đến hết tháng 3 âm lịch. Du khách có thể đi bằng đường bộ theo hành trình Hà Nội - Hà Ðông - Vân Ðình - Hương Sơn hoặc từ thị xã Phủ Lý ngược dòng sông Ðáy lên Bến Ðục - Yến Vĩ - Hương Sơn Theo tâm thức của người Việt Nam Hương sơn được coi là cõi Phật. Chùa Hương là nơi thờ Phật Bà Quan Âm. Ngày 6 tháng giêng là ngày khai hội, có tổ chức múa rồng ở sân đền Trình, bơi thuyền múa rồng trên dòng suối Yến. Hội trải rộng trên 3 tuyến, tuyến Hương Tích, tuyến Tuyết Sơn và tuyến Long Vân. Hội chùa đông nhất từ 15 đến 20 tháng 2 (chính hội). Ðường núi từ chùa Ngoài vào chùa Trong lúc nào cũng tấp nập từng đoàn người lên lên, xuống xuống. Trảy hội chùa Hương không chỉ đi lễ Phật mà còn là có dịp thưởng ngoạn cảnh đẹp của biết bao hình sông thế núi, có cơ hội nhận biết bao công trình lớn nhỏ đặc sắc của di tích Hương Sơn đã trở thành si sản văn hoá của dân tộc.
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 14:59:59 GMT -5
Lễ hội Yên TửVùng núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công cách trung tâm thị xã Uông Bí (Quảng Ninh) khoảng chừng 14 km. Trước đây, người ta gọi núi Yên Tử là núi Voi bởi hình dáng ngọn núi tựa như một con voi khổng lồ. Trong sử sách ghi lại, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn bởi quanh năm núi chìm trong mây trắng. Giữa những cánh cung núi trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, núi Yên Tử cao hơn 1000 mét, vút lên như một toà tháp, đã từng nổi tiếng là ngoạn mục. Các triều đại vua chúa xếp Yên Tử vào hạng " danh sơn" của nước ta. Đây là trung tâm Phật giáo của nước Ðại Việt thuở trước, nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm. Trong quần thể di tích Yên Tử rộng lớn hiện có 11 chùa và hàng trăm am tháp. Chùa Ðồng ở trên đỉnh cao nhất 1.068 m (so với mặt nước biển). Lên chùa Ðồng du khách cảm tưởng như đi trong mây ("nói cười ở giữa mây xanh -Nguyễn Trãi). Ở Yên Tử có ngọn tháp cao 3 tầng bằng đá. Ngọn tháp có niên đại "Cảnh Hưng thập cửu niên - 1758" là cổ nhất. Cũng không đâu có rừng tháp như khu Tháp Tổ ở Yên Tử gắn liền với những sự tích huyền thoại về ông vua nhà Trần và phái Thiền Trúc Lâm. Hội Yên Tử bắt đầu từ ngày 9 tháng Giêng và kéo dài hết 3 tháng mùa xuân. Sau phần nghi lễ long trọng của lễ hội tổ chức dưới chân núi Yên Tử là cuộc hành hương của hàng vạn người đến với chùa Đồng ở trên đỉnh núi. Du khách đến hội chùa Yên Tử để được tách mình khỏi thế giới trần tục, thực hiện cuộc hành hương tôn giáo giữa thiên nhiên hùng vĩ. Thú vui "như hội" là leo núi, lên đỉnh cao nơi có chùa Ðồng. Trên đường đi chốc chốc lại gặp ngôi chùa, ngọn tháp, con suối, rừng cây mỗi nơi là một truyện cổ tích sâu lắng tình người. Lên đến đỉnh núi tựa như cổng trời, sau khi thắp nén nhang ai nấy như mình đang đứng giữa trời, lòng lâng lâng thoát tục. Khi trời quang mây tạnh, từ nơi đây có thể phóng tầm mắt dõi nhìn khắp vùng biển miền Ðông Bắc. Ca dao có câu: "Trăm năm tích đức, tu hành Chưa đi Yên Tử, chưa thành quả tu"
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 15:02:05 GMT -5
Ngày xuân đi hội Lồng Tồng ... Áo em thêu chỉ biếc hồng Ngày xuân đi hội Lồng Tồng thêm tươiTrong ký ức của người dân Phú Ðình (Ðịnh Hoá) nói riêng, người Thái Nguyên nói chung, hình ảnh trong câu thơ trên vẫn sống động như một lời mời gọi. Bởi Lồng Tồng (Hội xuống đồng) đã từng là lễ hội lớn nhất, vui nhất của người Tày, người dân tộc thiểu số đông nhất ở tỉnh Thái Nguyên. Những người cao niên kể lại rằng, trước đây người Tày năm nào cũng tổ chức lễ hội ở những đám ruộng to nhất, đẹp nhất do dân bản chọn. Ngày tổ chức do từng nơi ấn định cho phù hợp. Các địa phương ở gần nhau thì thoả thuận chọn các ngày khác nhau để có điều kiện giao lưu. Trước ngày hội, các gia đình đều quét dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Khách đến quê nhà dù quen dù lạ đều được đồng bào mời về nhà ăn nghỉ qua đêm chờ dự hội Trong ngày diễn ra lễ hội, phần lễ và phần hội đều diễn ra trang trọng, vui tươi. Phần lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ðể chuẩn bị lễ ở ngoài đồng, mỗi gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng, có nhiều nhà làm từ vài chục đến một trăm món. Việc làm cỗ còn mang hàm ý phô bày một cách kín đáo sự khéo léo của người phụ nữ trong việc nội trợ, nấu nướng các món ăn truyền thống như bánh chưng, bánh dày, chè lam, bánh bỏng... Có những gia đình dâng mâm cao đến 5 tầng lễ vật, ngoài các loại bánh kẹo còn có các món ăn được chế biến công phu, trên mỗi mâm đều có một chiếc bánh hình bông hoa nhiều mầu sắc. Mỗi mâm cỗ còn có thêm hai đôi quả còn được làm bằng vải mầu, trong nhồi cát, bông, có tua rua nhiều mầu sắc sặc sỡ. Khi cỗ được bày xong, người đựơc dân làng tín nhiệm tiến cử thực hiện nghi lễ cầu cúng cầu mong đất trời, thần linh phù hộ cho bản làng. Phần cúng lễ cũng chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, còn dành thời gian cho phần hội. Mở đầu là hội tung còn. Ðây là hoạt đông vui nhất, thu hút nhiều người tham gia nhất. Ðể chuẩn bị cho hội tung còn, ở giữa đám ruộng lớn đựơc chọn làm địa điểm lễ hội, người ta dựng một cây mai cao từ 20-30cm làm cột. Trên đỉnh cột có uốn vòng tròn đường kính 50 - 60 cm dán giấy hai bên, đề chữ Nhật- Nguyệt tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời. Tung còn đòi hỏi cả sức khoẻ và sự khéo léo. Nếu ở lễ hội nào không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hoà. Trong trò chơi này, nam nữ thanh niên còn thi tung còn cho nhau. Ngoài ra còn có các hoạt động múa sư tử, múa võ, kéo co... Ðặc biệt, đêm về, nam nữ thanh niên thi hát lượn đối đáp suốt canh dài... Cho đến bây giờ chưa có tài liệu nào nghiên cứu, khẳng định lễ hội Lồng Tồng có từ bao giờ. Nhưng chắc chắn rằng, khởi nguồn của lễ hội phải được sinh ra từ xã hội của người Tày khi đã sống thành làng bản quần cư trong cộng đồng.
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 15:03:28 GMT -5
Hội LimQuan họ là loại dân ca đặc sắc của vùng Kinh Bắc xưa và nay là tỉnh Bắc Ninh. Lim là tên Nôm của xã Lũng Giang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 18 km. Hội mở trên đồi Lim, có chùa Lim nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu, người sáng lập tục hát quan họ. Hội Lim mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Khách kéo về dự hội Lim rất đông để được xem hát quan họ giữa các "liền anh" "liền chị", hát sau chùa, hát trên đồi, hát đối đáp từng cặp đôi, hát trên thuyền... với đủ các làn điệu quan họ khác nhau. Ngoài ra, trảy hội Lim còn được xem các cuộc thi dệt của các cô gái Nội Duệ, vừa dệt thi vừa hát quan họ. Cũng như các Hội khác, hội Lim cũng có đủ các phần từ lễ rước đến tế lễ cùng nhiều trò vui khác. Hội Lim là một sinh hoạt văn hoá - nghệ thuật đặc sắc của nền văn hoá truyền thống lâu đời ở xứ Bắc và dân ca Quan họ trở thành tài sản văn hoá chung của dân tộc, tiêu biểu cho loại hình dân ca trữ tình Bắc Bộ.
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 15:05:37 GMT -5
Lễ hội gò Đống ĐaLễ hội gò Ðống Ða (thuộc quận Ðống Ða- Hà Nội) hàng năm diễn ra vào ngày mồng 5 Tết Nguyên Ðán (5/1 âm lịch). Ðây là lễ hội chiến thắng, mừng công tích lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, do Hoàng đế Quang Trung (Nguyễn Huệ ) người anh hùng áo vải Tây Sơn lãnh đạo. Cách đây hơn 2 thế kỷ (1789), Ðống Ða là nơi hơn 29 vạn quân Thanh bị tiêu diệt. Gò Ðống Ða trở thành di tích lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Sáng sớm ngày 5, đám rước thần mừng chiến thắng từ đình Khương Thượng về Gò Ðống Ða trong rừng cờ, tàn, tán, lọng, kiệu,... rực rỡ màu sắc cùng chiêng, trống, thanh la....diễu hành chậm rãi mang tính hoành tráng của cuộc mừng đón chiến công. Ðặc biệt nhất là rước " Rồng lửa" được bện bằng nùi rơm, mo nang và giấy bồi trang trí thành hình con rồng, một tốp thanh niên bận võ phục đi quanh, biểu diễn côn, quyền như tái hiện lại cuộc chiến đấu đã qua. "Rồng lửa Thăng Long" trở thành biểu tượng chiến thắng của dân tộc Việt Nam. Khi đám rước về đến gò Ðống Ða, có lễ dâng hương, lễ đọc văn kể lại sự tích chiến công năm Kỷ Dậu, ca ngợi thiên tài quân sự của anh hùng dân tộc Quang Trung. Hội còn có nhiều trò chơi vui khoẻ, đua tài, đua trí trên bãi rộng trước gò. /* không có vua Quang Trung, chỉ có vua Thánh tổ Võ Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung. Đế hiệu là Thánh tổ */ (NBQ)
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 15:07:53 GMT -5
Hội Gióng Hội Gióng thuộc làng Phù Ðổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Ðây là một lễ hội quy mô lớn, hình thức tổ chức rất chặt chẽ diễn ra vào ngày 9 tháng 4 âm lịch hàng năm (ngày ông Gióng thắng giặc Ân) để tưởng niệm và nhớ ơn người anh hùng làng Gióng đã có công đánh giặc cứu nước, đã được nhân dân suy tôn là Thánh Gióng. Công việc chuẩn bị cho lễ hội bắt đầu từ 1/3 đến 5/4 với các việc tập dượt chuẩn bị cho ngày chính Hội. Ngày 9/4 (chính hội) có lễ rước từ đền Mẫu đến đền Thượng, múa hát thờ, hội trận (diễn lại trận đánh thắng giặc Ân). Cuối cùng là việc khao quân, đêm đến có hát chèo. Ngày 10/4 là ngày vãn hội, làm lễ duyệt quân, lễ tạ ơn Gióng. Ðến với hội Gióng, người ta thấy được mối quan hệ giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, quá khứ và hiện tại như hoà nhập với nhau. Truyền thống yêu làng yêu nước được giữ gìn như một tài sản văn hoá.
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 15:10:34 GMT -5
Hội đền Kiếp Bạc Ðền Kiếp Bạc thuộc xã Hưng Ðạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nơi thờ Trần Quốc Tuấn- vị tướng trụ cột của nhà Trần đã ba lần đánh tan giặc Nguyên Mông, có công cứu nước, giải phóng dân tộc được nhân dân tôn thành "Thánh". Từ Hà Nội theo quốc lộ 1A, đi ô tô tới Bắc Ninh (khoảng 30 km) rồi đi tiếp theo quốc lộ 18 (Bắc Ninh- Phả Lại) tới hội đền Kiếp Bạc. Lễ hội đền Kiếp Bạc kéo dài từ 15/8 đến 20/8 âm lịch. Trảy hội Kiếp Bạc, tưởng nhớ Ðức Thánh Trần, từ nhiều thế kỷ qua, đã là tập quán của người Việt Nam. Ngày 20/8 âm lịch mới là chính hội nhưng một vài ngày trước đó khách thập phương đã nô nức kéo về, thuyền đậu chật bến sông. Lễ hội được tổ chức rất long trọng vào ngày 20/8 âm lịch. Sau lễ dâng hương là đại lễ với nghi thức tế uy nghiêm. Sau lễ tế là đến lễ rước. Bài vị Ðức Thánh Trần được rước trên Kiệu sơn son thiếp vàng, đi qua Tam Quan hướng tới bờ sông. Từ đây kiệu được rước lên thuyền rồng. Cuộc rước kéo dài khoảng 2 giờ, sau đó lại rước Ngài trở lại đền để làm lễ tạ- đồng thời kết thúc ngày hội lớn. Trước đây hội Kiếp Bạc còn nặng về cúng bái, lên đồng, nay không còn mang nặng màu sắc mê tín nhưng vẫn giữ vẻ sinh động đặc sắc riêng. Một trong những trò diễn hấp dẫn của lễ hội Kiếp Bạc là đua thuyền trên sông Lục Ðầu với hàng trăm chiếc thuyền lướt như tên bắn cùng trống thúc, chiêng dồn và tiếng hò reo dậy đất náo nức lòng người. Trảy hội Kiếp Bạc được sống lại không khí ra trận năm xưa của Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn, mỗi người dân Việt Nam càng thấy tự hào hơn về lịch sử vẻ vang của dân tộc mình.
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 15:11:54 GMT -5
Lễ hội đền Hùng(từ 9 đến hết ngày 11 tháng 3 âm lịch) Đền Hùng nằm ở trên núi Nghĩa Lĩnh, Xã Hy Lang, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ là nơi hàng năm thường diễn ra lễ hội mang tính chất quốc gia để suy tôn các vua Hùng là người đã có công dựng nước. Lễ hội diễn ra trong ba ngày bắt đầu từ ngày 9 đến hết ngày 11 tháng 3 âm lịch. Việc tế lễ được tổ chức rất trọng thể vào ngày chính hội (10/3), bắt đầu bằng lễ dâng hương có đại diện của Nhà nước, tại đền Thượng là nơi xưa kia vua Hùng tế trời đất. Ðồ tế lễ ngoài mâm ngũ quả còn có bánh chưng, bánh dày để nhắc lại sự tích Lang Liêu, cũng là nhắc nhở công đức các vua Hùng đã dạy dân trồng lúa. Phần rước, có nhiều cuộc rước thần, rước voi, rước kiệu... của các làng Tiên Cương, Hy Cương, Phượng Giao, Cổ Tích... Sau tế lễ còn có múa hát xoan (ở đền Thượng), hát ca trù (ở đền Hạ ) và nhiều trò chơi khác. Hội đền Hùng không chỉ thu hút khách thập phương đến dự lễ bởi những nét sinh hoạt văn hoá đặc sắc mà còn ở tính thiêng liêng của một cuộc hành hương trở về cội nguồn dân tộc của các thế hệ người Việt Nam. Ðến hội, mỗi người đều biểu hiện một tình thương yêu, lòng ngưỡng mộ về quê cha đất tổ. Ðây là một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức mỗi con người Việt Nam, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu.
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 15:13:25 GMT -5
Lễ hội đền Chử Đồng Tử Lễ hội Chử Ðồng Tử hàng năm diễn ra trong 3 ngày từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 3 âm lịch tại đền thờ Chử Ðồng Tử thuộc làng Ða Hoà, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên, cách Hà Nội hơn 20 km. Ðức Thánh Chử Ðồng Tử là một trong "Tứ bất tử" của người Việt- một anh hùng văn hoá và anh hùng khai phá (chinh phục đầm lầy, mở mang nghề nông, phát triển buôn bán...). Sau lễ khai mạc ôn lại truyền thuyết về cuộc đời và những hoạt động của đức thánh Chử Ðồng Tử và nhị vị phu nhân là lễ rước nước. Ði đầu đám rước là 2 con rồng vàng lộng lẫy do 10 người điều khiển uốn lượn theo nhịp trống phách. Ðoàn rước kiệu là đội tế nữ với xiêm y đẹp, đủ màu sắc. Ðám rước có ban nhạc lễ, kiệu thánh, bát bửu, kíp chấp, ché đựng nước. Ðoàn rước ngồi trên hàng chục chiếc thuyền ra đến giữa sông múc nước đổ vào ché rồi quay về đền để làm lễ tắm tượng. Sau lễ dâng hương là các trò vật võ, đánh gậy cờ người, múa sư tử, hát chèo...
|
|
|
Post by Robot on Mar 22, 2004 15:14:35 GMT -5
Lễ hội mùa xuân hồ Ba Bể Hồ Ba Bể nằm ở trung du phía Bắc thuộc tỉnh Bắc Kạn, cách Hà Nội 240km. Nơi đây tập trung 7 dân tộc gồm dân tộc Tày, Nùng, Dao và H'Mông..., trong đó dân tộc Tày chiếm 61%. Phong tục và văn hóa truyền thống của các dân tộc này đã thu hút rất nhiều du khách từ khắp các nơi trong nước cũng như khách quốc tế. Lễ hội mùa xuân diễn ra với các trò chơi và các tiết mục biểu diễn nghệ thuật như đấu vật, thi hát và đặc biệt hấp dẫn người xem là các cuộc đua thuyền. Người đi trảy hội có thể tham gia các điệu hát và múa trong điệu nhạc dân tộc du dương trầm bổng. Hồ Ba Bể là thắng cảnh đẹp nhất của tỉnh Bắc Kạn với một kho tàng văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc thiểu số. Nơi đây đã thu hút rất nhiều khách du lịch trong cũng như ngoài nước tới. Lễ hội Hồ Ba Bể được tổ chức vào ngày mùng 9 và 10 tháng giêng âm lịch hàng năm. Ðua thuyền, ném Còn, đấu vật, bắn cung và biểu diễn múa, hát truyền thống của các dân tộc được tổ chức trong suốt thời gian diễn ra lễ hội. Lễ hội cũng giúp cho khách thập phương hiểu thêm về con người và truyền thống văn hoá nơi đây. Hồ Ba Bể nằm ở độ cao145m so với mặt nước biển và được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi cao tới 1.754m. Người ta cho rằng nó được hình thành cách đây 200 triệu năm. Mang tên là Ba Bể là do 3 cái hồ thông với nhau với tổng chiều dài 8km và chiều rộng 3km. Chính vì diện tích của hồ Ba Bể như vậy mà người dân ở đây coi Hồ Ba Bể như là biển của họ. Trong hồ có rất nhiều hòn đảo nhỏ, đặc biệt là Ao Tiên, tương truyền đây là nơi ngày xưa các nàng tiên trên trời thường xuống tắm và chơi cờ. Ba Bể dường như tươi đẹp hơn khi có khu rừng nguyên sinh với hệ động thực vật phong phú và mỗi dòng sông, con suỗi xanh trong giống như dải lụa mềm mại. Giống như nhiều lễ hội khác, lễ hội mùa xuân Hồ Ba Bể là nơi gặp gỡ, giao lưu và để hít thở không khí trong lành của vùng đất tươi đẹp này.
|
|
|
Post by Robot on Feb 4, 2005 12:44:04 GMT -5
Ngày Xuân tìm hiểu phong tục Việt Nam qua netTrang web của Công ty du lịch Sài Gòn Ngày Xuân về, là một người Việt Nam chắc hẳn trong chúng ta ai ai cũng có niềm háo hức riêng và tận đáy lòng đều mong muốn biết thật nhiều, hiểu thật nhiều về phong tục, đất nước, con người Việt Nam. Thì đây, trước tiên bạn nên lướt qua trang Web của Công ty Du lịch Sài Gòn tại www.vietnamtourism.com/v_pages/vietnam/introduction/peo_customs/vip.fr.custom.htm, để tìm hiểu các thời kỳ lịch sử, các tôn giáo ở Việt Nam, phong tục (ngày giỗ, lễ Tết, cưới hỏi, tang lễ...), ngôn ngữ, trang phục, dân tộc, văn hóa... Sau đó, nếu chưa thỏa ý, bạn có thể ghé đến trang Web “Một trăm điều nên biết về Phong tục Việt Nam” của Hồ Ngọc Đức với các kiến thức nâng cao, các thuật toán tính ngày như: cưới hỏi, sinh dưỡng, giao thiệp, đạo hiếu, tang lễ, giỗ Tết, tế lễ, chọn ngày giờ... tại www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/phongtuc. Theo Echip
|
|
|
Post by Robot on Feb 5, 2005 14:40:32 GMT -5
Ý nghĩa của lễ hội Tết dân tộc
Việt Nam coi trọng tiếng Tết, vì nó đã trở thành ngày quan trọng nhất trong năm. Theo Hán tự, Tết được biến âm từ tiết, có nghĩa gốc là cái “mấu tre”. Rồi dần dà chuyển nghĩa thành sự tiếp nối của 2 giống cây, hai khúc, hai đoạn cây. Từ nghĩa này, nó tiếp tục mở rộng để chỉ thời điểm tiếp xúc giữa hai khoảng thời gian phân chia theo thiên văn – khí tượng trong năm.
Thuở sơ khai, tuy còn sống bằng nghề săn bắt, hái lượm chưa bị thời tiết chi phối nhiều, nhưng con người đã có ý niệm về thời gian. Ngưỡng mộ vẻ đẹp kỳ ảo của vầng trăng, dân du muốc thuở xưa đã biết lợi dụng nguồn sáng dịu dàng đó để băng qua hoang mạc.
Lâu dần, họ tích lũy kính nghiệm bằng cách nhìn trăng thay đổi hình dạng để phân biệt và nhận ra quãng thời gian đã trôi qua. Đó là cách xác định mảnh trăng non đầu tiên ban đêm cho đến khi mảnh trăng non ấy lại in trên bầu trời ban ngày, gọi là “một trăng”. Và con trăng lúc ấy kéo dài 29 – 30 ngày.
Hiện tượng một tháng đã xuất hiện trong tâm thức loài người và nó trở nên quan trọng đến nỗi người đạo Hồi gọi trăng là thần Alaka. Dấu ấn ấy còn lưu tồn đến ngày nay trong nhiều lá quốc kỳ của các nước như: Malaysia, Pakistan, Turkey, Singapore, Tunisia, Algeria, Comoros v.v...
Khi con người bước sang thời kỳ trồng trọt, chăn nuôi thì nhu cầu xác định đúng thời gian các mùa để phát triển nghề nông đã trở thành bức thiết. Thế là cùng với vầng trăng, năm âm lịch ra đời. Mỗi năm âm lịch cũng 12 tháng nhưng với 355 ngày. Và khi so với khí hậu lại hụt mất 11 ngày. Cứ ba năm sẽ hụt mất một tháng. Điều này gây trở ngại lớn cho nhà nông. Vì vậy, âm lịch thuần túy ít được sử dụng. Để khắc phục tình hình trên, các nhà khoa học đã giải quyết bằng hai cách: một là dùng dương lịch (sáng kiến của người Ai Cập và La Mã cổ đại), hai là đặt thêm tháng nhuận để cân bằng chênh lệch so với chu kỳ khí hậu. Đây là phương thức của người Trung Hoa, Hy Lạp, Do Thái và Babylon...
Thế là ta có năm nhuận. Cứ 3 năm thì đến một năm nhuận. Năm nhuận có 13 tháng, dài 385 ngày. Tuy nhiên, việc làm có tính chất sửa chữa này chưa được các quốc gia thống nhất.
Dương lịch xuất hiện từ thời cổ La Hy. Một năm thời tiết được tính bằng 365 ngày Đ và người ta gọi lịch này là lịch Julyus. Cứ 4 năm lại đến một năm nhuận. Năm nhuận được cộng thêm 1 ngày vào tháng 2. Đến thời Phục hưng được gọi là lịch Gregorius dùng cho tới ngày nay. Bởi dương lịch là thành quả cải tiến của các nhà khoa học phản ánh đúng quy luật vận hành của thiên nhiên. Sở dĩ âm lịch và dương lịch cùng tồn tại là nhằm đáp ứng yêu cầu bảo tồn tập quán về thời gian và để ghi nhớ thời gian xảy ra những sự kiện lịch sử, những ngày lễ Tết của dân tộc.
Lễ Tết
Việt Nam coi trọng tiếng Tết, vì nó đã trở thành ngày quan trọng nhất trong năm. Theo Hán tự, Tết được biến âm từ tiết, có nghĩa gốc là cái “mấu tre”. Rồi dần dà chuyển nghĩa thành sự tiếp nối của 2 giống cây, hai khúc, hai đoạn cây. Từ nghĩa này, nó tiếp tục mở rộng để chỉ thời điểm tiếp xúc giữa hai khoảng thời gian phân chia theo thiên văn – khí tượng trong năm.
Ví dụ một năm chia làm 24 tiết (lập xuân, vũ thủy, kinh trập, xuân phân, thanh minh, cốc vũ, lập hạ, tiểu mãn, mang chủng, hạ chí, tiểu thử, đại thử, lập thu, xử thử, bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng, lập đông, tiểu tuyết, đại tuyết, đông chí, tiểu hàn, đại hàn). Sau đó tiết chuyển thành nghĩa “ngày lễ, cúng lễ, vui mừng”. Đây chính là nguồn gốc trực tiếp của Tết như Tết khai hạ, Tết Thanh minh, Tết Đoan ngọ, Tết Trùng cửu v.v... Tết đã trở thành rất đặc biệt là ngày đầu năm, nên dân gian mới nói ăn Tết, đi Tết, chơi Tết và chúc Tết. Nó là kết quả của sự rút gọn và biến âm từ xuân tiết trong tiếng Hán và thành Tết Nguyên đán trong tiếng Việt.
|
|
|
Post by Robot on Feb 5, 2005 14:40:44 GMT -5
Tết Nguyên đán
Theo gốc Hán, nguyên là đứng đầu, là cả. Đán là buổi sáng. Do đó Tết Nguyên đán là Tết buổi sáng đầu năm. Gọi như thế bởi buổi sáng ngày mồng 1 tháng Giêng, là thời gian mới mẻ nhất trong năm. Năm mới chính thức bắt đầu. Người ta cúng lễ gia tiên, chúc mừng năm mới, mừng tuổi ông bà, chúc thọ v.v...
Tết Nguyên đán là thời điểm thuận lợi nhất để nghỉ ngơi, cây cối đâm chồi nảy lộc, khí hậu ấm áp, quang đãng và đẹp đẽ nhất. Con người đã thu hái mọi thành quả lao động, trở nên thư thái tâm hồn, tinh thần vui vẻ, cử chỉ lịch thiệp, cởi mở hơn về phong cách, tô điểm hơn về dung nhan. Nghĩa là tất cả trong ngoài đều mới. Hiện tượng đó khiến buổi sáng đầu năm trở nên quan trọng, thiêng liêng. Ai cũng tin tưởng, mơ ước mọi việc trong năm mới sẽ diễn ra tốt đẹp, may mắn như buổi sáng đầu năm. Vì thế, người ta cữ kiêng làm điều xấu để khỏi xui xẻo cả năm.
Tết Táo quân
Táo, tiếng Hán có nghĩa là “bếp”. Táo quân hay ông Táo là người quản lý bếp núc, còn gọi là “Vua bếp”... Theo truyền thuyết nước ta, xưa có hai vợ chồng vì nghèo quá nên phải bỏ nhau, mỗi người đi một nơi kiếm sống. Người vợ may mắn gặp được chồng giàu. Năm nọ, vào ngày 23 tháng Chạp, người chồng cũ đi ăn xin vô tình vào nhà vợ cũ. Vợ cũ nhận ra chồng, cảm thương quá bèn đem cho nhiều thức ăn, tiền bạc. Sự việc đó khiến người chồng mới nghi ngờ, đay nghiến vợ. Người vợ cảm thấy khó xử và oan ức trong lòng bèn nhảy vào lửa mà chết. Người chồng cũ đau xót cũng nhảy vào lửa chết theo. Biết là vợ bị oan, người chồng mới hối hận không kịp cũng đành nhảy vào lửa chết luôn. Vì cả ba đều thể hiện lòng trung nghĩa nên trời phong cho làm vua bếp.
Vì thế, hàng năm cứ vào 23 tháng Chạp, dân gian đều làm lễ Táo quân tiễn ông Táo về trời bằng cá chép, để Táo quân dâng sớ tâu mọi sự ở trần gian. Truyền thuyết này thể hiện nét đẹp trong sinh hoạt của người Việt.
Đêm trừ tịch
Tịch, gốc tiếng Hán nghĩa là đêm. Trừ nghĩa là qua đi, bỏ đi. Như vậy, trừ tịch là đêm của năm cũ qua đi. Tuy nhiên, theo nguyên tắc thuận ngữ, dân ta vẫn gọi là đêm trừ tịch chứ không ai gọi trống là trừ tịch.
Còn một thuyết khác cho rằng trừ tịch là đêm trừ khử tà ma để cầu điều tốt đẹp cho sáng năm mới.
Giao thừa
Giao, gốc tiếng Hán nghĩa là thay nhau, hoặc nối tiếp, trao đổi lẫn nhau. Thừa là đảm nhận, thi hành hoặc thừa kế, thừa tiếp... Gọi giao thừa vì theo quan niệm tín ngưỡng, lúc 12 giờ đêm 30 tháng Chạp – thời điểm nối tiếp giữa năm cũ và năm mới, là lúc hai vị thần cai quản trần gian (còn gọi là ông Hành Khiển) một cũ một mới bàn giao và tiếp nhận công việc của nhau. Vào dịp này, nhân dân hay làm lễ thiên địa để cầu mong các vị thần ấy ban cho may mắn và hạnh phúc trong năm mới. Lễ thường đặt lộ thiên vì người xưa quan niệm rằng các vị thần ấy rất bận không tiện vào nhà.
Ngày nay còn dấu ấn để lại trong việc giao ban giữa cũ và mới trong ngành với nhau. Và Tết là thời điểm để chúng ta suy gẫm và làm cho cuộc sống tốt đẹp và có ý nghĩa hơn. Dù âm hay dương lịch thì tháng ngày vẫn trôi theo đúng quy luật vận hành của đất trời. Chúng ta hãy chúc cho nhau mọi điều tốt đẹp, may mắn và hạnh phúc nhất.
Tư liệu
|
|
|
Post by Robot on Feb 7, 2005 13:38:20 GMT -5
Tết Đoan Ngọwww2.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=66102&ChannelID=10Tôi muốn xin phép nhân dịp mọi người đang quan tâm đến vấn đề lễ hội để bảo vệ một ngày lễ từ lâu đã mai một dần ý nghĩa trong nhận thức của dân tộc, đó là tết Đoan Ngọ. Nguyên đó là ngày giỗ của ông Khuất Nguyên, vị quan trung thần của nước Sở (Trung Quốc) vì can vua không nghe, đã nhảy xuống sông Mịch La tự trầm. Nhưng đó là thuộc về giai thoại Trung Quốc, đâu có dính líu gì đến lịch sử và văn hoá VN. Có lẽ người xưa quan niệm rằng lời can ngăn là một vị thuốc trị bệnh (thuốc đắng đã tật) nên người Việt ta dùng ngày giỗ Khuất Nguyên để nhắc nhở đến truyền thống trị bệnh cứu đời của ngành đông y ngày xưa. Hiện nay ngày Tết Đoan Ngọ vẫn giữ tục giết sâu bọ cho trẻ em (nghĩa là xổ giun sán) bằng cách cho trẻ con ăn trái cây. Còn người lớn thì ăn cơm rượu để trừ giun. Ngày nay trong thôn xóm thường có hàng rong đi rao bán cơm lên men ở nồng độ cao để người lớn “ giết sâu bọ”. Đến giữa trưa, những người đau mắt (đỏ mắt hoặc đau mắt hột) đua nhau nhỏ chanh vào mắt rồi ra đứng nhìn thẳng vào mặt trời, nói là để trị bệnh mắt. Người ta còn đổ đi khắp nơi hái nhiều thứ lá hoang dại về phơi khô để uống thuờng xuyên, gọi là lá mồng năm. Trong các chợ quê ở Huế, thường có những bà hàng quán bán các thứ lá mồng năm, gói thành từng lọn nhỏ dùng để uống thay nước chè. Người ta tin rằng một số lá cây thường có dược tính nên xếp chúng vào truyền thống Đoan Ngọ, tuy nhiên phiên chợ nào cũng có bán. Lá mồng năm thì tùy từng địa phương, gồm có các loại thường thấy, như lá ngũ gia bì (hay là mía ngấy), dùng để ăn chóng tiêu; lá lạc tiên ( còn gọi lá nắm nêm, lá chùm bao…) dùng trị bệnh mất ngủ; lá vằng uống bổ huyết, đặc biệt dùng cho sản phụ mới đẻ dậy; dây tơ hồng buông thành rừng, dọc vàm sông, hái về uống thay lá chè. Các loại lá mồng năm, ngoài việc trị bệnh, còn là một nguồn thức uống hằng ngày, thay cho cây chè, lá gì nấu ra cũng có màu nâu đục, vị thơm ngon. Lá mồng năm chính là một dấu vết kỷ niệm của ngành đông y trong đời sống, chứng tỏ vị trí cao quý của người thầy thuốc trong xã hội Việt Nam ngày xưa. Ở Huế xưa còn có một ngôi miếu khang trang, gọi là miếu Thánh Y dùng để thờ các vị thầy thuốc danh tiếng lưu truyền trong sách vở, như Hải Thượng Lãn Ông, Tuệ Tĩnh; lại có miếu Tiên Y thờ những sư phụ tên tuổi vang lừng, như Hoa Đà, Biển Thước… Qua chinh chiến, những ngôi miếu ấy đã bị xoá mất dấu tích, chỉ còn để lại một cây cầu cong bằng đá, gọi là cổng Lương, và một xóm đông dân, cũng có tên là xóm Lương Y. Trong vùng còn lại một toà cổ miếu, được dân gian hương khói quanh năm để nhắc nhở kỷ niệm của các vị thầy thuốc ngày xưa. Không thấy nơi đâu mà vai trò của người thầy thuớc được quý trọng như ở Huế. Có lẽ Trường Đại Học Y Khoa Huế cùng Bệnh viện Trung ương Huế nên cổ xúy trở lại truyền thống văn hoá dân tộc của ngày Tết Đoan Ngọ, trở lại với những toà cổ miếu như những di tích văn hoá tôn thờ các danh nhân ngành Y, như một cách cổ vũ cho y đức, vấn đề đang trở thành bức xúc trong nghề thuốc hiện đại. Thiết nghĩ hiếm có nơi nào như Huế, các sinh viên y khoa thừa hưởng một truyền thống lẫy lừng của ngành y được cả xã hội ngày xưa quý trọng hơn châu báu. HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Báo Người Lao Động)
|
|