|
Post by Robot on Mar 19, 2004 11:17:29 GMT -5
Triển lãm tranh "Sắc màu thời gian"Tranh của Nguyễn Xuân MạnhMột người thiên về vị nâu trầm của góc phố cổ, một người mải mê đi tìm sắc vàng của nắng trên mái nhà tranh. Hai họa sĩ Nguyễn Xuân Mạnh và Phạm Hồng Sơn đã gom góp những khoảnh khắc thời gian sâu lắng nhất hợp thành cuộc triển lãm, mở cửa hôm 16/10 tại khách sạn Melia, Hà Nội. Tranh của Nguyễn Xuân MạnhPhạm Hồng Sơn sinh ra ở Thái Nguyên, lập nghiệp ở Hà Nội. Từ năm 1992 đến nay, tranh của anh đã có mặt tại các cuộc triển lãm nghệ thuật lớn ở trong và ngoài nước, đặc biệt là triển lãm ASEAN năm 1997-1998. Nét đặc trưng của hai miền đất đều được ghi dấu trong các tác phẩm của anh. Hà Nội trong mắt anh là một tà áo dài ngẩn ngơ, một chiếc xích lô bất chợt ngang qua hay một chiếc ghế đá bên bờ Hồ Tây rợp bóng. Hồn tranh nhẹ nhàng và dung dị thế, nhưng lại được thể hiện bằng nét bút to, bông và xốp. Tranh của Phạm Hồng Sơn. Cũng vẽ về cảnh đồng quê và những con phố, nhưng Nguyễn Xuân Mạnh lại khai phá một lối đi riêng. Sinh ra và lớn lên trên đất Hà thành, hình ảnh những thiếu nữ áo hồng, áo đỏ xúng xính giữa chốn chợ hoa Tết, xen lẫn với sắc nâu giản dị của những gánh rong đã in đậm trong ký ức anh. Dư âm của cuộc sống cất lên từ mái ngói rêu phong luẩn khuất trong những lùm cây cổ kính. Anh đã có tranh tham gia cuộc triển lãm ở Hong Kong (1999), ở Mỹ (2000) và triển lãm Nghệ thuật Quốc gia (2000). Cuộc triển lãm sẽ kéo dài đến hết ngày 4/11. Mỹ Linh
|
|
|
Post by Oshin on Apr 5, 2004 8:24:49 GMT -5
Gió về nghiêng mái phố Con đường thời gian qua Nhịp buồn xe thổ mộ Chênh chênh bóng chiều tà
Gió về phai màu nắng Phai nửa mùa xuân xanh Đường thì xa thăm thẳm Ai làm khách độc hành ? ....
Bỏ lại phía sau mình Tiếng nhạc hòa kỷ niệm Tiếng nhạc ngựa buồn tênh Buông trong chiều lạc lõng
Đờn kìm chợ Thủ (Trần Quốc Toàn)
Chiều chiều mượn ngựa ông Đô Mượn ba chú lính đưa cô tôi về Đưa về chợ Thủ Bán hũ bán ve Bán bộ đồ chè Bán cối đâm tiêu
Ngựa bữa ấy đưa tôi về chợ Thủ Dầu Một, Sông Bé, không phải ngựa ông Đô, chỉ là thứ ngựa vô danh chạy xe thổ mộ đón khách. Ngựa đi nước kiệu, vó ngựa nhịp nhàng, nhạc ngựa leng keng gợi nhớ điệu lý Chiều chiều mượn ngựa mà tôi chép trên kia. Thú quá, về chợ cũ trên đường nhạc xưa !
Về chợ Thủ như được sống trong trang tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh với bến cá cất cầu kì như lầu thủy tạ bát giác, với tháp đồng hồ nhà lồng chợ vút cao như gác chuông nhà thờ. Thú nhất là về chợ Thủ, muốn nghe đờn kìm thật giọng kìm, chứ không phải kìm tân trang qua máy tăng âm, càng không phải kìm organ giả cầy , thì vẫn còn bác Tư Còn.
Bác Tư là danh cầm nổi tiếng đất này, đã có huy chương vàng hội diễn nhưng không muốn làm người đàn ăn tiền kiếm sống, vẫn về chợ Thủ quê mình làm thợ thiếc, làm dân đờn ca tài tử.
Tôi tìm được đến nhà bác Tư Còn thì thật may, cây đờn kìm (nguyệt cầm) đang nằm trong lòng danh cầm. Người ta nói bác Tư không phải người lúc nào cũng đàn được, khi vui thì làm thợ thiếc gõ thùng, bác chỉ đàn khi buồn.
Quả thật, nghe giọng đàn rưng rưng của bác Tư Còn, tôi mới hiểu câu thơ mà mấy mươi năm nay mình vẫn dạy học trò :
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm. Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân...
|
|
|
Post by Oshin on Apr 5, 2004 11:45:24 GMT -5
Trích "Những con mắt trôi" (Đoan Khánh) ...Tôi im lặng nhìn hoa đăng trôi hững hờ trên "con sông dùng dằng con sông không chảy". Ở Huế, người ta thích thả hoa đăng trên sông vào những ngày lễ, những đêm rằm lớn. Du khách đến Huế, thuê thuyền rồng ngược lên chùa Linh Mụ, không những thích nghe ca Huế mà còn rất thích tự mình thả xuống dòng nước những hoa đăng nhiều màu. -Thú thả hoa đăng có từ khi mô rứa chị họ ? Thằng em họ người Sài Gòn hỏi bằng giọng Huế một cách khó khăn. Tôi nhớ một tích ngắn có lần đọc được nên kể cho em họ nghe. Tích kể rằng : Một buổi chiều xuân đẹp trời, "mệ" bỗng có ý định tự mình sửa soạn một bữa cơm đúng chất Huế, đơn giản : cơm trắng, cá bống thệ kho khô cho hợp khẩu vị. Xuống bếp, "mệ" lấy cái om xúc một "loon" gạo gie An Cựu đổ vào, cầm cây đèn sáp và hộp diêm để nhen lửa, xong lững thững ôm om ra bến định vo gạo. Bất ngờ, người yêu không hẹn mà đến thăm, thấy "mệ" lom khom cúi xuống bên bờ sông, chẳng hiểu chuyện gì, nhanh miệng hỏi : -"Mệ làm chi rứa mệ ?" Rất nhanh, "mệ" rút cây đèn sáp trong bọc, quẹt diêm, đốt đèn, cắm vào lòng om, rồi đẩy ra bờ sông, ngắm nghía cái om lắc lư trên làn sóng : -À, à, "mệ" thả đèn "mệ" chơi ! Em họ gật gù rồi hỏi tiếp : -Thả hoa đăng ngoài việc làm cho dòng sông đẹp hơn, còn có "tác dụng phụ" nào nữa không ? -Nghe người ta nói thả một hoa đăng trên sông, người ta gởi theo một ước mơ. Tôi giải thích. -Bao nhiêu phần trăm ước mơ thành sự thật ? Tôi không biết phải trả lời câu hỏi của em họ tôi như thế nào cho đúng. Có lẽ người ta không chờ đợi ước mơ của mình thành sự thật mà chỉ để thấy cuộc sống của mình hạnh phúc hơn vì có những ước mơ.
|
|
|
Post by Oshin on Apr 5, 2004 12:20:39 GMT -5
Tiếng chuông Thiên Mụ(Hoàng Bình Thi) Đêm nào cũng thế, cứ vào giờ Tí, sư trụ trì chùa Thiên Mụ lại cho thỉnh chuông. Mùa xuân, tiếng chuông Thiên Mụ nghe trong vắt như hơi gió heo may đi qua kẽ lá, làm bồi hồi đất trời, đâu đó những mầm sống cựa mình để đất nở hoa, cho hoàng mai rực vàng suốt một dãy phố chợ. Kể từ tiết lập hạ, tiếng chuông nghe thảnh thơi hơn, có nắng gió và sự trầm tĩnh của lòng người thỉnh chuông. Tiếng chuông như bóng mát che chở mỗi đời người. Nhưng từ trong sâu thẳm vẫn sừng sững một nỗi cô đơn nhân từ của trời cao, và tiếng chuông lúc này nghe như đại ngã bao dung. Vào giác thu, trời Huế tím cho đến tận nửa đem, đường phố nhiều lá rụng, tiếng chuông Thiên Mụ vì thế cũng đã vàng xao xác. Cây cối rũ lá thanh thoát và tiếng chuông đi qua cây nghe mơ hồ như một hơi thở nhẹ, say say nắng. Đó cũng là thời khắc bịn rịn chia lìa của tình nhân, họ ngậm ngùi trở về để mặc vai áo sương thu ướt đẫm. Tiết lập đông, có tiếng chim sếu kêu khan ngoài sông lạnh, Huế rét mướt vô kể. Tiếng chuông Thiên Mụ nghe như buồn hơn bao giờ hết, để người xa quê lòng nao nao nhớ một bếp lửa hồng. Chỉ một tiếng chuông nhưng chao ôi đã đong bao buồn vui khắc khoải của một đời người ! Rằng nương theo tiếng chuông này, ta sẽ gặp ngày hội ngộ của bốn mùa... Sở dĩ tiếng chuông chùa Thiên Mụ hay và vang xa, không phải chỉ vì nhờ cấu trúc tinh xảo và chất đồng tinh luyện mà còn vì chuông được thỉnh bằng dùi gỗ mít nài xứ núi, tuổi trên một trăm, thớ gỗ đã chuyển cả từ vàng nghệ sang đỏ sẫm với vân hình cánh nhạn. Gỗ mít nài xứ núi khắc với đồng như thủy với hỏa. Sự tương khắc để mà sinh sôi cho tiếng chuông kỳ diệu, nghe một đời mà không thấu trọn. Còn với người Huế xa quê, tiếng chuông Thiên Mụ là nỗi nhớ dai dẳng như mưa dầm buốt rứt, suốt một đời ám ảnh bước chân phiêu bạt mưu sinh.
|
|
|
Post by Robot on Apr 7, 2004 10:47:22 GMT -5
Ý nghĩa của sắc màu qua thời gian
Mắt chúng ta nhận ra được 6 màu chính là trắng, xanh lam, xanh lục, vàng, đỏ và đen. Nhưng bộ não lại hiểu chúng khác nhau tùy theo thời kỳ và dân tộc.
Màu đỏ:
Cho đến đầu thời kỳ La Mã, nhuộm vải chủ yếu là nhuộm trong gam màu đỏ: từ hồng nhạt đến đỏ tía. Người ta dùng loại cây thiến và vỏ sò ốc để màu có thể chịu được ánh nắng, nước....
Nhiều ngàn năm trước công nguyên, những thợ nhuộm ở vùng đông Địa Trung Hải đã sử dụng nhiều loại vỏ sò ốc cho ra màu sắc đa dạng, có nét lóng lánh từ đỏ đến đen, qua xanh và tím. Rất khó đoán trước, các màu đó không ngừng biến hóa một khi đã ăn lên vải. Đó là trường hợp của màu đỏ tía, màu rất được ưa chuộng quanh vùng Địa Trung Hải ở thời cổ đại và đã trở thành màu đế vương ở Rome.
Nối tiếp các đại đế La Mã, tất cả các vị vua châu Âu đều tự ban đặc quyền sống trong màu đỏ. Nhưng từ thế kỷ 13, họ lại thích màu đỏ rực, được lấy từ một nguyên liệu mới rất thịnh hành: khoáng lapis - lazuli. Ngược lại, các hoàng tử Italy vẫn trung thành với màu đỏ, giống như Đức Giáo hoàng. Huy hiệu của những gia tộc trị vì chuyển từ màu đỏ sang màu xanh. Chỉ có hoàng đế Đức là luôn giữ màu đỏ như màu biểu trưng.
Mới đầu, màu đỏ được xem là quý hiếm, chỉ dành cho giới quý tộc vì giá rất đắt, nhưng cuối cùng cũng xuất hiện trong mọi dịp trọng đại như hội hè hay lễ cưới. Cho đến thế kỷ 18, đó là màu ổn định, rực rỡ nhất, biến cách nhiều nhất trong cách nhuộm, do vậy cũng được ưa chuộng hơn cả.
Cuộc cách mạng Pháp đã biến màu xanh thành màu của binh lính. Nhưng sự kinh doanh màu chàm lại nằm trong tay của kẻ thù là quân Anh; vì thế vua Charles X cho quân đội mặc đồ đỏ vào năm 1829. Đẹp nhưng quá nổi bật, đồng phục đỏ là đặc trưng của quân đội cho đến năm 1915, có lẽ là nguyên nhân gây ra số tử vong quá mức cho quân đội Pháp vào đầu thế chiến thứ nhất.
Hiện nay vẻ sinh động của màu đỏ được dùng nhiều nhất trong lĩnh vực tiếp thị, thu hút sự chú ý.
Màu xanh dương
Đó là màu ưa thích của người châu Âu, đặc biệt là Pháp, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand. Với các nền văn hóa khác, nó gợi ra văn minh phương Tây.
Đối với người La Mã, màu xanh dương là của dân man rợ Gaulois, Đức và nhiều dân tộc khác, chẳng những có mắt xanh mà còn nhuộm quần và tóc màu xanh. Hơn nữa, đơn giản vì thậm chí chẳng có từ Latinh nào để chỉ màu đó. Các ngôn ngữ khác phải vay mượn từ tiếng Đức (blau) và Ả Rập (lazurd).
Màu xanh dương vẫn là một màu bị chê và ít được dùng đến vào đầu thời trung cổ. Nhưng nó đã nhanh chóng tự khẳng định. Mau phai màu, rẻ tiền, giống như màu nâu, màu xanh dương là của người nghèo. Người ta có được từ loài cây cải nhuộm. Nhưng khi trở thành màu của Chúa, nó hấp dẫn cả những vị vua, khởi đầu là Saint Louis. Màu xanh trở thành màu của vua Pháp, rồi đến vua Anh, kế đó là những vị vua khác ở châu Âu. Họ còn tưởng tượng rằng máu của họ cũng có màu xanh.
Thế là màu xanh dần thay thế cho màu đỏ. Màu xanh là màu của nam giới, còn đỏ là phái yếu. Màu xanh thời trung cổ rất rực rỡ nên được xem là màu nóng. Chỉ từ thế kỷ 17, nó là màu lạnh vì thường được dùng để chỉ biển cả và nước mà trước đây được mô tả là xanh lục hay xám. Nó còn là màu của bóng đêm.
Hiện nay cũng như thời trung cổ, người phương Tây thích mặc màu xanh dương. Nó có trên áo lao động, đồng phục và quần Jean. Nó được dùng trong bệnh viện, trên cờ của các tổ chức quốc tế, ở các biển báo giao thông.
Màu xanh lục
Cỏ, táo, bạc hà, thông, oliu... mọi màu xanh lục đều có trong thiên nhiên. Xanh lục là màu của thực vật. Có lẽ vì đó là màu không ổn định trong ngành nhuộm nên từ lâu màu xanh lục luôn được liên kết với sự ngẫu nhiên, số phận, may rủi. Đó là màu của sự không lâu bền, tuổi trẻ, may mắn, hy vọng.... Và nếu nó mang lại điềm gở cho các diễn viên, nếu ngọc lục bảo được ít người mua nhất trong các loại ngọc quý, màu xanh lục lại là điềm may cho giới cờ bạc, do vậy mọi bàn cờ bạc đều được trải thảm xanh lục.
Thời Trung cổ, xanh lục gắn kết với mùa xuân, nhựa cây, tuổi trẻ và tình dục. Từ đó người ta gán ghép nó với ý nghĩ nổi loạn, chống lại trật tự, đạo đức. Chính vì thế vào thời đó ác quỷ có màu xanh lục, nếu không phải là đỏ, nâu, đen hay xanh sậm. Đó cũng là màu của hiệu thuốc tây, bởi vì đa số thuốc men đều làm từ thực vật.
Liên kết với sức khỏe và thiên nhiên, màu xanh lục gợi ra ý tưởng tươi mát, hơi thở và sự thoải mái. Trong trường học, trại lính, bệnh viện, văn phòng có màu xanh để làm dịu tinh thần. Hiện nay xanh lục là màu của môi trường.
|
|
|
Post by Robot on Apr 7, 2004 10:48:21 GMT -5
Màu vàng
Trước đây được ưa chuộng, nhưng giờ đây màu vàng đã ít được yêu thích. Có lẽ vì màu vàng mang hai ý nghĩa. Nhưng màu của mặt trời, ánh sáng, sức nóng, năng lượng đó vẫn được trẻ em ưa thích.
Là màu của gié lúa, của các kim loại đầu tiên như vàng hay đồng và được biến thành tiền, từ hàng nghìn năm trước màu vàng tượng trưng cho sự giàu sang, sung túc, thịnh vượng.
Vào thời trung cổ, kết hợp với màu lục, nó biểu hiện sự điên rồ, thái quá. Lũ hề của vua mặt đồ vàng và lục, với vai trò là tấm gương phản chiếu các điều cấm kỵ, tập trung mọi lời chế giễu, khinh miệt. Màu vàng là màu của những kẻ nói dối, làm đồ giả. Người ta sơn lên nhà của bọn làm tiền giả hay hiệp sĩ phản nghịch để tố cáo hay bêu riếu họ. Hiện nay màu vàng gợi ra nỗi buồn man mác: lá mùa thu, thư hay ảnh úa màu vì thời gian.
Màu đen
Màu này chạm đến sự sâu thắm. Nó là tiêu cực. Trước tiên nó chỉ sự ô uế. Và người ta nhanh chóng trộn lẫn sự bẩn thỉu thể xác với sự nhơ nhuốc tâm hồn. Màu đen cũng là không ánh sáng. Nó là tội lỗi, là địa ngục, là bóng tối.
Tập tục cổ xưa phủ người với tro giàn hỏa hay đất trong đám tang có lẽ là nguồn gốc của phong tục La Mã phải mặc đồ tang để tỏ lòng đau đớn. Là biểu hiện của cái chết, nỗi bất hạnh lo âu, sầu muộn, màu đen đối kháng với màu vàng, đỏ và xanh lục vốn mang ý nghĩa cuộc sống nhục dục. Nhuộm được màu đen đậm và bền rất phức tạp và khó khăn, kể cả hiện nay. Màu đen thực sự chỉ dành cho người giàu sang. Như vậy, người ta đã biến một biểu tượng khiêm tốn và đạm bạc thành thanh lịch và sang quý.
Màu trắng
Theo định nghĩa, màu trắng tương ứng với những gì không vấy bẩn, không ô uế, dù là của cơ thể hay tâm hồn. Chính vì thế, ngay từ thời cổ đại, màu trắng tượng trưng cho sự tinh khiết, ngây thơ, trinh trắng, các phẩm chất của thể xác và tâm hồn. Màu trắng còn đồng nghĩa với sự hòa giải, hòa bình, trung lập. Vào thế kỷ 9, màu trắng trở thành màu áo của cô dâu phương Tây với hàm ý trinh trắng và tinh khiết theo đạo đức trưởng giả.
Thời đại thực dụng của chúng ta kết hợp màu trắng với sự sạch sẽ, lạnh lẽo và vệ sinh. Dường như người ta thích bột giặt, băng cứu thương, máy móc gia dụng, vải giường, đồ lót... có màu trắng.
Tài Hoa Trẻ (theo S& V Junior)
|
|
|
Post by Oshin on May 8, 2004 5:37:39 GMT -5
Xuân hạ thu đông... và xuân Là phim mới nhất của đạo diễn Hàn Quốc Kim Ki-duk. Sang Pháp năm 90 để học vẽ, ông đã tìm thấy điện ảnh, và sau đó là một loạt các giải thưởng gì đó về điện ảnh mà tớ quên mất rồi . Xuân hạ thu đông... và xuân, nội dung có lẽ chả có gì mới lạ. Vẫn là những biến dịch và luân hồi của đời người. Không có nhiều lời thoại. Mọi chuyện diễn ra trong một ngôi chùa nhỏ, giữa hồ, trong vùng rừng núi đẹp đến đau lòng, chẳng ai biết là ở đâu. Không có gì mới lạ. Sinh lão bệnh tử. Được và mất. Yêu đương và căm hận. Quẳng dao đồ tể xuống là thành Phật. Không có gì mới lạ nhưng đẹp đến đau lòng. Spring, summer, fall, winter ... and spring again. Phim chia thành 5 chương (kiểu Kill Bill, he he), 5 chương là Xuân Hạ Thu Đông Và Xuân Grass
|
|
|
Post by Oshin on May 8, 2004 5:49:26 GMT -5
Hoa hồng xanh, từ enzyme gan người Đã bao giờ bạn nghĩ tới việc tặng mẹ hoặc bạn gái một bông hồng màu xanh? Nhờ một enzyme trong gan người, mơ ước này sẽ sớm trở thành hiện thực! Dã yên thảo xanh và đỏ. Hoa hồng ngày nay có nhiều màu sắc, từ trắng, đỏ, hồng, vàng cho tới màu trái đào. Mỗi màu này lại có nhiều sắc thái khác nhau. Tuy nhiên, mặc dù đã nỗ lực trong hơn 15 năm qua song chưa có người nào tạo được một bông hồng có màu xanh tự nhiên. Trong ngành kinh doanh hoa hồng toàn cầu với doanh số 1,2 tỷ USD/năm, việc tạo ra một loại hoa độc nhất vô nhị đồng nghĩa với việc kiếm được những khoản lợi nhuận kếch xù. Chuyên gia làm vườn Robert Skirvin thuộc ĐH Illinois, Mỹ, cho biết: ''Nhiều người giàu có là những người say mê hoa hồng và mọi loài hoa độc nhất vô nhị sẽ được bán với giá cao. Có một nhu cầu như vậy tồn tại''. Tuy nhiên, điều gì làm cho con người khó có thể tạo được giống hoa hồng màu xanh? Rõ ràng là trong tự nhiên, xanh là màu... rất phức tạp. Chẳng hạn, màu xanh hiếm có của hoa dã yên thảo phụ thuộc vào sự kết hợp của gien và môi trường. Cần sắc tố tạo màu xanh gọi là delphinidin và các đồng sắc tố cần thiết để làm màu xanh nổi bật. Cuối cùng, cần có sự cân bằng a-xít phù hợp bên trong tế bào của hoa để đảm bảo sắc thái xanh được biểu lộ. Các giống hoa hồng hiện nay đều thiếu tất cả ba yếu tố cần thiết trên. David Byrne, nhà di truyền hoa hồng tại ĐH Texas A&M, nhận xét: ''Không dễ gì làm việc với hoa hồng. Nó không có các sắc tố xanh và dường như không thể vượt qua được tiến trình biến tính này''. Các nhà khoa học đã thử cấy ghép, lai giống và bổ sung các gien được phân lập từ dã yên thảo vào hoa hồng. Tuy nhiên, hoa hồng xanh vẫn... ẩn mình. Vào năm 1986, Công ty Công nghệ Sinh học Florigene được thành lập tại Melbourne (Australia) với mục đích duy nhất là tạo ra giống hoa hồng màu xanh. Các nhà nghiên cứu của công ty này đã tạo thành công các loại oải hương và thậm chí là cẩm chướng xanh. Tuy nhiên, họ vẫn chưa khẳng định đã tạo ra hoa hồng xanh và vẫn kín đáo về những thành công đã đạt được. John Mason, giám đốc nghiên cứu của công ty, cho biết: ''Nó phụ thuộc vào cách bạn mô tả màu xanh. Đây là một đề tài rất nhạy cảm và thật không may là tôi không thể bình luận gì thêm''. Mọi tiến bộ dẫn tới sự ra đời của hoa hồng xanh sẽ vẫn là điều tối mật cho tới khi Florigene tuyên bố họ có hoa hồng màu xanh. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu ở Phòng thí nghiệm Y khoa thuộc ĐH Vanderbilt cuối cùng đã tìm ra đường tắt giúp con người có được hoa hồng xanh trong tầm tay. Khi đang tìm hiểu cách gan người phân huỷ thuốc, nhà hoá sinh Peter Guengerich và trợ lý Elizabeth Gillam đã phát hiện một enzyme trong gan có ảnh hưởng đáng ngạc nhiên. Khi họ đưa enzyme này vào vi khuẩn, vi khuẩn biến thành màu xanh. Mối quan tâm chính của Guengerich là hiểu cách con người xử lý thuốc, song ông chỉ ra rằng enzyme trên có thể mang lại lợi ích cho ngành kinh doanh hoa. Nhóm nghiên cứu đã thử ghép gene mã hoá enzyme đó vào hoa hồng. Cho tới nay, kết quả rất đáng khích lệ. Ông nói: ''Lần đầu tiên chúng tôi thử nghiệm, các chấm xanh xuất hiện trên cuống hoa hồng''. Nhóm nghiên cứu vẫn tiếp tục thử nghiệm các phương pháp mới để đưa gien người này vào hoa hồng và tin rằng đó chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi thế giới có hoa hồng màu xanh. Bao giờ thế giới mới được chiêm ngưỡng những bông hồng xanh tự nhiên giống như thế này? Guengerich nói: ''Chúng tôi thực sự nghĩ rằng chúng tôi có thể tạo ra một màu xanh đậm hơn bằng cách sử dụng gien này ở người''. Ông giải thích rằng sử dụng enzyme trong gan người có thể dễ dàng hơn, vì enzyme tạo ra màu xanh bằng một tiến trình đơn giản hơn. Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu lại đang tìm cách bỏ đi một số đặc trưng khác của loài hoa nổi tiếng này. Skirvin thuộc ĐH Illinois đã tạo ra những bụi hoa hồng không có gai. Ông cho biết: ''Hoa hồng không gai là một đặc tính rất không ổn định. Tuy nhiên, chúng tôi đã có hai bụi hồng hoàn toàn không có gai''. Các nhà nghiên cứu khác lại phát triển những giống hoa hồng thơm hơn bằng cách phân lập gien quy định mùi hương từ hoa hồng dại và cấy vào các giống hồng có hương nhạt hơn. Còn đối với hoa hồng xanh, hiện tại chỉ có cách duy nhất để tạo ra chúng là... nhúng vào chất nhuộm! Minh Sơn (Theo ABCNews)
|
|
|
Post by Robot on Sept 19, 2004 20:27:43 GMT -5
Ngân nga sắc tím
Trong 7 đơn sắc của phổ ánh sáng trắng (đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím), sắc tím đứng ở vị trí cuối cùng. Thực chất đây cũng chính là nội dung của một bài thí nghiệm vật lý cấp 3. Bạn hãy cắt một tấm bìa thành hình tròn, chia nó ra làm bảy phần đều nhau và lần lượt tô các màu trên vào từng phần ấy. Xong xuôi, bạn hãy đặt tấm bìa lên một cái giá chong chóng và quay nó thật nhanh. Điều kỳ lạ sẽ xảy ra. Bạn sẽ thấy 7 màu biến mất, chỉ còn lại một màu duy nhất, màu của ánh sáng ban ngày.
Sẽ không thể có thứ ánh sáng nói trên, nếu như thiếu đi bất cứ một sắc nào trong 7 đơn sắc tôi vừa kể, gồm cả sắc tím nữa, dẫu cho vị trí khiêm tốn của nó trong bảng quang phổ kia.
Trong tự nhiên, sắc tím mang lại một cảm giác e ấp và dịu dàng. Dường như đó là một gam trầm đối với đời sống của chúng ta. Sắc tím của mây chỉ xuất hiện vào lúc hoàng hôn, khi những tia nắng cuối cùng đang nhạt dần trên bầu trời. Bạn đã bao giờ nhìn thấy một chú chuồn chuồn kim màu tím chưa? Vào buổi trưa hè, bên bờ ao còn sực mùi ẩm của bùn được lấy lên để bón cho những gốc chuối, mặt nước chợt xao động bởi nhũng chú nhện nước nghịch ngợm, và dường như chiếc cần câu của bạn chợt trĩu xuống. Có một chú chuồn kim màu tím bé tý vừa đậu xuống đầu cần đấy.
Ta nhớ về một buổi chiều nào nơi ta dừng chân, khi rặng núi phía xa đang chìm dần vào màu tím sẫm, và bếp nhà ai bắt đầu đỏ lửa. Tự dưng trong lòng nghèn nghẹn nỗi nhớ mẹ, nỗi nhớ cứ nương mãi theo làn khói lam chiều, với mong ước vĩnh viễn bé bỏng trong vòng tay mẹ. Trên con đường xa ngái của tự lập và lớn khôn, sắc tím của hoa bèo, hoa lục bình, của sim và lan rừng trở thành một phần của kho kỷ niệm, mong manh và mờ ảo dần theo tuổi tác.
Như là một chất xúc tác, sắc tím không thể thiếu, song sẽ khá khiên cưỡng nếu đứng một mình. Sắc tím bổ sung một cách thú vị và tuyệt diệu cho sắc đỏ, sắc vàng. Nó giúp giảm bớt sự nóng bỏng hay căng thẳng, đồng thời làm cho những sắc màu khác không rơi vào đơn điệu và tuyến tính.
Trong ngân nga và miên man sắc tím, ta ước một ngày sẽ có thể nói với ai đó bằng tím biếc của hoa violette, nói rằng bạn hãy đừng quên tôi, dẫu cho chúng ta có lưu lạc ở bất cứ phương trời nào trong vũ trụ bao la này./.
Rau Dang
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:37:22 GMT -5
Marc Chagall, người vẽ chân dung nỗi nhớ quê nhà ...Nếu Frederic Chopin là nhạc sĩ của nỗi buồn viễn xứ thì Marc Chagall dường như được sinh ra để làm họa sĩ vẽ chân dung những nỗi nhớ quê nhà...1. những khu vườn nở đầy hoa táo... ( Autumn in the the Village) Có lẽ nỗi buồn xa xứ và niềm thương nhớ quê nhà là hai “báu vật” luôn có trong hành trang của mỗi người viễn xứ. Điều này cũng không là ngoại lệ với Marc Chagall. Sinh ngày 07.07.1887 tại Vitebsk, một làng quê nghèo nhỏ bé giữa lòng Bạch Nga (Belarus) cậu bé Chagall đã có một tuổi thơ vất vả nhưng hồn nhiên, tinh nghịch trong ngôi làng in đậm những hình ảnh đặc trưng của một làng Nga - Do Thái. Ở đó có những chú ngựa non nghịch ngợm, những đàn cừu lông trắng như bông, những con dê trong đàn gia súc của cha, những chú cún con trong sân cửa hàng tạp hóa của mẹ, cây đàn violon cũ kỹ, người chú dữ dằn, cộc cằn...cùng những mái nhà lô xô xiêu xẹo đứng cạnh nhau bên những khu vườn nở đầy hoa táo trắng tháng ba, sắc tím ngát và hương thơm ngào ngạt của hoa lilacs tháng bảy, cánh đồng cỏ mùa xuân ngập tràn hoa bồ công anh vàng rực, những dấu chân nghịch ngợm in trên tuyết trắng tháng giêng.... Một ngôi nhà thờ nhỏ với tháp chuông cổ kính và những cô dâu thánh thiện trong chiếc khăn voan ngày cưới...Những cỗ xe ngựa tung bụi mù trên con đường làng với hàng cây bạch dương cổ thụ, tiếng kinh cầu và những chú bồ câu bay ra từ những câu chuyện cổ tích mẹ kể đêm đêm... và ở mãi tận trên cao là một bầu trời xanh, rất xanh với những cụm mây trắng cứ lặng lẽ trôi... Hai mươi tuổi, chàng trai Chagall đã mang theo mình tất cả những hình ảnh đó, bắt đầu cuộc hành trình xa xứ... Điểm đến đầu tiên của anh là St. Peterburg, nơi anh làm quen với những nét cọ đầu tiên; là cuộc hội ngộ với kinh đô ánh sáng Paris 1910; là những năm tháng trở lại nước Nga sau năm 1917 đầy biến động...Cuối cùng, anh đã thực sự chia tay với nước Nga thân yêu để đến Paris năm 1923, bắt đầu 62 năm cuộc hành trình viễn xứ, cũng là hành trình của nỗi nhớ khôn nguôi cho đến khi từ giã cõi đời ngày 28.03.1985... và để chúng ta, hậu thế, có được một Marc Chagall - họa sĩ của những niềm thương nhớ quê nhà... 2. Đó chính là quê nhà trong tâm tưởng... (I and the Village) Chagall đã rời bỏ nước Nga nhưng nước Nga không thể rời bỏ Chagall. Giống như quy luật về những chuyến viễn du: khi một người rời bỏ quê nhà đi xa, đi mãi, qua bao đại dương, bao lãnh thổ, đến những nơi tưởng chừng rất xa xôi, thì lạ thay, ta vẫn thường gặp lại quê nhà nơi đó, một quê nhà mà ta nghĩ đã bỏ lại đằng sau từ lâu lắm... Đó chính là quê nhà trong tâm tưởng, quê nhà mà dù muốn hay không ta đã mang theo nó trong tâm khảm mình ngay từ khi cất bước ra đi... Một quê nhà, như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nói, đã vô cùng quen thuộc, nhưng mỗi lần gặp lại ở xứ người, lòng vẫn thấy rưng rưng... Vâng, đã có một quê nhà bàng bạc, rưng rưng như vậy trong tranh của Chagall. Sẽ dễ dàng nhận ra tất cả những hình ảnh dấu yêu của ngôi làng Vitebsk trong các bức tranh: “I am the Village”, “Autumn in the Village”, :"The three candles”, “The Fiddler”, Rain”, “Cows over Vitebsk”...Chính Chagall từng thừa nhận:”Tôi vẽ bằng trái tim” Xin được mạn phép nói thêm: “trái tim người viễn xứ”...
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:37:35 GMT -5
3. ...những sắc xanh của trời, của lá... (Bouquet with Flying Lovers) “Rồi một lần kia khăn gói đi xa Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà Lòng thật bình yên mà sao buồn thế Giật mình nhìn tôi ngồi khóc bao giờ...” (Trịnh Công Sơn). Hẳn là Chagall đã khóc rất nhiều khi vẽ về quê nhà xa vắng, hình như những giọt nước mắt nhớ thương đã khiến tranh ông ngập tràn một màu xanh kỳ lạ... Quê nhà trong tranh Chagall là một quê nhà được nhìn qua màn sương nước mắt rồi khúc xạ theo nỗi nhớ thành những sắc xanh của trời, của lá, của sông, của biển, của tuyết sương...Những sắc xanh trong các bức tranh: “Bouquet with flying Lovers”, “The painter to the Moon”, “Cemetery gates”, “Solitude”, “The concert”, “Madonna of the Village”... chỉ riêng Chagall có được, “màu xanh của nước mắt Chagall”... 4. ước mơ được trở về nằm nghỉ yên bình trên mảnh đất quê hương (Rest) Trong những tháng ngày xa xứ, tôi và bạn bè thường kể cho nhau nghe về những giấc mơ thấy mình được bay về thăm lại quê nhà. Chúng tôi vẫn đặt tên cho những phút giây mộng mị đầy hạnh phúc đó là “những giấc mơ bay”. Hình như chỉ có cách bay lên, chúng ta mới có thể về lại quê nhà nhanh nhất, nhìn thấy đầy đủ nhất, rõ ràng nhất những hình ảnh dấu yêu. Tranh Chagall cũng chứa đầy “những giấc mơ bay” về lại quê nhà như vậy: “Birthday”, “Rest”, “Buoquet with Flying Lovers”, “The Grand Parade”, “Bella with a white collar”, “Rain”... với những bóng hình bay lượn, những hình ảnh quê nhà dưới góc nhìn từ trên xuống thẫm đẫm một ước mơ được trở về nằm nghỉ yên bình trên mảnh đất quê hương. Chắc tôi sẽ không sai khi nói rằng: “hình ảnh quê nhà”, “màu xanh nước mắt” và “những giấc mơ bay” là ba “hằng số”, ba nỗi “ám ảnh thường trực” tạo nên hình hài của niềm thương, nỗi nhớ quê nhà trong tranh của Chagall... ...thẫn thờ nhận ra nỗi buồn xa xứ và niềm thương nhớ quê nhà... (Madonna of the Village) 5. "Buổi chiều ở Orléans, bỗng nhiên tôi thương nhớ quê nhà quá. Có những cái đầu không bình tĩnh lắm sẽ trách móc tôi vì sao ở một nơi sung sướng như vầy mà vẫn nhớ nhà nhớ quê. Than ôi, quê nhà chính là tôi rồi, tôi biết làm sao được”...Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một buổi chiều tháng 5 giữa lòng nước Pháp, nơi Chagall từng sống, đã nghĩ về quê nhà như thế đó, và tôi nghĩ, không chỉ mình ông, Chagall, trong 62 năm dài xa xứ cũng đã từng nghĩ về quê nhà của ông như vậy... ... Để rồi, nỗi niềm thương nhớ quê nhà đã rưng rưng hiện lên trên khung vải qua màu xanh nước mắt cùng những giấc mơ bay... ... Để rồi, những người viễn xứ chúng ta, mỗi khi đến với Chagall lại thẫn thờ nhận ra nỗi buồn xa xứ và niềm thương nhớ quê nhà của chính mình trong đó... Paris 1999 - Sài Gòn 2004 THU THỦY
|
|