|
Post by Oshin on Mar 19, 2004 8:40:07 GMT -5
Tuyển chọn từ box Gặp gỡ, do em Coccococcan post. Bài hát về ước mơ tự do Bài hát ấy vang lên êm dịu trong tiếng ghi ta thùng. Âm thanh của tiếng ghi ta và giọng hát của Paul hoà vào nhau trong một không gian tĩnh lặng thỉng thoảng có tiếng chim hót ngân lên xen lẫn vào. Nhưng tiếng chim ấy không làm cho không gian náo nức lên mà dường như lại càng làm cái cảm giác tĩnh lặng trong lành tăng thêm vậy. Bài hát nói về khoảnh khắc cất cánh của một chú chim với đôi cánh thương tích đã phải chờ đợi rất lâu cho đến lúc được trở lại bầu trời. Về một đôi mắt trũng sâu đang nhìn lên bầu trời đêm tăm tối. Tất cả đều được vẽ ra với một màu đen huyền bí, tối tăm, và buồn nữa. Black bird singing in the dead of night Take these sunken eyes and learn to see All your life You were only waiting for this moment to be free. Không, đây không phải là tiếng chim hót thanh bình và vui tươi vào mỗi sớm, đây không phải tiếng hót chào bình minh bình thường mà mỗi sáng đều vang lên. Chú chim nhỏ đã phải chờ đợi rất lâu, chờ đợi suốt cả đời để được ca bài ca tự do này, để được bay vào trong đêm với đôi cánh thương tích. Tiếng ghi ta thật nhẹ nhàng, tiếng hát như thì thầm, tất cả như đều cố thở nhẹ nhàng hơn trước thời khắc quan trọng ấy. Dường như ta nghe được tiếng gió mơn man qua tiếng đàn và tiếng hát mới dịu dàng làm sao. ”Black bird fly, black bird fly”. Nhưng đến “In to the light of the dark black night” thì lại nhanh và mạnh mẽ. Thế là chú chim ấy đã bay lên rồi, bay vào trong bóng đêm của cánh rừng. Và cùng bay với chú là mơ ước tự do của con người. Đây chỉ là cảm nhận cá nhân nhưng đúng là tôi đã cảm thấy cái mơ ước mãnh liệt ấy trong bài hát ngắn và dịu dàng này. Đâu chỉ loài chim mới muốn bay lên và cần bay lên. Mỗi con người cũng đều mang nỗi thèm muốn ấy trong mình. Và nỗi khát khao ấy đang chảy ra ở đây, trong tiếng đàn và tiếng hát du dương. Có thể là cái gì khác trong đôi mắt ấy, đôi mắt đang học cách nhìn cuộc đời trong ánh sáng của đêm đen. Một chú chim không chờ những tia nắng ló ra rồi mới chịu cất tiếng hót mà hót trong đêm, khi không một ai nhìn thấy, khi tất cả chỉ toàn là mầu đen. Đó là bài hát cho riêng mình hay là một bài hát vô danh cho tất cả, dù sao thì chú cũng đang hát vì ước mơ của mình, và không cần ai thán phục. Đến giữa bài hát thì bỗng nhiên tiếng nhạc chậm dần rồi dừng hẳn, rồi lại vang lên, nhưng lần này mạnh mẽ hơn, vui vẻ hơn. Có phải lúc tất cả dừng lại ấy là khi chú chim cất cánh bay lên, hay là khoảng lặng lẽ cuối cùng của đêm tối để rồi tất cả náo động đón tia nắng đầu tiên, đón buổi bình minh. Hình như là cả hai, khoảnh khắc này đã được chờ đợi từ rất lâu, chờ đợi trong suốt quãng đời trước đó của chú chim nhỏ và nó cũng thật xứng đáng để chờ đợi. Thật xứng đáng dù phải chờ đợi cả cuộc đời vì giây phút này là giây phút đầu tiên của buổi bình minh rộn rã tiếng biết bao chú chim ca hát, là giây phút được tự do bay lên bằng đôi cánh của mình. được nhìn bằng ánh mắt của mình sau những đau đớn nơi đôi cánh thương tích, sau những nhọc nhằn, lo lắng làm đôi mắt mỏi mệt. Vâng, chúng ta chắc cũng sẽ như thế, sẽ phải chờ đợi cho tới thới khắc của mình, và còn phải có đủ can đảm để vỗ cánh giữa bóng đêm nữa để có được ánh sáng của buổi bình minh tự do và để được thấy cuộc đời thật êm ả, tươi đẹp như đoạn kết rất ngọt ngào của bài hát này. Black bird singing in the dead of night Take this broken wings and learn to fly All your life You were only waiting for this moment to arise You were only waiting for this moment to arise You were only waiting for this moment to arise Lời bàn: Người cảm nhận bài hát này phải chăng đã từng trải qua những giây phút khao khát tự do như chú chim nhỏ bé kia để rồi có thế yêu và say sưa với bài hát với những xúc cảm sâu sắc đến nhường vậy?!... Còn bạn? Bạn thấy bài hát này thế nào? Hãy thử nghe nó nhé và hy vọng là bạn sẽ thích "Hãy sống và ước vọng để thấy đời mênh mông"[/b]
|
|
|
Post by Oshin on Mar 19, 2004 8:43:03 GMT -5
Năm 1854, tổng thống thứ 14 của nước Mĩ là Franklin Pierce tỏ ý muốn mua đất của người da đỏ. Thủ lĩnh Seaton đã gửi bức thư này trả lời. Bằng một giọng văn đầy sức truyền cảm, lối sử dụng phép so sánh, nhân hóa, điệp ngữ phong phú đa dạng, ông đã gửi đi bức thông điệp nhiều ý nghĩa. Đây là một bức thư rất nổi tiếng, từng được nhiều người xem là một trong những văn bản hay nhất về thiên nhiên và môi trường.BỨC THƯ CỦA THỦ LĨNH DA ĐỎ ...Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, những dòng nhựa chảy trong cây cối, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong kí ức. [/img][/center] Khi người da trắng chết đi, họ thường dạo chơi giữa các vì sao và quên đi đất nước họ sinh ra. Còn chúng tôi, chúng tôi chẳng thể quên được mảnh đất tươi đẹp này. Bởi lẽ mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là người chị, người em của chúng tôi. Những mỏm đá, những vũng nước trên đồng cỏ, hơi ấm của chú ngựa con và của con người, tất cả đều cùng chung một gia đình. Dòng nước óng ánh, êm ả trôi dưới những dòng sông, con suối đâu chỉ là những giọt nước. mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán mảnh đất này cho Ngài, Ngài phải nhớ dạy bảo con cháu rằng, mảnh đất này là thiêng liêng và những tia sáng chói chang phản chiếu từ mặt hồ trong vắt sẽ nói lên cái gì đó về kí ức của người da đỏ. Tiếng thì thầm của dòng nước chính là tiếng nói của cha ông chúng tôi. Tôi biết người da trắng không hiểu cách sống của chúng tôi. Đối với họ, mảnh đất này cũng như những mảnh đất khác, bởi lẽ họ là kẻ xa lạ, và khi đã chinh phục được thì họ sẽ lấn tới. Họ cư xử với mẹ đất và anh em bầu trời như những vật mua được, tước đoạt được, rồi bán đi như những con cừu và những hạt kim cương sáng ngời. Lòng thèm khát của họ sẽ ngấu nghiến đất đai, rồi để lại đằng sau những bãi hoang mạc. Tôi biết, cách sống của chúng tôi khác với cách sống của Ngài. Cảnh đẹp nơi thành phố làm nhức mắt người da đỏ. Có lẽ, người da đỏ hoang dại và tăm tối chăng ? Người Indian chúng tôi ưa những âm thanh êm ái như tiếng lá cây lay động vào mùa xuân, tiếng vỗ cánh của loài côn trùng nhỏ bé, hay những cơn gió thoảng qua mặt hồ, được nước mưa gội rửa và thơm hương của phấn thông. Và cái gì sẽ xảy ra trong cuộc sống, nếu con người không nghe được âm thanh lẻ loi của chú chim đớp mồi hay tiếng tranh cãi của những chú ếch ban đêm bên hồ ? Bầu không khí này là của chung, muông thú, cây cối và con người cùng nhau hít thở. Nếu chúng tôi bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải nhớ rằng không khí đối với chúng tôi là vô cùng quý giá và phải chia sẻ linh hồn với tất cả cuộc sống mà không khí ban cho. Ngọn gió mang lại hơi thở đầu tiên cho cha ông chúng tôi và cũng nhận lại hơi thở cuối cùng của họ. Nếu có bán cho Ngài mảnh đất này, Ngài phải giữ gìn và làm cho nó thành một nơi thiêng liêng để ngay cả người da trắng cũng có thể thưởng thức được những làn gió thấm đượm hương hoa đồng cỏ. Như vậy, chúng tôi mới cân nhắc những ý muốn mua mảnh đất này của Ngài. Nếu có quyết định chấp nhận yêu cầu của Ngài, chúng tôi phải đưa ra một điều kiện - đó là, người da trắng phải đối xử với các muông thú sống trên mảnh đất này như những người anh em. Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu bất cứ một cách sống nào khác. Tôi đã chứng kiến hàng ngàn con trâu rừng bị chết dần chết mòn trên những cánh đồng trơ trọi vì bị người da trắng bắn mỗi khi có đoàn tàu chạy qua. Tôi là kẻ hoang dã, tôi không hiểu nổi tại sao một "con ngựa sắt nhả khói" lại quan trọng hơn nhiều con trâu rừng mà chúng tôi chỉ giết để duy trì cuộc sống. Con người là gì, nếu cuộc sống thiếu những con thú ? Và nếu chúng ra đi, thì con người cũng sẽ chết dần chết mòn vì nỗi buồn cô đơn, bởi lẽ điều gì xảy đến với con thú thì cũng xảy ra đối với con người. Mọi vật trên đời đều có sự ràng buộc. Ngài phải dạy con cháu rằng mảnh đất dưới chân chúng là những nắm tro tàn của cha ông chúng tôi, và vì thế, chúng phải kính trọng đất đai. Ngài phải bảo chúng rằng đất đai giàu có được là do nhiều mạng sống của chủng tộc chúng tôi bồi đắp nên. Hãy khuyên bảo chúng như chúng tôi thường dạy con cháu mình : Đất là Mẹ. Điều gì xảy ra với đất đai tức là xảy ra đối với những đứa con của Đất. Con người chưa biết làm tổ để sống, con người giản đơn là một sợi tơ trong cái tổ sống đó mà thôi. Điều gì con người làm cho tổ sống đó, tức là làm cho chính mình... Theo tài liệu "Quản lí môi trường phục vụ phát triển bền vững" - Dự án VIETPRO-2020, Hà Nội, 1995.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 19, 2004 8:45:00 GMT -5
Từ "La Guantanamera" bất hủ... 1. José Fernandez - ông vua của giai điệuNăm nay (1998), nhân dân Cuba kỷ niệm 90 năm ngày sinh của José Fernandez (1908-1979), mà người ta thường gọi thân mật là Joiseto, "ông vua của giai điệu" trong nền âm nhạc vốn rất nổi tiếng của Cuba. "Hòn đảo tự do" là quê hương của những điệu nhảy làm say mê hàng triệu người trên thế giới như cha cha cha, rumba..., nhưng chính âm nhạc mới là "hoàng hậu của tâm hồn người Cuba" như chính họ thuờng nói. Một trong những tên tuổi góp phần đưa lại vinh quang cho nền âm nhạc Cuba là Joiseto với bản nhạc Guajira Guantanamera bất hủ cũng vừa tròn 70 năm ngày ra đời GuantanameraNhạc : José Fernandez Lời Việt : Phạm Tuyên Guan-ta-na-mê-ra Gua-ji-ra Guan-ta-na-mê-ra Guan-ta-na-mê-ra Gua-ji-ra Guan-ta-na-mê-raMột tấm lòng thành ta gửi quê hương Ta đã lớn bên hàng cọ thân thương Cả mối nhiệt tình ta gửi nơi đây Trước lúc nhắm mắt vẫn cứ mê say Bằng vần thơ tin yêu dâng nước non Khúc ca ân tình lắng sâu tâm hồn. Guan-ta-na-mê-ra Gua-ji-ra Guan-ta-na-mê-ra Guan-ta-na-mê-ra Gua-ji-ra Guan-ta-na-mê-raBài thơ dệt bằng những vần xanh tươi Màu xanh chói chang của miền quê tôi Màu xanh tràn đầy những vần thơ đây Như con nai xanh nép trong muôn cây Vần thơ màu xanh tươi bao thiết tha Khác chi chú nai nép trong rừng già. Guan-ta-na-mê-ra Gua-ji-ra Guan-ta-na-mê-ra Guan-ta-na-mê-ra Gua-ji-ra Guan-ta-na-mê-raVì những người nghèo trên hành tinh đây Ta khao khát dâng trọn niềm mê say Vì những cuộc đời đang chịu tang thương Tim ta luôn luôn gắn bó yêu thương Biển cả bằng đâu bao con suối ta Những con suối trong xanh nơi quê nhà. Guan-ta-na-mê-ra Gua-ji-ra Guan-ta-na-mê-ra Guan-ta-na-mê-ra Gua-ji-ra Guan-ta-na-mê-ra[/green] Joiseto sinh ngày 5-9-1908 ở một khu phố lao động nghèo thủ đô La Habana. Năm 12 tuổi ông đã phải kiếm sống bằng nghề sửa giày. Và cũng như bất kỳ người Cuba nào, nỗi đam mê ca hát thấm đượm trong dòng máu của ông, nhất là ông lại được trời phú cho giọng hát trong, ấm đầy sức quyến rũ. Qua bạn bè, ông tự học đàn guitar và âm nhạc. Những năm 30, ông hát trong các tam ca, tốp ca và tham gia vào ban nhạc Raimundo Pia nổi tiếng một thời, thường biểu diễn trên sóng phát thanh. Một hôm, Facundo Rivero-nhạc công chơi piano của ban nhạc-nảy ra sáng kiến : để thay đổi, trước khi kết thúc buổi biểu diễn, ban nhạc sẽ chơi bản Guajira dựa trên một làn điệu dân ca quen thuộc ở nông thôn Cuba. Joiseto là người hưởng ứng đầu tiên, ông đưa ra bản Guajiroson mà ông đã sáng tác từ năm 1928, đó chính là bản Guajiro Guantanamera lừng danh thế giới sau này. thế là từ đó, hằng ngày ban nhạc kết thúc chương trình biểu diễn của mình bằng bản nhạc đó nhưng với những lời khác nhau cho phù hợp với hoàn cảnh. Thời gian qua đi, khi bản nhạc đã trở nên nổi tiếng thì người ta cũng bắt đầu thêu dệt lên đủ các loại giai thoại về nguồn gốc tên gọi của nó. Có hai cách giải thích được truyền tụng nhiều nhất : người ta nói là ban nhạc của Joiseto thường đi biểu diễn ở nhiều nơi trong nước và đến đâu thì tặng cho người phụ nữ xứ đó tên của bài ca. Ví dụ ở tỉnh Pinar del Rio thì là Guajira Vueltabajera, ở tỉnh Villa Clara thì là Guajira Villaclarena...Và ở Guantanamo, nơi mà Joiseto ở lâu nhất nên tên gọi Guajira Guantanamera được lưu lại cho hậu thế. Chính Joseito cũng đã từng nói : "Tôi thích tên gọi này hoàn toàn vì tình cảm". Cũng có cách giải thích khác : hồi ban nhạc biểu diễn ở Đài phát thanh CMCO có nhiều người thường đến xem, trong đó có một cô gái người Guantanamo rất say mê ca khúc nên Joiseto đã tặng bài hát này cho cô gái ấy, và đó chính là tên gọi của bài ca này... (Báo TTCN - 22-11-1998) ***** Hôm dọn nhà cũng lâu rồi, em soạn chồng báo cũ, giữ lại mấy bài hay hay, trong đó có bài viết trên này với tựa "La Guantanamera bất tử". Tuần trước ngồi xem lại em mới biết rằng bài báo còn sót một đoạn nữa, ở trang khác. Hic, mà chồng báo cũ của em đã bị "thanh toán" mất tiêu rồi nên không biết được đoạn tiếp theo như thế nào, cũng không biết cả tên tác giả bài viết trên.Trong trang báo em còn giữ về bài viết này có hình vẽ Pete đang ôm đàn cười và hát với chú thích : "Pete Seeger đã góp phần đưa Guantanamera đến với hàng triệu người khắp thế giới". Thật tình cờ, em thấy tên Pete Seeger quen quen, mới đọc được ở đâu đó về một bài hát khác của ông mà em cũng rất thích. Thế nhưng đoạn trên chưa nhắc gì đến Pete cả mà đoạn sau lại bị mất rồi nên không biết như thế nào. Em nổi hứng lên mạng và thử tìm hiểu thêm về La Guantanamera bất hủ này.
GUANTANAMERA Original music by Jose Fernandez Diaz Music adaptation by Pete Seeger & Julian Orbon Lyric adaptation by Julian Orbon, based on a poem by Jose Marti
Yo soy un hombre sincero de donde crecen las palmas Yo soy un hombre sincero de donde crecen las palmas Y antes de morirme quiero echar mis versos del alma
Coro: Guantanamera guajira Guantanamera Guantanamera guajira Guantanamera Mi verso es de un verde claro y de un carmin encendido Mi verso es de un verde claro y de un carmin encendido Mi verso es un ciervo herido que busca en el monte amparo
Coro En junio como en enero cultivo la rosa blanca En junio como en enero cultivo la rosa blanca Para el amigo sincero que me dé su mano franca
Coro: El corazon con que vivo y para el cruel que me arranca El corazon con que vivo y para el cruel que me arranca Cardo ni ortiga cultivo cultivo la rosa blanca
Coro: Con los pobres de la tierra quiero yo mi suerte echar Con los pobres de la tierra quiero yo mi suerte echar El arroyo de la sierra me complace mas que el mar Chorus
Translation I am a truthful man from this land of palm trees Before dying I want to share these poems of my soul My verses are light green But they are also flaming red
I cultivate a rose in June and in January For the sincere friend who gives me his hand And for the cruel one who would tear out this heart with which I live I do not cultivate thistles nor nettles I cultivate a white rose[/b] Và thật thú vị khi biết rằng La Guantanamera mà chúng ta biết đến ngày nay được viết bởi Julian Orbon, người kết hợp nguyên tác nhạc của Joseito Fernandez Diaz với ý thơ José Marti. Rất tiếc là về Julian Orbon em không tìm được thông tin gì mấy ngoài tên của nhạc sĩ. Vậy còn José Marti ? Em thử tìm hiểu về nhân vật này và nhận ra ở ông những suy nghĩ, trăn trở..cùng một lý tưởng sống đáng kính trọng.
11-03-2003
|
|
|
Post by Oshin on Mar 19, 2004 8:46:05 GMT -5
2.José Marti - một chính khách - thi sĩ - ký giả (1853-1895)Cultivo Una Rosa BlancaPor Jose Marti Cultivo una rosa blanca En julio como en enero, Para el amigo sincero Que me da su mano franca. Y para el cruel que me arranca El corazon con que vivo, Cardo ni ortiga cultivo, Cultivo una rosa blanca. I Cultivate a White Rose By Jose Marti
I cultivate a white rose In July as in January For the sincere friend Who gives me his hand frankly.
And for the cruel person who tears out the heart with which I live, I cultivate neither nettles nor thorns: I cultivate a white rose. Jose Marti sinh năm 1853 tại Havana. Năm 17 tuổi, Marti bị lưu đày sang Tây Ban Nha vì chống đối sự cai trị của thực dân. Tại đây, ông đã xuất bản một cuốn sách nhỏ phơi bày tội ác của thực dân qua những hình phạt tù kinh hoàng ở Cuba mà ông đã trải qua. Tốt nghiệp đại học Saragossa, ông bắt đầu viết văn ở Mexico City. Jose Marti được xem là một trong những nhà văn vĩ đại của ngôn ngữ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (Hispanic World) và là một người đấu tranh không mệt mỏi chống lại sự cai trị của thực dân ở Cuba. Marti tin rằng, tự do và công lý phải được là nền tảng cơ sở của bất cứ chính quyền nào. Marti đã chết một cách bi thảm trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Cuba khỏi ách đô hộ của Tây Ban Nha. Jose Marti's ThoughtsOn Liberty Liberty is the right of every man to be honest, to think and to speak without hypocrisy. Like bones to the human body, the axle to the wheel, the wing to the bird, and the air to the wing, so is liberty the essence of life. Whatever is done without it is imperfect. Man loves liberty, even if he does not know that he loves it. He is driven by it and flees from where it does not exist. It is terrible to speak of you, Liberty, for one who lives without you. A wild best does not bend its knee before its tamer with greater fury. One discovers the depths of hell, and from there looks up at freemen with their sun-like arrogance. One bites the air, like a hyena biting the bars of its cage. One's spirit writhes inside the body, like a man who has been poisoned. The wretch who lives without freedom feels like dressing in the mud from the streets Those who have you, o Liberty, do not know you. Those who do not have you should not speak of you, but win you. We are free, but not to be evil, not to be indifferent to human suffering, not to profit from the people, from the work created and sustained through their spirit of political association, while refusing to contribute to the political state that we profit from. We must say no once more. Man is not free to watch impassively the enslavement and dishonor of men, nor their struggles for liberty and honor. On Government and Politics Socialist ideology, like so many others, has two main dangers. One stems from confused and incomplete readings of foreign texts, and the other from the arrogance and hidden rage of those who, in order to climb up in the world, pretend to be frantic defenders of the helpless so as to have shoulders on which to stand. He who receives money in trust to administer for the benefit of its owner, and uses it either for his own interest or against the wishes of its rightful owner, is a thief. The vote is a trust more delicate than any other, for it involves not just the interests of the voter, but his life, honor and future as well. He who uses the office he owes to the voters wrongfully and against them is a thief. After seeing it rise, quake, sleep, prostitute itself, make mistakes, be abused, sold and corrupted; after seeing the voters turn into animals, the voting booths besieged, the ballot boxes overturned, the results falsified, the highest offices stolen, one still must acknowledge, because it is true, that the vote is an awesome, invincible and solemn weapon; the vote is the most effective and merciful instrument that man has devised to manage his affairs. Fortunately, there is a sane equilibrium in the character of nations, as there is in that of men. The force of passion is balanced by the force of interest. An insatiable appetite for glory leads to sacrifice and death, but innate instinct leads to self-preservation and life. A nation that neglects either of these forces perishes. They must be steered together, like a pair of carriage horses. Peoples are made of hate and of love, and more of hate than love. But love, like the sun that it is, sets afire and melts everything. What greed and privilege to build up over whole centuries the indignation of a pious spirit, with its natural following of oppressed souls, will cast down with a single shove. On Morality and Human Behavior We light the oven so that everyone may bake bread in it. If I survive, I will spend my whole life at the oven door seeing that no one is denied bread and, so as to give a lesson of charity, especially those who did not bring flour. It is necessary to make virtue fashionable. Happiness exists on earth, and it is won through prudent exercise of reason, knowledge of the harmony of the universe, and constant practice of generosity. He who seeks it elsewhere will not find it for, having drunk from all the glasses of life, he will find satisfaction only in those. Just as he who gives his life to serve a great idea is admirable, he who avails himself of a great idea to serve his personal hopes of glory and power is abominable, even if he too risks his life. To give one's life is a right only when one gives it unselfishly. Talent is a gift that brings with it an obligation to serve the world, and not ourselves, for it is not of our making. To use for our exclusive benefit what is not ours is theft. Culture, which makes talent shine, is not completely ours either, nor can we place it solely at our disposal. Rather, it belongs mainly to our country, which gave it to us, and to humanity, from which we receive it as a birthright. A selfish man is a thief. A child, from the time he can think, should think about all he sees, should suffer for all who cannot live with honesty, should work so that all men can be honest, and should be honest himself. A child who does not think about what happens around him and is content with living without wondering whether he lives honestly is like a man who lives from a scoundrel's work and is on the road to being a scoundrel. Every human being has within him an ideal man, just as every piece of marble contains in a rough state a statue as beautiful as the one that Praxiteles the Greek made of the god Apollo. It is the duty of man to raise up man. One is guilty of all abjection that one does not help to relieve. Only those who spread treachery, fire, and death out of hatred for the prosperity of others are undeserving of pity. Man is not an image engraved on a silver dollar, with covetous eyes, licking lips and a diamond pin on a silver thingyey. Man is a living duty, a depository of powers that he must not leave in a brute state. Man is a wing. A genuine man goes to the roots. To be a radical is no more than that: to go to the roots. He who does not see things in their depth should not call himself a radical. There is happiness in duty, although it may not seem so. To fulfill one's duty elevates the soul to a state of constant sweetness. Love is the bond between men, the way to teach and the center of the world. In truth, men speak too much of danger. Let others be terrified by the natural and healthy risks of life! We shall not be frightened! Poison sumac grows in a hard-working man's field, the serpent hisses from its hidden den, and the owl's eye shines in the belfry, but the sun goes on lighting the sky, and truth continues marching across the earth unscathed. Like stones rolling down hills, fair ideas reach their objectives despite all obstacles and barriers. It may be possible to speed or hinder them, but impossible to stop them.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 19, 2004 8:47:00 GMT -5
3.Pete Seeger - người nghệ sĩ du ca đồng nội và thông điệp hòa bình "Pete Seeger đã góp phần đưa Guantanamera đến với hàng triệu người khắp thế giới". Pete Seeger có thể được xem như người nghệ sĩ của dòng nhạc dân ca - đồng quê có ảnh hưởng lớn nhất ở nước Mĩ. Sinh ngày 3-5-1919 ở New York, ông đã đi khắp nước Mĩ để thu thập những bài dân ca. Ông có công lớn trong việc phát triển và phổ biến những bài hát bản xứ và của cả chính mình như "If I had a hammer", "We shall overcome", "Turn, turn, turn" và "Where have all the flower gone "...những bài ca vang bóng một thời của cả một thế hệ người Mĩ bấy giờ. Pete Seeger còn là một nhà hoạt động tích cực trong các phong trào bảo vệ môi trường, chống phân biệt chủng tộc, đấu tranh không mệt mỏi cho hòa bình. Và, bây giờ xin mời các bác cùng đến với Pete Seeger - người mang thông điệp hòa bình giản dị và nhân ái qua bài hát country quen thuộc "Where have all the flowers gone" WHERE HAVE ALL THE FLOWERS GONE Words and Music by Pete Seeger [black]Where have all the flowers gone, long time passing? Where have all the flowers gone, long time ago? Where have all the flowers gone? Young girls have picked them everyone. Oh, when will they ever learn? Oh, when will they ever learn? Where have all the young girls gone, long time passing? Where have all the young girls gone, long time ago? Where have all the young girls gone? Gone for husbands everyone. Oh, when will they ever learn? Oh, when will they ever learn? Where have all the husbands gone, long time passing? Where have all the husbands gone, long time ago? Where have all the husbands gone? Gone for soldiers everyone Oh, when will they ever learn? Oh, when will they ever learn? Where have all the soldiers gone, long time passing? Where have all the soldiers gone, long time ago? Where have all the soldiers gone? Gone to graveyards, everyone. Oh, when will they ever learn? Oh, when will they ever learn? Where have all the graveyards gone, long time passing? Where have all the graveyards gone, long time ago? Where have all the graveyards gone? Gone to flowers, everyone. Oh, when will they ever learn? Oh, when will they ever learn? Where have all the flowers gone, long time passing? Where have all the flowers gone, long time ago? Where have all the flowers gone? Young girls have picked them everyone. Oh, when will they ever learn? Oh, when will they ever learn? [/black] Có một tình yêu Việt Nam từ những đóa hoa vô thường vùng "sông Đông" Hồng Lê Thọ (Tokyo) "Where have all the flowers gone" là tên một bài hát đã làm rung động hàng triệu trái tim hướng về Việt Nam trong những buổi mít tinh, tuần hành, hội họp khắp nơi trên trái đất khi phong trào phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ bùng lên trong thập kỷ 1965-1975. Nếu trên nước ta ngày đó, "Tiếng hát át tiếng bom" ở miền Bắc và "Tiếng hát của những người đi tới" ở miền Nam đã trỗi dậy dưới làn bom đạn và khủng bố thì ngay tại thủ đô Washington cũng đã có hàng triệu người khắp nước Mĩ tụ tập về đây kêu gọi nhân dân Mĩ đứng lên yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam, chấm dứt ngay cuộc chiến tranh phi nghĩa. Đó là tiếng nói phẫn nộ của những con người yêu chuộng hòa bình và công lý. Bên cạnh Joan Baez, John Denver...những ca sĩ nổi tiếng cất tiếng hát phản đối hành động hiếu chiến này, người ta thấy có thêm Pete Seeger - nhạc sĩ đã sáng tác bài hát "Where have all the flowers gone". Chỉ vài nhịp đàn của chiếc guitar thùng, hơn triệu con người đó cùng cất lên với Pete Seeger : [black] "Những người chồng đã đi về đâu Ra đi từ lâu lắm Họ đã đi về đâu Tất cả đều bị đẩy ra chiến trường để đánh nhau"[/black] Lời ca mềm mại đầy hoài nghi ấy đã không dừng lại trên đất Mĩ. Chỉ vài tuần sau đó, ở Berlin, Tokyo, Paris, Luân Đôn...bài hát này đã được dịch và phổ biến rộng khắp, thể hiện tấm lòng hướng về Việt Nam, hướng về những nơi mà quân đội Mĩ đang gieo biết bao tang tóc. Với dáng dấp cao gầy, người nhạc sĩ mang tên Pete Seeger đã nhanh chóng trở thành một biểu tượng của hòa bình, là điểm tập hợp trái tim của hàng trăm triệu con người qua giọng hát tha thiết mộc mạc của ông. Không, không chỉ Pete hát bài của mình mà những nhóm ca sĩ lừng danh thế giới như The Brothers Four, P.P.M (Peter, Paul and Mary), The Kingston Trio hay thần tượng nhạc trẻ thời bấy giờ như Bob Dylan, Joan Baez...đều đã hát trong bộ sưu tập của mình. Có một điều vô cùng thú vị khi khám phá được rằng nội dung bài hát ấy đã được thai nghén từ làn điệu ru con của những bà mẹ Côdắc xứ sông Đông xa xưa. Pete Seeger đã tìm thấy được nguyện vọng mưu cầu một cuộc sống bình yên cho con người, tâm trạng của những người vợ, những bà mẹ trông chờ ngày trở về của chồng, của con mình ở Sông Đông êm đềm của Mikhail Cholokhov (Nobel Văn Chương 1965). Năm 1955, Pete Seeger sáng tác bài hát này, đến năm 1961 nó được cải biên bổ sung và tung vào làn sóng âm nhạc trên đất Mĩ, trở thành những ca khúc bất hủ bên cạnh "We shall overcome", một bài hát thường vang lên trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ở Hoa Kỳ . Pete Seeger đã bị ghi vào " danh sách đen" trong nhiều năm, cấm xuất hiện trên truyền hình vì người ta sợ tiếng nói ảnh hưởng của ông. Mùa xuân năm 1996, Pete Seeger vinh dự được trao "Huy chương Nghệ thuật Harvard" (Đại học Harvard) và lãnh giải thưởng Grammy trong phần "Album nhạc dân ca truyền thống hay nhất" vào tháng 2 năm 1997. Tiếp đó, Pete đã nhận Huy chương "Felix Varela" (tên một nhà yêu nước, anh hùng dân tộc Cuba) bởi những hoạt động nhân bản và nghệ thuật trong cuộc chiến đấu vì môi trường và chống phân biệt chủng tộc của ông do nhà nước Cuba trao tặng khi sang thăm nước này tháng 4-1999. Ngày nay, nếu bạn hỏi một người Mĩ nào đã sống và trưởng thành vào những năm 1960-1980 về bài hát này, có lẽ họ sẽ trả lời bạn rất tự nhiên "Đó là Việt Nam", "Đó là Pete Seeger"
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:41:14 GMT -5
Thư gửi Anne Frank Anne Frank Cách đây sáu mươi hai năm, vào một ngày hè tháng bảy năm 1942, tại Amsterdam, cô bé Do Thái vừa bước qua tuổi 13 Anne Frank đã cùng những người thân bắt đầu cuộc lẩn tránh cuộc săn lùng của phát xít Đức trong một căn phòng bí mật nằm bên trong ngôi nhà số 263 phố Princegracht của gia đình mình. Cuộc lẩn tránh đã kéo dài được hai mươi lăm tháng, cho đến khi cả nhà bị Gestapo phát hiện và đã chấm dứt bằng một kết thúc buồn với cái chết của Anne trong trại tập trung Bergen – Belsen tháng ba năm 1945, chỉ vài tuần trước khi trại này được giải phóng. Cùng mẹ và chị gái, Anne Frank đã mãi mãi ra đi ở tuổi mười lăm, để lại cho thế giới này quyển nhật ký của em như một tuyên ngôn bất tử về niềm tin và điều thiện. Anne thân yêu, Cho phép tôi được gọi em như vậy, mặc dù hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ cái ngày tháng bảy định mệnh ấy, khi em cùng gia đình bắt đầu cuộc lẩn trốn bàn tay tàn bạo của phát xít. Trong tôi, em mãi mãi là Anne của ngày hôm đó, một cô bé mười ba tuổi mảnh mai, mái tóc đen nhánh, đôi mắt to tỏa sáng và nụ cười thánh thiện như một thiên thần... Ane thân yêu, Những ngày tháng bảy này, trên con đường Princengracht trước nhà em, nắng vẫn rực vàng trên những tán lá mùa hè, dòng kênh Princengracht vẫn biếc xanh màu ngọc bích và chuông nhà thờ Wester Kerk vẫn đổ những hồi chuông buồn bã... Không biết trong ngày bắt đầu cuộc chia tay với thế giới loài người để tìm sự bình yên đó, Anne có kịp tạm biệt những chú bồ câu trong sân ngôi nhà thờ cổ cạnh nhà, tạm biệt những bông hoa tulip trong sân Royal Palace cùng chú gà trống dát vàng trên tháp chuông nhà thờ Wester Kerk? Và trong ngày hôm đó, Anne đã nghĩ gì? Riêng tôi thì chỉ cảm thấy buồn và xấu hổ. Thật xấu hổ và nhục nhã khi con người phải lẩn trốn đồng loại ngay trên thế giới của chính mình, một thế giới mà lẽ ra phải dành cho sự sống, niềm vui, tình yêu và hạnh phúc phải không Anne? Anne thân yêu, Năm mươi chín năm đã qua kể từ khi em vĩnh viễn lìa đời, trên cái thế giới mà em từng sống, cho đến tận hôm nay, ở nhiều nơi, con người vẫn tiếp tục săn đuổi con người, những cuộc lẩn trốn vẫn từng ngày từng giờ diễn ra ở đâu đó... Thế giới đã bước sang thiên niên kỷ mới với những đổi thay chóng mặt trên bề nổi, nhưng dường như ở tầng sâu, cái ác, với bản chất không hề thay đổi, vẫn tiếp tục tồn tại ở nhiều nơi với bộ mặt hiện đại hơn, và cuộc đấu tranh giữa cái ác và điều thiện hình như vẫn còn lâu mới đến hồi kết thúc... Chân lý vẫn còn phải vượt qua một quãng đường dài mới mong đạt tới một thế giới như em từng mơ ước... Biết được điều này, em có buồn không?
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 10:41:36 GMT -5
Anne thân yêu, Mỗi khi nghĩ về em, tôi luôn ám ảnh về câu hỏi: em đã làm gì trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình ở cái trại tập trung Bergen-Belsen khủng khiếp ấy? Liệu những niềm tin trong trẻo về điều thiện, về một tương lai tốt đẹp có còn trong em? Có người kể lại rằng đã nhìn thấy em tháng ba năm đó trong dòng người xám xịt trên mặt sân lầy lội tuyết bùn, một cô bé gầy gò, rách rưới, co ro vì lạnh và những trận ho hành hạ tấm thân tàn tạ, duy có một điều – đôi mắt em vẫn rực lên những tia sáng lạ lùng, những tia sáng như ngọn lửa rực cháy trong giá lạnh...
Tôi đã cố hình dung và tin rằng cho đến thời điểm cuối cùng của cuộc đời, cô bé Anne vẫn là một thiên thần thánh thiện tuổi mười lăm với đôi mắt rực sáng niềm tin vào sự chiến thắng của loài người chân chính, đúng như những dòng chữ vội vàng cuối cùng em viết trong nhật ký, ít phút trước khi gót giày Gestapo đạp tung cánh cửa căn gác xép nơi em trú ẩn: “Dù bao lâu chăng nữa, dù vật đổi sao dời, em vẫn tin rằng con người sẽ hoàn thiện”
Anne thân yêu, Có một sự trùng hợp lạ lùng mà em không hề được biết, cũng trong năm 1942 định mệnh đó, không lâu trước khi em và gia đình bắt đầu cuộc lẩn trốn trong cái “nhà tù tự tạo” để kiếm tìm sự an toàn, một nhà báo người Tiệp Khắc đã bị phát xít Đức bắt giam và tuyên án tử hình. Trong hơn một năm “sống dưới giá treo cổ” tại xà lim số 267 của nhà tù Pankrat, người tử tù Julius Fucik đã viết nên một “nhật ký Anne Frank” khác với cùng một niềm tin tất thắng vào chân lý và lương tâm nhân loại giống như em: “Trên cây, cây mà chúng ta đã từng giữ và giữ cho nó đứng vững, cây ấy sẽ lớn lên, đơm hoa kết trái... Và những hoa trái của anh chắc chắn sẽ chín ngọt, sẽ đầy đặn thịt da, mặc dù trên những ngọn núi của anh khi ấy tuyết sẽ không bao giờ rơi xuống nữa...” Hẳn em sẽ rất vui khi biết rằng trên thế giới này, nghĩ và tin giống như em không chỉ có mình Julius Fucik... Mấy chục năm qua, dòng người vô tận vẫn hàng ngày xếp hàng trước cửa ngôi nhà số 263, phố Princegracht để được bước vào căn gác xép của em như đến với một thánh đường của lòng vị tha và niềm tin vào chân lý...
Anne thân yêu, Nếu có một tượng đài mang tên “Lương tri nhân loại”, tôi hình dung nó sẽ là hình ảnh của em trong những ngày cuối cùng của cuộc đời mình tại trại tập trung Bergen-Belsen: đó là một cô bé gầy gò, tiều tụy nhưng đứng thẳng với đôi mắt sáng lạ lùng, đó là một cô bé dịu dàng như điều thiện, hồn nhiên như hoa cỏ nhưng cũng cứng cỏi như chân lý. Bên cạnh đó sẽ là lời nhắn nhủ cuối cùng gởi lại loài người của Julius Fucik: “Hỡi những người mà tôi hằng yêu mến, hãy cảnh giác! "
Vâng, con người có quyền tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của chân lý và điều thiện, nhưng đừng quên phải luôn luôn cảnh giác với cái ác và những biến tướng muôn hình muôn dạng của nó trong thế giới hôm nay. Cái ác phải được phát hiện ngay từ khi nó mới hình thành, chắc em sẽ đồng ý với tôi về điều đó, phải không Anne?
THU THỦY
|
|
|
Post by Robot on Oct 27, 2004 7:59:17 GMT -5
Imagine - tưởng tượng một thế giới không có chiến tranh
Hôm nay tôi nghe John hát Imagine, lại chợt nghĩ vu vơ…
Imagine there’s no heaven It’s easy if you try No hell below us Above us only sky
Trong đoạn đầu của Imagine, John hát rằng hãy quên đi khái niệm “thiên đàng” và “địa ngục”. John muốn chúng ta cảm thấy thực sự tự do. Tôi nghĩ có lẽ biểu tượng cho tự do ở đây là bầu trời. John nói về cái cách để chúng ta quên đi áp lực được tạo ra bởi ước muốn được trở thành người tốt, và đôi khi là nỗi sợ hãi sẽ trở thành người xấu. Anh muốn chúng ra quên đi cái giới hạn giữa tốt và xấu, chỉ đơn giản bằng khái niệm “bầu trời”. Bầu trời không có ranh giới, mà với John “ranh giới” chính là nguyên nhân của các cuộc chiến tranh. John cho rằng sẽ chẳng có lý do để chiến tranh tồn tại nều ranh giới và tôn giáo biến mất khỏi cuộc sống này:
Imagine there’s no countries It isn’t hard to do Nothing to kill or die for And no religions, too
Bằng cách vẽ ra một thế giới không có biên giới giữa các nước, không có thiên đàng và địa ngục, cũng chẳng có đói nghèo, “Imagine all the people - Living life in peace” John muốn chúng ta tưởng tượng ra một thế giới như thế:
You may say I’m a dreamer But I’m not the only one I hope some day you will join us And the world will be as one
John nói về rất nhiều người khác, những người cũng ước mơ về hoà bình như anh. Anh muốn chia sẻ những tưởng tượng của mình với mọi người. Khi John hát rằng “but I’m not the only one”, có lẽ anh trông đợi ở người nghe có những suy nghĩ giống như mình. John chẳng bao giờ buộc tội ai cả, chỉ cho rằng tôn giáo và ranh giới đã tạo ra chiến tranh. John tin tưởng vào bản năng hướng thiện vốn tồn tại sẵn trong mỗi con người.
John viết bài hát này từ góc nhìn của một đứa trẻ. Anh chẳng bao giờ yêu cầu ai đó phải làm một điều gì vì hoà bình trong bài hát của mình. Khi cất lên bản tình ca ấy, anh chỉ đơn giản nói về những tưởng tượng của mình, vâng, đơn giản thế… Nhưng tất cả những người nghe bài hát ấy đều tự hiểu thông điệp được gửi đến cho chính mình. Nhẹ nhàng mà thấm thía, John đã chọn cách ấy, và anh thành công.
Imagine đã trở thành một trong những bài hát tuyệt vời nhất của John. Imagine có giai điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, cộng thêm một chút ảo giác như sống trong mơ. Giai điệu ấy đã đủ để thực sự chuyển tải được đến người đọc một thông điệp hoà bình, kể cả khi không hiểu được bản tiếng Anh của bài hát. Imagine đã lọt vào top 10 trong bảng xếp hạng của Anh trong suốt 18 tuần lễ, và ở Mỹ album này cũng lọt vào bảng xếp hạng trong suốt 30 tuần.
John Lennon và vợ anh, Yoko Ono là những nhân vật quan trọng trong thập kỷ 60. Sau khi kết hôn với Yoko Ono, John đã trở thành một nhà hoạt động vì hoà bình. John viết rất nhiều bài hát để phản đối chiến tranh trong đó có Imagine. Chính John và Yoko là những người đã tạo ra cả một xu thế mới chống lại thế giới bảo thủ của những năm 60, mà những kẻ thuộc thế giới bảo thủ ấy đã gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam. Với Imagine, John đã mang đến cho thế hệ tiếp theo của thập kỷ 70 một niềm hi vọng với bởi vì hoà bình không bao giờ là muộn cả.
Lời tác giả: Bài viết này đã được tôi dịch từ một bài viết khác có tên: “Imagine – A dreamer’s view of the world” mà tôi vô tình đọc được khi search tài liệu. Trong bài viết trên tôi đã sắp xếp lại ý và bỏ qua một số đoạn có nói về quan điểm chính trị trong đoạn gốc. Tôi cũng không dịch lại chính xác câu chữ của tác giả mà chỉ phỏng dịch theo ý của mình, cộng với cảm xúc tôi có được khi nghe bài hát này.
Chiaki
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 8:32:11 GMT -5
Để người trẻ biết được những thay đổi trong cuộc sống của họ
Tác giả nữ Xuân Phương:
Cuốn hồi ký mang tên Áo dài (viết chung cùng nhà báo Pháp Danièle Mazingaber) của nữ tác giả Xuân Phương xuất bản năm 2001 ở Pháp đã bán được 50.000 bản, in lại hai lần và đã được dịch sang tiếng Anh, Ba Lan. Tờ Thời báo Eo biển của Singapore số ra mới đây đã có bài viết giới thiệu bà.
Sinh năm 1929 trong một gia đình giàu có ở cố đô Huế nhưng Xuân Phương lại nhiệt tình đi theo tiếng gọi của Việt Minh trở thành một chiến sĩ kháng chiến ở tuổi 16 với 9 năm ròng sống ở trong núi rừng miền bắc cùng chồng cũng là một chiến sĩ pháo binh.
Trong những năm hòa bình ở miền Bắc, bà làm việc cho Bộ Tài chính và sau đó trong vai trò của nhà làm phim, nhà hóa học, bác sĩ. Hiện nay đã 75 tuổi, nhưng bà vẫn điều hành một phòng triển lãm nghệ thuật ở TP.HCM.
Khi phỏng vấn, các phóng viên không thấy bà mặc "áo dài" nhưng khi tiếp xúc với bà, họ thấy rằng bà có nhiều cái để nói về nó hơn là chuyện sở hữu nó:
* Tại sao bà lại viết cuốn sách?
- Tôi muốn thế hệ trẻ VN biết được những thay đổi trong cuộc sống của họ. Bạn có biết ngay cả những đứa cháu của tôi cũng chẳng muốn nghe câu chuyện của tôi, có lẽ chúng không thấu hiểu được ngày xưa bà chúng đã sống như thế nào.
Hay câu chuyện về những người bạn là quân nhân của tôi. Trong buổi tang lễ của ông, hàng xóm cứ thắc mắc là tại sao ông ta lại có nhiều người đến viếng thế trong khi thường ngày ông ta chỉ là một ông già đơn độc, lủi thủi. Điều quan trọng nhất mà họ không biết, đó là sự cống hiến cả đời của ông ấy cho chính tự do của họ.
Thêm nữa, khi gặp lại mẹ và các anh chị em ruột của tôi sau 40 năm xa cách ở Paris, họ vẫn đưa ra những câu hỏi chứng tỏ rằng không hiểu hết những nỗi khổ đau mà nhân dân ở hai miền Nam-Bắc đã phải chịu đựng trong những năm chiến tranh. Cho nên tôi cần phải có một thông điệp thật mạnh mẽ để mọi người hiểu thế hệ chúng tôi đã sống như thế nào.
* Sự phản hồi từ công chúng đối với cuốn sách như thế nào, thưa bà?
- Năm ngoái tôi đã đến Warsaw để tham gia phát hành bản tiếng Ba Lan. Thật tuyệt vời! Tôi đã nhận được hàng trăm lá thư của độc giả. Trong chuyến đi tới Mỹ, tôi có gặp các nhà sử học của thành phố New York và Washington. Cũng từ đó, tôi khám phá ra một điều là đã có tới 47.000 cuốn sách nói về chiến tranh ở VN nhưng rất ít trong số đó thể hiện quan điểm của người VN.
* Xin bà cho biết phần nào được cho là khó viết nhất?
- Có những ký ức thật đau lòng, ví như khi 15 tuổi, tôi đã quen với việc đi giày, nhưng khi đi kháng chiến, vào trong rừng tất nhiên tôi không được đi chúng nữa, chân bị rớm máu.Tôi phải lau sạch vết máu chảy để không ai chú ý đến nó nữa. Vết đau đó làm tôi không thể nào quên được.
Song tôi muốn nói là tôi không hề hối tiếc về con đường mình đã chọn và nếu như được làm lại một lần nữa, tôi sẽ vẫn lựa chọn con đường đó. Vì khi sống ở một đất nước bị ngoại bang xâm chiếm thì tất cả chỉ là làm sao giải phóng được đất nước mà thôi.
Theo Quân đội nhân dân - ND
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 8:33:41 GMT -5
Hành trình Cat Stevens - Yusuf Islam
TTO - Nếu phải chọn một nghệ sĩ quốc tế "rùm beng" nhất trong tháng, theo nghĩa được phương tiện truyền thông quan tâm, chắc chắn mọi người sẽ nghĩ ngay tới Yusuf Islam.
Cái tên khiến người ta liên tưởng tới những tín đồ Hồi giáo cực đoan, những phần tử khủng bố không ngại cài bom cảm tử vào người. Chính vì lẽ đó, người nghệ sĩ này đã không được quá cảnh vào đất Mỹ để chuẩn bị cho một dự án âm nhạc.
Từ Cat Stevens đến Yusuf Islam
Sinh vào tháng 7-1947 với tên khai sinh Steven Demetre Georgiou, là con trai út trong gia đình ba anh chị em có mẹ là người Thụy Điển, ba gốc Hy Lạp. Sinh trưởng trong một gia đình tương đối ổn định về kinh tế và có một nền giáo dục tốt tại West End, London.
Thời trai trẻ đầy danh vọng của Cat Stvens Ở tuổi thiếu niên, cậu bé Steven đã bộc lộ năng khiếu âm nhạc. Khi lên đại học, cậu tham gia vào ban nhạc của trường Hammersmith với "nghệ danh" Steve Adams. Cái tên Cat Stevens ra đời khi anh bắt đầu ghi âm cho hãng Decca và có bài hit đầu tiên ở tuổi 18 là I love my dog.
Sự nghiệp tưởng chừng như thăng tiến với các sáng tác dẫn đầu bảng xếp hạng Anh quốc như Matthew and son, I'm gonna get me a gun, thì lại bị khựng lại vì căn bệnh lao quái ác 1968. Sau hơn một năm điều trị, Cat trở lại không được đón nhận như trước. Nhưng sau đó, chính các sáng tác đầy chất nội tâm và cá nhân đã khiến anh trở nên nổi tiếng trên đất Mỹ, bằng chứng là Wild World được Jimmy Cliff ghi âm đầu tiên nhanh chóng chiếm cảm tình của người Mỹ sành nhạc. Thành công lại đến khi Cat sáng tác ca khúc cho phim Harold and Maude 1972, một phim hài kịch châm biếm.
"Cần phải nói lại, bất cứ hình thức khủng bố, bạo lực nào cũng đều đối chọi với những gì tôi đã yêu quí và tranh đấu. Những ai đã biết tôi đều ủng hộ tôi. Cả đời tôi đi tìm kiếm hòa bình và sự cảm thông, tất cả đều phản chiếu rõ trong âm nhạc của tôi. Kể từ khi là một người Hồi, tôi đã tận tâm cho công việc giáo dục, từ thiện, giúp đỡ trẻ em khắp nơi trên thế giới."
Cat Stevens - Yusuf Islam Stevens đã đạt liên tiếp tám album vàng và 10 bài hit tại Anh, 14 bài khác tại Mỹ. Với những sáng tác Wild world, The first cut is the deepest, Father and son, Morning has broken, Lady D'Arbanville, Moonshadow, Oh very young…, Cat Stevens được xếp vào một trong những tượng đài xuất sắc nhất của dòng folk-rock phổ quát, bên cạnh James Taylor, Carole King, Bob Dylan…
Thế rồi năm 1977, trong cuộc đi tìm giá trị thật của cuộc sống (đa phần phản ánh trong các sáng tác của ông), Cat Stevens thành một tín đồ Hồi giáo dưới tên mới Yusuf Islam 1979, bỏ lại sau lưng bao hào quang danh vọng của một ngôi sao nhạc pop thời sung mãn. Yusuf cũng nổi tiếng trong cộng đồng người Hồi ở Anh. Ông thành lập trường tư, làm thầy giáo và làm chủ tịch nhiều quĩ từ thiện giúp đỡ trẻ em nghèo, là nhà hoạt động, người phát ngôn tích cực cho tôn giáo mình. "Stevens mới" vẫn đều đặn cho ra album nhạc Hồi.
Năm 2000, ông bị trục xuất khỏi Israel vì bị nghi là hậu thuẫn cho phiến quân Hồi giáo Hamas. Gần đây nhất, Yusuf không thể vào Mỹ vì có tên trong danh sách theo dõi của FBI. Tuy nhiên Yusuf đã lên tiếng chỉ trích lại, vì giới chức Mỹ không có bằng chứng nào liên hệ anh với quân khủng bố.
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 8:34:15 GMT -5
Người đàn ông của hòa bình
Yusuf Islam
Morning has broken! Bình minh đã vỡ oà trên đất nước "Ngàn lẻ một đêm". Bom đã rơi. Xung đột mỗi ngày vẫn gay gắt. Những câu chuyện thần tiên, liệu lũ trẻ Iraq có còn được nghe bà kể trong thanh bình của những đêm trăng tròn? Nghe lại Morning has broken ngày nào của Cat Stevens, ít ra vào lúc này, sẽ mất đi cái cảm giác hớn hở, cảm giác tán dương cuộc đời đã mang đến những gì tốt đẹp nhất cho ta.
Bình minh thức dậy như một buổi sáng ban sơ. Chim két biết nói rồi. Hãy ngợi ca tiếng hát, tán dương bình mình và những ngày xuân trong lành của dương trần. Hạt mưa tinh mơ chan hòa ánh nắng thêm ngọt lịm hệt như sương sa đọng trên ngọn cỏ. Xuân viên mãn nơi bước chân người đi qua. Ánh dương này là của chúng ta. Buổi sáng này là của chúng ta. Vườn địa đàng như diễn ra trước mắt…
Phải rồi, nếu tiếng hát Cat Stevens lại được cất lên nơi chiến trường ác liệt nhất thế giới hiện nay, cũng như 1991 - thời điểm trước cuộc chiến Vùng Vịnh, Cat từng tới Baghdad trong sứ vụ giải cứu con tin; thì lời hát trên như một ước vọng hòa bình, cầu mong cho yên lành lại quay về với con người và đất nước Iraq hồn hậu.
Mong ước có thực hiện được hay không lại hoàn toàn khác, rất khó, khi mà những bình ổn thời hậu Saddam chỉ là chuyện vẽ vời trên bàn giấy, chính quyền Bush mỗi ngày một lún sâu, quân nổi loạn ngày càng hung hãn bất chấp tính mạng của mình. Thế nhưng, sống thì phải có một niềm tin. Niềm tin có một sức mạnh vô cùng to lớn. Không lạc quan chủ nghĩa đâu , Cat đã hát:
Muốn kêu lớn, thì hãy hét thật to. Muốn tự do, thì tự do. Có hàng triệu cách để thực hiện. Bạn có thể làm những gì bạn muốn. Cơ hội trong tầm tay bạn. Nếu bạn đã tìm thấy con đường mới, hãy làm ngay hôm nay. Bạn có thể biến mọi việc thành sự thật. Bạn có thể làm lại khi thất bại. Thấy chưa, dễ ẹt hà, chỉ cần bạn biết mình đang làm gì, mình là ai. - phần lời trong bài If you want to sing out, sing out.
Khi chính quyền Bush phát động cuộc chiến Iraq, cùng với văn nghệ sĩ thế giới, Yusuf lên tiếng phản đối bằng việc ghi âm lại hai bản Peace train (*) và Lady D'Arbanville (đổi thành Angel of War).
Peace train mở đầu bằng câu "Ngise'Khaya, Ngise'Khaya Ngise'Khaya, Ngise'Khaya, Ngise'Khaya" (*) được dàn đồng ca nam cất lên từ nhỏ đến lớn, từ chậm rãi đến dồn dập. Câu hát như tiếng xập xình của đoàn tàu, mỗi lúc con tàu càng đến gần. Yusuf không nói bóng nói gió, ông dùng thẳng từ "this country" (đất nước này) để chỉ Iraq - tàu hòa bình chở hoan lạc tới người dân Iraq - và còn nhằm vào những nước đã châm ngòi cuộc chiến - tàu hòa bình chở bom đạn về nơi nó được sản sinh.
Tôi mới hạnh phúc cách đây không lâu. Hãy nghĩ tới những điều tốt đẹp sẽ đến. Tôi tin rằng nó sẽ đến. Chỉ vài ngày thôi con tàu sẽ đến. Tôi mới vừa cười đùa đây mà. Hãy mơ về một thế giới như nó đã có… Tại sao chúng ta căm ghét nhau? Tại sao chúng ta không sống trong niềm vui sướng nhất… Tiếng tàu ngày một lớn dần. Đến mau tàu ơi… Bởi lưỡi hái của bóng tối ngự trị, tàu ơi hãy đến mau. Tàu hòa bình ơi đến mau. Chở tôi về nhà.
Nếu ai đã từng nghe Peace train ba mươi năm về trước sẽ nhận ra sự thay đổi trong Peace train qua bản dựng mới của Yusuf: tiếng hát "Stevens mới" già giặn hơn, chín muồi hơn; tiếng hối thúc đoàn tàu quyết liệt hơn với sự trợ giúp của dàn đồng ca nam, như ước nguyện hòa bình mà cả nhân loại đang hướng về Iraq.
Ai đó đã ví von cuộc đời như một chuyến đi vạn hành. Hành trình Steven Demetre Georgiou - Cat Stevens - Yusuf Islam là một hành trình không êm ả và vẫn chưa có trạm kết. Ở mỗi chặng, chắc hẳn đã nhiều lúc, Cat hay Yusuf giật mình thức giấc giữa đêm đen không một ánh sáng chỉ đường, để rồi sau đó nhiều phen ngỡ ngàng vì bao thăng trầm đã vượt qua. Yusuf sẽ đi nốt quãng đường còn lại...
ANH NGUYỆN (tổng hợp từ Internet)
(*) Ngôn ngữ Zulu, Nam Phi nghĩa là "chở tôi về nhà"
|
|
|
Post by Oshin on Nov 12, 2004 13:20:07 GMT -5
Yasser Arafat: "VN là tổ quốc của tôi"img.photobucket.com/albums/v66/cattrang_thuyduong/Tin/arafat.jpg [/img] Gặp tại Hà Nội, ông Arafat ký tặng ảnh cho phiên dịch viên Nguyễn Quang Khai TT - Đại sứ VN tại Iraq Nguyễn Quang Khai là người có nhiều dịp gần gũi với Tổng thống Arafat. Ông đã đảm nhiệm công việc phiên dịch tại các cuộc tiếp xúc giữa các đoàn cao cấp của VN với Arafat từ năm 1978. Ông chia sẻ với Tuổi Trẻ cảm nghĩ của mình về nhà lãnh đạo Ả Rập kiên cường này. Lần đầu tiên tôi được diện kiến ông Arafat là vào năm 1978 khi đang làm công tác phiên dịch tại Đại sứ quán VN ở Iraq. Một thanh niên trẻ, mới 27 tuổi có cơ hội gặp gỡ một nhà đấu tranh vì độc lập dân tộc nổi tiếng quả là điều vinh dự. Tôi không bỏ lỡ cơ hội chụp ảnh với ông. Vài năm sau, ông Arafat tới thăm VN, tôi lại được cử đi phiên dịch. Tôi không chắc ông Arafat còn nhớ tới mình. “Ông có nhớ tôi không?” - tôi hỏi. “Nhớ chứ, tôi đã gặp anh tại Iraq” - ông Arafat trả lời rồi nhanh tay ký tặng vào tấm ảnh tôi chụp cùng ông ở Iraq nhiều năm trước. Sau này, trải qua hơn 10 lần đi phiên dịch cho các cuộc gặp gỡ chính thức giữa lãnh đạo VN và ông Arafat, tôi luôn chứng kiến ông Arafat quan tâm tới những người xung quanh, từ lái xe tới người phục vụ, người bảo vệ. Ông thường hỏi han tôi dịch có mệt không, nghỉ ngơi như thế nào mỗi khi thấy tôi tỏ vẻ mệt mỏi vì công việc. Anh em chúng tôi thường nhận xét ông là người rất “tâm lý”. Ông là một người Ả Rập thực thụ. Ông luôn xuất hiện trước công chúng với một hình ảnh không đổi: bộ quân phục màu xanh ôliu, khăn choàng cufi quấn quanh đầu và một khẩu súng lục bên hông. Thế nhưng đằng sau vẻ ngoài giản dị ấy là cả một sự thông tuệ, tinh tế và cả tính dí dỏm. Mọi người hẳn nhớ câu nói nổi tiếng của ông tại Liên Hiệp Quốc. “Với những nhành ôliu tượng trưng cho hòa bình, và khẩu súng tượng trưng cho cuộc đấu tranh giành tự do, xin đừng để những nhành ôliu rời khỏi tay tôi”. Câu tuyên ngôn về khát vọng hòa bình cháy bỏng của ông. Ông đã từng ví von “tiến trình hòa bình ở Trung Đông như một phương trình mà Palestine là một ẩn số”. Một lần trước khi ông kết hôn cùng bà Suha Tawi, khi đi cùng ông trên ôtô, tôi vui miệng hỏi vì sao ông chưa lấy vợ. “Tôi đã kết hôn với Palestine”, ông trả lời. Ông Arafat có tình cảm đặc biệt với VN, đặc biệt ngưỡng mộ cuộc đấu tranh giành độc lập của VN. Ông vô cùng tiếc nuối vì chỉ có thể đến thăm VN lần đầu vào năm 1970, không được gặp Bác Hồ. Ông cho biết khi Bác Hồ qua đời, rất nhiều người dân Palestine đã khóc và để tang. Khi đến thăm VN, ông nói với các phóng viên: “Tôi vẫn chưa có tổ quốc. VN là tổ quốc của tôi”. Chín lần ông Arafat tới thăm chính thức VN, nếu phải lưu lại, ông thường chọn nghỉ ở nhà khách Bộ Ngoại giao chứ không ở khách sạn. Tôi được biết những chuyến công cán nước ngoài của ông đều do ông tự bỏ tiền chứ không dùng tiền công quĩ. Có thể vì vậy mà những chuyến đi thăm của ông thường rất ngắn, có lần chỉ kéo dài vài giờ và tiến hành hội đàm ngay tại sân bay. Từ năm 2002, khi chính quyền Palestine định cư hẳn ở Ramallah, ông Arafat ít đi công tác nước ngoài. Ông nói ông đã có một mảnh đất trú thân để vấn vương. Có nhiều điều mọi người ít biết về ông Arafat. Ông ngủ rất ít, mỗi ngày chỉ 3 - 4 tiếng, còn lại là làm việc không mệt mỏi. “Tôi chưa thể ngủ ngon khi nhân dân Palestine chưa có tổ quốc”, ông tâm sự. Mặc dù là tổng thống nhưng ông Arafat ít coi trọng những nghi thức lễ tân ngoại giao. Mỗi lần ông thăm VN, tôi thường được ông tín nhiệm gợi ý đi dịch cho đoàn. Tôi đã phiên dịch cho ông từ khi còn là nhân viên phiên dịch cho đến khi trở thành đại sứ. Mỗi lần gặp gỡ, ông gọi tôi là “người anh em”, “anh Khai” rất thân tình. Ông ra đi khi ước nguyện về một nhà nước Palestine độc lập chưa được thực hiện, khi khát vọng có một tổ quốc của 3 triệu người dân Palestine vẫn chỉ là khát vọng. Ông là người khởi tạo ra tiến trình hòa bình ở Trung Đông, một nhà kiến tạo hòa bình nhưng số phận đã không cho ông nhìn thấy nỗ lực của mình mang tới những kết cục tốt đẹp. Điều này càng làm tôi xúc động hơn, tiếc nuối hơn khi nhận tin ông qua đời. Tôi sẽ không còn có dịp được ông gọi là “người anh em” nữa. Hà Nội ngày 11-11-2004 CẨM HÀ ghi
|
|
|
Post by Oshin on Nov 12, 2004 13:27:31 GMT -5
Những kỷ niệm cháy lòng với Palestine - Arafat "Xin đừng để những nhành ôliu rời khỏi tay tôi" - Yasser Arafat tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 13-11-1974 TT - Sáng nay bật truyền hình nghe tin người anh hùng của nhân dân Palestine đã qua đời, trong lòng tôi trào dâng một nỗi xúc động mãnh liệt và những kỷ niệm của tôi với Palestine bỗng sống lại như vừa xảy ra. Mùa hè năm 1979, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta tạm ngưng, trung ương điều động nhiều đoàn cán bộ đi một số khu vực trên thế giới để vận động, giải thích cho bạn bè năm châu hiểu rõ tính chất cuộc chiến này. Tôi đang học ở Hà Nội và là một đại biểu Quốc hội trẻ nên được điều vào một đoàn đi các nước Trung Đông và Nam Á - đoàn gồm bốn người do anh Nguyễn Tiên Phong, bí thư Trung ương Đoàn, làm trưởng đoàn. Chuyến đi kéo dài hai tháng, từ những đất nước quen thuộc như Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ... đến những xứ xa lạ như Libya, Syria, Iraq... Một hôm, chúng tôi đặt chân đến Lebanon, một đất nước ven Địa Trung Hải - nơi được mệnh danh là “Thụy Sĩ của phương Đông” bởi tính chất trung lập về chính trị và vẻ đẹp quyến rũ của con người và thiên nhiên. Điều bất ngờ là tổng hành dinh của Mặt trận Dân tộc giải phóng Palestine (PLO) và căn cứ kháng chiến của PLO được đóng ngay trên đất nước này. Do vào thời điểm đó các lực lượng cánh tả và dân chủ - xã hội nắm chính quyền ở Lebanon và họ giúp đỡ PLO, vì lúc ấy nhân dân Palestine chưa có được mảnh đất nào ở Bờ Tây và dải Gaza. Đoàn chúng tôi đi thăm các trại tạm cư của dân Palestine, dự các cuộc mittinh của nhân dân Palestine và Lebanon biểu thị tình đoàn kết với nhân dân VN - treo cờ VN và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại thủ đô Beirut, chúng tôi đã được ông Abul Eyad, tổng tư lệnh quân đội Palestine tại Lebanon tiếp ngay tại tổng hành dinh của PLO. Khoảng 10 năm sau, tôi thấy báo chí đăng tin ông và vợ, con đã bị ám sát chết trong một ngôi biệt thự ở nước Tunisia bởi một toán đặc nhiệm Israel đổ bộ từ trên không. Có lần vào chiều tối, chúng tôi được đưa đi thăm các căn cứ vũ trang của PLO nằm sâu trong vùng rừng núi biên giới Lebanon. Chúng tôi phải mặc áo giáp và đội nón sắt vì đạn pháo giữa hai bên Palestine - Israel đấu qua đấu lại ầm ầm và hỏa châu sáng rực trên đầu. Bước vào các hầm trú ẩn của du kích, tôi ngạc nhiên khi thấy nhiều hầm treo ảnh đại tướng Võ Nguyên Giáp cạnh ảnh Arafat. Một bé gái Palestine khóc thương Tổng thống Arafat Hỏi thì được các bạn trả lời là Israel hung hăng quá, lại được đế quốc Mỹ hà hơi tiếp sức, nên bạn mong ước có được thủ lĩnh quân sự tài ba như tướng Giáp để chiến thắng sớm. Du kích quân choàng tặng chúng tôi mỗi người một chiếc khăn rằn đen trắng hình tổ ong. Đó là loại khăn choàng đầu mà ta thấy ông Arafat không rời khỏi đầu khi xuất hiện trước công chúng và khi tiếp tân ngoại giao với nguyên thủ các nước. Chiếc khăn Palestine ấy tôi vẫn còn treo trong tủ kỷ vật các nước của mình. Đã 20 năm qua mà chiếc khăn vẫn tươi màu, khi tôi bất giác mở ra để cạnh chân dung tuyệt đẹp của Arafat với nụ cười lạc quan và chiếc khăn choàng bất hủ của ông. Một hôm, đoàn chúng tôi được các nhân viên an ninh Palestine gồm những cô gái ở tuổi 27 đưa đi "gặp một nhân vật quan trọng" khởi hành vào 12g đêm, chiếc xe đưa chúng tôi băng qua nhiều thị trấn làng mạc đã chìm trong giấc ngủ. Đến 2g sáng thì xe đột ngột quay lại và khi về đến khách sạn, các bạn xin lỗi và cho biết vừa rồi người định gặp chúng tôi chính là thủ lĩnh Arafat, nhưng cuộc gặp bất thành vì nửa đường thì có tin tình báo qua điện đài là xe bị mật vụ Israel theo dõi. Ông Arafat rất quí VN nên nghe có đoàn VN sang, ông muốn tiếp ngay. Khi đó, nhà ở của Arafat là một chiếc trực thăng luôn di động, ông không ngủ hai đêm liên tiếp tại một địa điểm để tránh mật vụ Israel ám sát. Tôi nhớ một ngày tháng 11-1974, ông Arafat đến dự họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc với tư cách đại diện Palestine để bàn việc Liên Hiệp Quốc thừa nhận Palestine như một quốc gia. Arafat đã dõng dạc phát biểu những câu bất hủ khiến cả đại hội đồng đứng dậy vỗ tay: "Hôm nay tôi đến đây Với những nhành ôliu, tượng trưng cho hòa bình Và khẩu súng tượng trưng cho cuộc đấu tranh giành tự do Xin đừng để những nhành ôliu rời khỏi tay tôi!". Khi đó tôi đang bị chính quyền Sài Gòn giam giữ tại nhà tù Chí Hòa, nghe tin này qua đài phát thanh, tôi đã xúc động viết một bài thơ ca tụng Arafat. Hôm nay, người chiến sĩ anh hùng của dân tộc Palestine, ngọn cờ tinh thần của phong trào giải phóng - giành độc lập của các nước vùng Trung Đông đã ra đi, khi sự nghiệp lập quốc chưa trọn vẹn, để lại sau lưng hàng triệu đôi mắt long lanh đầy thống khổ - thương tiếc - âu lo của nhân dân Palestine vì đất sống còn đang bị vây hãm bởi quân thù. LÊ VĂN NUÔI
|
|
|
Post by Robot on Jan 30, 2005 13:04:10 GMT -5
Việt Nam trong tim cựu tù binh PhápBà Trần Tố Nga (giữa) và những người bạn Pháp Bà là một người phụ nữ đẹp phúc hậu, hoạt bát và trẻ hơn rất nhiều so với tuổi 63. Ít ai ngờ đây chính là người cộng sản kiên cường, đã từng có những năm tháng hào hùng vượt Trường Sơn, từng bị giặc bắt, tra tấn và sinh con trong tù. Trong thời bình, người ta biết đến bà, một nhà giáo có nhiều đóng góp cho ngành giáo dục và sau đó là Giám đốc Công ty Du lịch Liên Hồng. Song, một điều ít ai biết đến: hơn 10 năm qua, bà - Trần Tố Nga - một nhà từ thiện âm thầm và là một sứ giả hòa bình giữa hai nước Việt - Pháp. Tháng 7/2004, bà được nước Pháp trao tặng Huy chương Bắc đẩu bội tinh. Có một "quê hương thứ hai" trong ký ức "Thực ra, tôi chỉ là một gạch nối nhỏ bé giữa những mạnh thường quân với những đồng bào nghèo. Người đáng nói phải là những cựu tù binh Pháp ở Đông Dương...". Câu chuyện được bắt đầu, không phải là về bản thân mình mà về "những tấm lòng Pháp". Trong thời gian làm việc bên Pháp, bà đã tình cờ gặp những cựu tù binh Pháp tại Việt Nam. "Điều đầu tiên tôi thấy ở họ là một tấm lòng với Việt Nam. Họ đã rất xúc động, thậm chí có nhiều người khóc một cách chân thành khi kể với tôi về Việt Nam". Khi gặp bà Nga, một phụ nữ sinh ra trên mảnh đất có một phần tuổi trẻ của họ, những cựu tù binh Pháp đã "dốc bầu tâm sự" như gặp lại người thân. Không có hận thù, cay đắng. Thay vào đó là tình cảm nồng nàn, pha trộn giữa những mặc cảm tội lỗi và niềm yêu thương đất Việt. Hầu như trong ai cũng có kỷ niệm đẹp của riêng mình về những tấm lòng cao cả của Việt cộng, những người đã chia sẻ với họ vắt cơm muối, nắm bo bo cuối cùng - họ đùm bọc, cứu sống ngay cả những kẻ thù của dân tộc. Ông Bonfils, người lính già gầy gò, ống tay áo bên trái thõng xuống - cánh tay này ông đã để lại Việt Nam sau một trận chiến ác liệt. Việt Nam sống trong ông với kỷ niệm về chuyến bị bắt cùng vết thương đã bắt đầu hoại tử. Rất may cho Bonfils, trên đường bị giải đi ông đã gặp một bác sĩ Việt Minh hành quân đi ngang. Bác sĩ đã dừng lại, mổ cho ông ngay ở ven đường. Nếu không có cuộc gặp gỡ tình cờ ấy thì ông đã phải bỏ xác xứ người. Bonfils khẩn thiết nhờ Trần Tố Nga đi tìm lại ân nhân xưa. "Tôi đã nhờ bạn bè xới tung hầu hết các bệnh viện nhưng không tìm được người bác sĩ ấy. Có thể ông đã ngã xuống trong cuộc chiến, hoặc nếu còn sống liệu có nhớ được một trong hàng trăm hàng nghìn người bệnh trong thời lửa đạn?".
|
|
|
Post by Robot on Jan 30, 2005 13:04:25 GMT -5
"Có một điều rất đặc biệt - bà Nga tâm sự - họ là người bỏ tiền ra để xây dựng trường lớp cho con cháu chúng ta, song chính họ lại tỏ ra cảm kích và biết ơn chúng ta vì đã giúp họ đạt được tâm nguyện". Chính bà là người đứng ra lo thu xếp một cuộc gặp mặt cho 300 cựu tù binh Pháp với các cựu chiến binh của ta ở Điện Biên năm 1999. Những người Pháp đã đến thắp nhang ở nghĩa trang các chiến sĩ của ta trên đồi A1. Các tướng tá Pháp được tướng Trần Văn Quang tiếp đón. Cuộc gặp gỡ cởi mở, chân tình và đượm nước mắt. Họ nói về thời đó - anh ở đâu, tôi ở đâu... Tướng này ôm tướng kia, bắt tay khép lại quá khứ. Từ đó, rất nhiều cựu tù binh Pháp đã trở lại Việt Nam.
André Saint Georges, nguyên thanh tra của Bộ Giáo dục Pháp cũng từng bị rơi vào tay Việt Minh ở Huế. "Mỗi lần nhắc tới kỷ niệm xưa là một lần Georges khóc". Bà Nga nhớ lại. Ông bị bắt và bị thương ở làng Đại Hà. Coi giữ ông là một anh bộ đội trẻ măng. Huế mùa mưa lạnh giá, ban đêm chỉ có mỗi tấm chăn, "cai ngục" nhường cho tù binh đắp. Một cô du kích nhỏ chăm sóc ông tận tình. Những lúc vắng người cô lén nắm tay ông, họ không biết nói gì nhưng trong ánh mắt đen láy ướt át, ông đọc thấy lời an ủi, động viên và chút e lệ rất Á Đông... Bất ngờ về tấm lòng nhân ái, ông càng cảm thấy có tội vì sự có mặt của mình ở Việt Nam, cho dù hồi đó Georges chỉ là anh lính bàn giấy, chẳng cầm súng buổi nào. Qua bà Nga, ông đã mua tặng làng 5 chiếc máy cày và 50 xe đạp cho các em đi học. Kết thúc câu chuyện "kể ra cho thỏa nhớ", Georges thường mơ mộng: "Người con gái ấy chắc nay đã thành bà rồi. Giá như tôi được gặp lại nàng...". Ông đã quá già, lại bị đau tim nên không có cơ hội sang Việt Nam để tìm lại người xưa, cảnh cũ.
Còn biết bao kỷ niệm đẹp khác. Sau chiến tranh, ông Augustine, phó thị trưởng một quận ở Paris, khi gặp giáo sư Đỗ Cao Sơn đã tình cờ phát hiện đây là người phụ trách đoàn tù binh Pháp trong đó có ông. Hai bên tay bắt mặt mừng như gặp lại bạn cũ. Ông đã gọi giáo sư là "người cai ngục đẹp trai của tôi".
Từng chút, từng chút kỷ niệm về Việt Nam đã khắc sâu vào trái tim họ. Vì thế, hầu hết các bà vợ của các cựu tù binh đều cảm thấy... ghen với một Việt Nam chung chung trong tâm hồn chồng. Bà Nga kể: "Những người Pháp ấy mang nặng niềm thương nhớ Việt Nam. Biết bao người đã từng thốt lên: Việt Nam là quê hương thứ hai của tôi. Thậm chí, có người bị alzeimer nhiều năm, không còn nhận ra đồng đội nữa, nhưng khi hỏi "nhớ Việt Nam không?", ông thốt lên: "Việt Nam hả? Nước mắm!".
Vì sao những tù binh Pháp lại yêu Việt Nam đến thế? Theo bà, đó là vì mảnh đất ấy lưu giữ một phần tuổi trẻ của họ. Vì những tấm lòng chân chất mà rất đỗi bao dung của người Việt. Những ám ảnh, day dứt của kẻ có tội. Tất cả đã nhào nặn một Việt Nam đáng nhớ trong ký ức mỗi người.
Những đóa hoa nở trong thầm lặng
"Bonfils là người đàn ông tuyệt vời nhất thế gian này mà tôi đã được gặp". Bà Tố Nga xúc động kể về "linh hồn" của những chương trình hành động vì Việt Nam của Hội Cựu tù binh Đông Dương. Người Pháp gọi bà và Bonfils với cái tên thân mật: "hai kẻ đồng lõa" vì trẻ em Việt Nam. Bệnh ung thư hoành hành nhiều năm nay song ngày ngày, người lính già xuống "đại bản doanh" đặt tại căn hầm nhà mình làm việc từ 8 giờ sáng: viết thư, nhận fax, điện thoại, nhận giấy chuyển tiền của các chiến hữu trên toàn nước Pháp gửi tới. Với cánh tay còn lại, ông đã viết hơn 2.000 lá thư quyên góp tiền. Ông làm việc hầu như suốt ngày đêm. Cho dù nhận được một ngân phiếu vài quan, ông lập tức ra bưu điện gửi biên nhận trở lại.
Bà Tố Nga và ông Bonfils tại Paris Hết lần này đến lần khác, các cựu tù binh Đông Dương (kể cả những người không chiến đấu ở Việt Nam) trích tiền lương hưu ra đóng cho quỹ vì Việt Nam. Hành động này đã trở thành nguồn sống chính cho họ. Đều đặn, những món tiền đó được trao cho bà Nga mang về nước để xây trường cho trẻ em nghèo. "Không phải ngẫu nhiên mà tôi chọn những vùng sâu vùng xa, nơi trước kia là những chiến trường đẫm máu giữa ta và quân Pháp để mở trường". Dù không nói ra nhưng trong thâm tâm bà và các cựu tù binh đều như có quy ước ngầm về một sự đền đáp những mất mát, đổ máu của quá khứ. Năm 1999, bà xây Trường Điện Biên cho một bản nghèo của đồng bào Khơ Mú, bắc cầu, làm đường cho các em đi học. Tại Tuyên Quang, ngày nay ngôi trường cấp 1 Hưng Thành đã mọc lên khang trang, tổng công trình là 300 triệu đồng, trang bị 30 máy vi tính để các em học tập. Năm 2002, ngôi trường Đông Khê (Cao Bằng) được xây lên với kinh phí hơn 700 triệu đồng... Cứ như vậy, 7 ngôi trường đã lần lượt ra đời.
Sau nhiều năm hoạt động, những người lính già bắt đầu mệt mỏi. Hội Cựu tù binh Đông Dương có hơn 4.000 hội viên, nay chỉ còn lại phân nửa. Mỗi năm khoảng 40-50 người về thế giới bên kia. Ông già Bonfils bệnh tật đã nhiều lần "dọa" đóng tài khoản ngân hàng, đóng cửa đại bản doanh. Nhưng ông còn nấn ná. Họ đang cố dốc sức già cho công trình cuối cùng: một trường dạy nghề cùng cơ sở kinh doanh sách và thiết bị trường học. Những lợi nhuận thu được sẽ làm học bổng cho các em học sinh nghèo.
Nguyễn Hồng Dung
|
|