Post by Robot on Jan 31, 2005 10:53:26 GMT -5
Chuyện nguồn nhân lực ở nước Mỹ
TTCN - Theo thống kê quốc gia về trình độ học vấn ở người trưởng thành tại Mỹ, có khoảng 90 triệu người trưởng thành (chiếm khoảng 40% tổng số người thuộc nhóm này) được liệt vào nhóm thiểu năng học vấn chức năng (functionally illiterate).
Các chuyên gia định nghĩa đây là những người có trình độ giáo dục từ lớp 6 trở xuống. Cũng theo khảo sát này, hiện tại có khoảng trên 65% lực lượng lao động Mỹ không đạt kỹ năng đọc tương đương với trình độ lớp 9 ở Mỹ. Ngoài ra, Bộ Giáo dục Mỹ cũng dự báo rằng tình trạng thiểu năng học vấn trong lực lượng lao động sẽ tăng vì hằng năm có khoảng 1 triệu thanh niên bỏ học mà không có những kỹ năng cơ bản nhất và khoảng 1,3 triệu người nhập cư vào Mỹ từ các quốc gia không nói tiếng Anh.
Đối diện trước thực tế trên, các công ty Mỹ đã phải chi những khoản tiền khổng lồ để khắc phục sự thiếu hụt trầm trọng các kỹ năng cơ bản trong lực lượng lao động (đọc, viết, tính toán, nói, nghe...). Khoảng hơn một nửa số công ty trong danh sách Fortune 500 công ty nổi tiếng nhất của Mỹ cho biết hằng năm họ phải chi khoảng 300 triệu USD cho việc đào tạo bổ túc văn hóa.
Cụ thể một danh sách ngắn các ví dụ về nỗ lực của các công ty Mỹ như sau: Công ty Ford tổ chức lớp học đọc tại 25 trong tổng số nhà máy của hãng; Domino’s Pizza sử dụng chương trình video để dạy công nhân toán và đọc; Polariod, United Technologies và AT&T xây dựng chương trình đào tạo bổ túc về toán, tiếng Anh và phát âm; Standard Oil tại Indiana cho biết công ty này phải thuê một giáo viên đến dạy ngữ pháp và phát âm cho các thư ký; và RJR Nabisco cung cấp cho công nhân tại Nhà máy Phanters Peanuts của công ty đặt tại Suffolk, Virginia khóa học bậc tiểu học kéo dài 4 giờ hằng tuần trong thời gian làm việc hành chính.
Từ câu chuyện này có nhiều điều để ngẫm nghĩ cho hệ thống giáo dục ở Việt Nam. Một hệ thống mà gần đây búa rìa dư luận phần nhiều tập trung vào chỉ trích, phê phán thay vì đóng góp để cải thiện nó. Thứ nhất, khi nhìn nhận về sự khác nhau của các nền giáo dục cũng nên nhìn nhận ở nhiều phương diện. Thứ hai, kỳ vọng của xã hội về một nền giáo dục tốt hơn là đáng trân trọng, mức kỳ vọng càng cao càng tốt nhưng phải thực tế. Ta muốn đạt gì, ta cần gì để đạt cái ta muốn, khoảng cách giữa cái ta muốn và cái ta có để đạt nó có khả thi không?
Nếu không thì giảm mục tiêu xuống, nếu có thì liệu ta có thể tăng mục tiêu lên không? Thứ ba, khi so sánh “đầu ra” của các hệ thống (nhiều người hay dùng cụm từ “chất lượng giáo dục”, nhưng trên thực tế khi nói đến khái niệm này dường như không có một sự thống nhất chung (!?) hoặc giả đầy mơ hồ) nên dựa trên cơ sở tương đương nguồn lực đầu vào. Nếu không, chúng ta sẽ có được nhiều kết luận nhưng không có nhiều ý nghĩa. Thứ tư, doanh nghiệp cần hình thành nếp chủ động trong việc tự đào tạo nhân lực của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu của từng doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể hỗ trợ sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam bằng cách thiết lập các mối quan hệ lâu dài, chặt chẽ với trường học, viện nghiên cứu để đặt hàng đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Ngược lại, phía các trường đại học cũng cần có một sự chủ động tương tự. Thực tế cho thấy các mối quan hệ hiện tại giữa doanh nghiệp và trường học, viện nghiên cứu ở Việt Nam rất sơ sài, có tính ngắn hạn và tự phát.
Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể “tham gia quá trình đào tạo” bằng cách chú trọng hơn vai trò quan trọng của việc nhận sinh viên đến thực tập. Nếu được tổ chức nghiêm túc, đây sẽ là mối quan hệ hai bên cùng có lợi. Doanh nghiệp có cơ hội sử dụng sinh viên như lao động bán thời gian, có thời gian và điều kiện thăm dò khả năng tuyển dụng họ lâu dài sau tốt nghiệp. Bên cạnh đó, sinh viên còn có thể giúp doanh nghiệp mở ra những cơ hội tuyển dụng mới thông qua mối quan hệ của họ với các sinh viên khác, đồng thời lan truyền tiếng thơm về doanh nghiệp như một doanh nghiệp có trách nhiệm cộng đồng và một nơi làm việc triển vọng.
Ngày nay xu hướng chung trong kinh doanh trên thế giới là đặt trách nhiệm công dân của doanh nghiệp lên trên mục tiêu tạo ra lợi nhuận. Theo đó, các doanh nghiệp xây dựng hình ảnh của mình như một công dân tốt và mong muốn tìm được sự chấp nhận của cộng đồng để tồn tại và phát triển. Nên chăng các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần gánh vác những sứ mệnh mới cho sự phát triển bền vững và lâu dài không chỉ cho chính bản thân doanh nghiệp mà còn cho nền giáo dục và kinh tế nước nhà?
LÊ CHIẾN THẮNG - TRƯƠNG TÔN HIỀN ĐỨC
(khoa quản lý công nghiệp ĐH Bách khoa TP.HCM