|
Post by Oshin on May 22, 2004 11:46:21 GMT -5
Chỉ vài năm tới, thế giới sẽ cạn nguồn dầu lửa? Mọi người đều đồng ý rằng nguồn dầu lửa của Trái đất không phải là vô hạn, nhưng liệu chúng ta đã sắp khai thác đến tận cùng? Một số chuyên gia dự đoán: Chỉ trong mấy năm nữa thôi, tình trạng thiếu dầu của chúng ta sẽ không thể nào cứu vãn được nữa. Các dàn khoan trên thế giới đang hoạt động hết công suất. Nhưng ít nhất còn có một nhà phân tích không đồng ý với nhận định này. Leonardo Maugeri, nhà kinh tế học kiêm nhà phân tích dầu lửa thuộc Công ty Dầu Khí Eni S.p.A. của Italia, cho rằng các công nghệ mới và các mỏ dự trữ chưa được đánh giá đúng mức sẽ giúp chúng ta duy trì nguồn dầu trong một thời gian khá dài nữa. Maugeri cho biết: "Thực tế là nỗi lo cạn dầu đã xuất hiện rất lâu trước khi dầu lửa trở thành một nguồn năng lượng quan trọng. Vào những năm 1860, ngay sau khi bắt đầu thời kỳ hiện đại của dầu lửa, những thành công và thất bại của doanh nghiệp đã đánh dấu sự xuất hiện của một kỷ nguyên mới. Mỗi thành công lại làm dấy lên một nỗi lo sợ về việc hết dầu, khiến cho mọi người vung tiền vào sản xuất và lọc dầu. Tình trạng này làm cho John D. Rockefeller phải quyết định chống lại hiện tượng cạnh tranh "chết người" trên thị trường bằng cách "xóa sổ" hết các đối thủ." Năm 1919, George Otis Smith, người phụ trách chương trình Khảo sát Địa lý Mỹ (USGS), thậm chí còn dự báo rằng nước Mỹ sẽ hết sạch dầu lửa trong vòng chín năm nữa. Thực tế đã chứng minh dự báo của Smith không hề chính xác, khi thế giới được chứng kiến sự phát triển vượt bậc của các công ty dầu lửa. Tuy nhiên, không phải dự báo nào cũng sai! Trái đất sắp hết dầu lửa?Một trong những mô hình dự báo về trữ lượng dầu lửa thông dụng nhất hiện nay được xây dựng dựa trên công trình của nhà vật lý địa chất người Mỹ M. King Hubbert. Năm 1956, Hubbert tính toán rằng sản lượng dầu của Mỹ sẽ đạt đến đỉnh cao nhất mọi thời đại vào đầu những năm 1970. Mặc dù rất nhiều người không tán thành phương pháp này, kết quả cuối cùng đã chứng minh rằng Hubbert đúng. Giờ đây, các nhà phân tích lại sử dụng công thức của Hubbert để tính toán xem đến khi nào lượng dầu sản xuất ra sẽ đạt đến đỉnh cao nhất. Họ kết luận rằng thời gian đấy chỉ còn cách hiện nay chỉ... vài năm nữa thôi. Nếu điều này thực sự xảy ra, nguồn cung sẽ không thể nào đáp ứng nổi nhu cầu ngày càng tăng. Ken Deffeyes, giáo sư danh dự ĐH Princeton (Mỹ ), tác giả của cuốn Đỉnh cao Hubbert: Thế giới sắp hết dầu, đã có thời làm việc cùng với Hubbert tại Phòng Nghiên cứu của Công ty Shell tại Houston, Texas. Ông nói: "Tôi cho rằng đồ thị đường cong của việc sản xuất dầu sẽ đạt tới đỉnh cao vào Lễ Tạ ơn năm 2005, và thời gian chênh lệch sẽ khoảng vài tuần. Sản lượng dầu đã tiệm cận điểm này vài năm nay rồi - đồ thị của nó đã nằm ngang trên đỉnh hình chuông của Hubbert"! Các tác động của thị trường dầu - chẳng hạn như khan hiếm dầu, giá cao - sẽ bắt đầu xuất hiện khi sản lượng dầu vượt qua đỉnh, trước khi các giếng dầu thực sự khô kiệt. Do vậy, Deffeyes so sợ rằng một cuộc khủng hoảng lớn về nguồn cung dầu lửa sẽ xảy ra trước khi chúng ta tìm được nguồn năng lượng thay thế hoặc có phương pháp bảo tồn. Ông mỉa mai: "Một cuộc khủng hoảng như thế sẽ giúp chúng ta đạt được mục tiêu của Hiệp ước khí hậu Kyoto xấu số: chúng ta sẽ đốt ít dầu đi, chỉ vì lượng dầu dưới lòng đất còn quá ít. Trên thực tế, những hỗn loạn hiện nay trong giá cả năng lượng có thể là biểu hiện của một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều."
|
|
|
Post by Oshin on May 22, 2004 11:47:24 GMT -5
Đánh giá dầu: Một ngành khoa học... không chính xácTuy nhiên, Maugeri lại cho rằng các dự báo nói trên đều bắt nguồn từ những giả định... giả hoặc không rõ ràng. Ông nói: "Không ai biết được đích xác lượng dầu thực tế có trong các giếng. Để biết được điều này, chúng ta phải mở thêm các giếng mới và áp dụng các công nghệ hiện đại. Trong vòng hai thập kỷ qua, chi phí để tìm kiếm và sản xuất dầu đã giảm từ 21 USD/thùng xuống còn 6 USD/thùng. Hubbert thành công trong việc dự báo tình trạng dầu ở Mỹ chỉ vì ông ta biết được sự phát triển tột bậc của khu vực này, nơi bị thăm dò và khai thác "căng" nhất trên thế giới. Nhưng khi dự báo về trữ lượng gas của Mỹ thì ông đã sai, vì thăm dò và sản xuất gas là ngành non trẻ hơn nhiều." Dầu hiện diện trong các tầng đá xốp dưới lòng đất, vì thế rất khó đánh giá chính xác số lượng của chúng. Hiểu biết của chúng ta về các mỏ dầu hiện nay liên tục thay đổi. Đôi khi, trữ lượng dầu của một mỏ lại tăng vọt lên kinh khủng khi được khoan và đưa vào sử dụng. Theo Maugeri, có được quá trình "tăng trưởng dự trữ" này là nhờ các yếu tố như công nghệ, biến đổi giá cả, chính trị và kiến thức về các mỏ hiện có. Điển hình là mỏ Kern River, phát hiện thấy tại California năm 1899. Năm 1942, mỏ Kern River được đánh giá là chứa khoảng 54 triệu thùng dầu. Tuy nhiên, qua 44 năm sau, sản lượng đã ở vào khoảng 736 triệu thùng, và theo đánh giá năm 1986 thì mỏ này còn chứa một trữ lượng khoảng 970 triệu thùng nữa. Các mỏ khác cũng vậy. Tất nhiên là lượng dầu bên trong không hề thay đổi, chỉ có công nghệ tìm kiếm và khai thác là thay đổi mà thôi. Khả năng phát hiện ra các mỏ dầu mới cũng là một đề tài gây tranh cãi. Trong khi Deffeyes và nhiều người khác tin rằng không thể tìm thêm được nhiều mỏ mới nữa, một số người lại đặt niềm tin vào biển Đông và những nơi như Kazakhstan. Trong những năm gần đây, số lượng mỏ dầu phát hiện được chỉ đáp ứng được khoảng 1/4 lượng dầu sử dụng hàng năm của thế giới. Nhưng Maugeri cho biết, điều này là do các quốc gia và công ty dầu lửa lớn chưa dành nhiều ưu tiên cho việc phát hiện mỏ mới vì sợ gây nên thặng dư về giá. Maugeri viết: "Trên thực tế, các nước như Ả-rập Xê-út hoặc Iraq (hai nước này chiếm khoảng 35% trữ lượng dầu hiện nay của toàn thế giới) chỉ sản xuất xăng dầu từ một ít mỏ, mặc dù mỗi nước đã phát hiện ra trên 50 mỏ mới nhưng chưa hề khai thác." Vậy đâu là sự thực? Ngành công nghiệp ô-tô phát triển khiến cho Mỹ trở thành nước tiêu thụ dầu lửa nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên, dữ liệu về các mỏ mới ở Trung Đông còn tương đối sơ sài. Một số nhà phân tích sợ rằng các nước OPEC đã phóng đại trữ lượng dầu lửa của mình lên quá cao so với thực tế. Nếu đúng như vậy, chắc chắn họ sẽ gây nên những hậu quả khủng khiếp cho nguồn cung dầu lửa toàn cầu, và ngày sản lượng dầu thế giới đạt đến đỉnh cao chắc chắn sẽ đến sớm hơn so với dự tính. Các tổ chức như Saudi Aramco, công ty dầu lửa quốc gia của Ả-rập Xê-út, bảo vệ dữ liệu của mình rất chặt chẽ, khiến cho các nhà kinh tế "không biết đường nào mà lần". Fatih Birol, nhà kinh tế học hàng đầu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) tại Paris, muốn có thêm nhiều thông tin cụ thể hơn về trữ lượng dầu. Birol cho biết: "Dữ liệu này rất mơ hồ. Chúng ta không biết chính xác trữ lượng của các mỏ này là bao nhiêu cả. Lý do chính không phải là công nghệ, mà là các vấn đề về chính sách và quản lý. Dầu lửa đóng vai trò có tính chiến lược đối với sự giàu có của con người. Tôi nghĩ: Điều quan trọng là chúng ta phải tạo áp lực lên các nhà sản xuất dầu lửa và các công ty lớn để họ trở nên minh bạch hơn đối với trữ lượng của mỏ." Dầu lửa luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của giới kinh tế, và Birol cho rằng vấn đề lớn nhất bắt nguồn từ các khoản đầu tư chứ không phải là nguồn cung. Ông nói: "Chúng ta có đủ trữ lượng dầu, nhưng có hai vấn đề lớn vẫn còn tồn tại. Thứ nhất là sự minh bạch của thông tin về trữ lượng dầu, và vấn đề thứ hai quan trọng hơn là vận động đầu tư kịp thời để tăng sản lượng dầu trên phạm vi toàn thế giới. Chúng ta không thể thu lợi từ dầu dưới lòng đất được, nếu như dầu không đến được nhà máy năng lượng hoặc trạm bơm. Điều quan trọng là tiền đầu tư. Nếu các công ty dầu lửa nhận được thêm tiền từ nhà đầu tư, họ sẽ sẵn sàng thử nghiệm các công nghệ khai thác mới để tìm kiếm thêm mỏ dầu. Ngành dầu lửa phải cạnh tranh với các ngành khác để giành tiền đầu tư, nhưng hiệu suất của ngành dầu lửa trong năm vừa qua không được thuyết phục lắm. Tiền sẽ đến với nơi nào có thể sinh lãi. Vậy liệu tiền đầu tư có được rót kịp thời để mang dầu lửa đến cho người tiêu dùng?". Khánh Hà (Theo National Geographic)
|
|
|
Post by Oshin on May 22, 2004 11:49:13 GMT -5
Dầu hỏa trong quá khứ và tương lai 90% hoạt động vận chuyển trên hành tinh này sẽ dừng lại nếu không có dầu hỏa. Những ngành sản xuất như thực phẩm, vải vóc, đồ dùng nội thất, hóa chất, dược phẩm... cũng sẽ "chịu chết" nếu thiếu dầu. Thứ chất lỏng có mùi chẳng dễ chịu tí nào này có thể quyết định sự phồn thịnh của một quốc gia, làm thay các mối quan hệ quốc tế và góp phần định hình lịch sử nhân loại.
Dầu - khởi nguồn của chiến tranh
Không thể kể hết có bao nhiêu cuộc chiến tranh, xung đột gây bao chết chóc đau thương đã xảy ra trên thế giới này liên quan đến dầu mỏ. Một trong những lý do khiến Nhật tấn công Trân Châu Cảng là để trả đũa việc Mỹ giới hạn lượng dầu xuất khẩu sang Nhật hồi năm 1941. Do thiếu dầu, Nhật quyết định xâm chiếm những hòn đảo giàu dầu mỏ của Indonesia, lúc bấy giờ đang do Hà Lan chiếm đóng. Ngày nay, Nhật vẫn phụ thuộc vào lượng dầu nhập khẩu nhưng chuyển nguồn cung cấp sang các quốc gia vùng Vịnh, nơi đã và đang được phương Tây "quan tâm" triệt để cũng vì dầu mỏ. Dầu mỏ chính là một trong những yếu tố dẫn đến cuộc đảo chính do Mỹ và Anh tổ chức để lật đổ Thủ tướng dân cử của Iran, ông Mossadegh vào năm 1953. "Tội" nặng nhất của Mossadegh là quốc hữu hóa một công ty dầu lửa của Anh ở Iran. Còn theo hồ sơ tình báo của Chính phủ Anh vừa được giải mã, Mỹ từng có kế hoạch đánh chiếm các giếng dầu ở Ả Rập Xê Út, Kuwait và Abu Dhabi (thuộc Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất) hồi năm 1973 để đối phó với một lệnh cấm vận dầu mà Ả Rập Xê Út (hiện là nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới) áp đặt với phương Tây lúc bấy giờ.
Sang đến cuộc chiến vùng Vịnh đầu thập niên 90, động cơ chính để Mỹ can thiệp vào Kuwait là nhằm ngăn chặn Tổng thống Iraq Saddam Hussein mở rộng quyền lực dầu mỏ. Còn trong cuộc chiến Iraq hiện nay, Mỹ có nhiều lý do để thanh minh cho hành động của mình nhưng có một điều mà dư luận quốc tế đồng ý: dầu mỏ là một trong những động cơ không thể không nóái tới. Quay ngược lại lịch sử, Baku (thủ đô Azerbaijan và từng là một trong những nơi xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất) năm lần bảy lượt bị nước ngoài chiếm đóng. Trong thế chiến thứ 2, Hitler từng tuyên bố rằng người Đức sẽ thua nếu không kiểm soát được các mỏ dầu ở đây.
Thế giới còn bao nhiêu dầu?
Cả thế giới hiện đang sản xuất khoảng 75 triệu thùng dầu/ngày, trong đó Trung Đông - với trữ lượng lớn nhất - vẫn là khu vực khai thác mạnh nhất. Canada gần đây vừa công bố phát hiện một mỏ dầu ở vùng Ablerta có trữ lượng lên đến 175 tỉ thùng dầu, khiến nước này trở thành nơi có tiềm năng sản xuất dầu mỏ lớn thứ 2 trên thế giới. Điều khác biệt nằm ở chỗ trong khi trữ lượng dầu mỏ của khu vực Trung Đông chủ yếu thuộc loại quy ước dễ khai thác thì chi phí để khai thác những mỏ dầu không quy ước như ở Ablerta có thể còn cao hơn giá dầu đang được bán trên thị trường hiện nay. Biển Bắc cũng là một khu vực khác giàu tiềm năng dầu mỏ không quy ước. Với sự phát triển không ngừng của khoa học, người ta hy vọng một ngày nào đó có thể dễ tận dụng được tất cả những nguồn dầu không quy ước với giá không quá cao so với hiện nay.
Thế giới này còn bao nhiêu dầu hỏa? Đó là câu hỏi chẳng ai có thể trả lời một cách chính xác. Cuộc khảo sát toàn cầu của các nhà địa chất Mỹ hồi năm 2000 ước đoán chúng ta còn khoảng 3.000 tỉ thùng dầu quy ước. Một câu hỏi khác, hóc búa hơn gấp bội là chúng ta sẽ ra sao một khi không còn dầu nữa? Đó có thể là một đại họa. Thật khó có thể tìm được một nguồn năng lượng nào khác đa năng như dầu hỏa. Tuy nhiên, một số người cho rằng viễn cảnh trên sẽ là một... tin vui, ít nhất là đối với môi trường. Những người lạc quan cho rằng chúng ta sẽ mau chóng tìm ra nhiều nguồn năng lượng sạch khác nhau, rẻ hơn dầu mỏ rất nhiều nên cho dù thế giới không còn dầu nữa cũng chẳng có gì đáng lo. Chẳng hiểu viễn cảnh sáng sủa vừa nêu có trở thành sự thật hay không nhưng có một điều chắc chắn: một khi dầu mỏ mất đi sức mạnh của
Kiều Oanh
|
|
|
Post by Oshin on Nov 12, 2004 14:20:16 GMT -5
Năng lượng bẩn và cái giá phải trả tại Trung Quốc
Sự tăng trưởng kinh tế nhanh của Trung Quốc kéo theo nhu cầu năng lượng tăng vọt. Tuy nhiên, phần lớn năng lượng bắt nguồn từ than nên người dân đang phải trả giá cho dạng năng lượng bẩn này. Có khoảng 40.000 người sống trong bán kính 1km từ nhà máy than cốc này tại Đường Sơn.
Tại thành phố công nghiệp Đường Sơn, cách Bắc Kinh 150km về phía đông, Liu Hongkui và các công nhân về hưu đang sống trong một khu nhà đằng sau nhà máy sản xuất than cốc. Nhà máy thải khói độc cả ngày lẫn đêm. Những người này tin rằng nó đang đầu độc họ, gây các chứng rối loạn hô hấp, bệnh tim và ung thư. Sau khi kể tên bốn cư dân chết vì ung thư trong vòng một tháng, ông Liu nói: ''Phần lớn mọi người trong khu vực này chết vì ung thư. Nhiều người trẻ tuổi mắc bệnh bạch cầu. Người già thì bị ung thư phổi hoặc ruột. Sản phẩm phụ từ nhà máy bao gồm benzene và phenol. Những chất này đều độc hại đối với con người''.
Nói xong, ông Liu vén ống quần công nhân màu xanh, để lộ đôi chân thâm tím và nhiều mụn ngứa mà ông phải chịu đựng trong nhiều năm. Bác sĩ nói rằng căn bệnh ngoài da này không thể chữa được. Khoảng 30 người khác cũng mắc bệnh da tương tự. Ông cho biết: ''Vào mùa hè, nếu bạn mặc áo cộc tay, tay bạn sẽ bị phát ban như thế này''. Những cư dân trên bắt đầu làm đơn kiến nghị chính quyền cách đây 7 năm. Kể từ đó, Cục bảo vệ môi trưởng tỉnh đã thừa nhận nhà máy này gây ô nhiễm nghiêm trọng. Mặc dù phải trả tiền phạt song nhà máy than cốc vẫn tiếp tục nhả khói ô nhiễm, buộc người dân đâm đơn kiện.
Tuy nhiên, không phải chỉ có một nhà máy than cốc như vậy. Nhà máy than cốc đang đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình hiện đại hoá khắp Trung Quốc - một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới với tổng sản phẩm quốc nội tăng hơn 9% năm ngoái. Nhà máy than cốc là một mắt xích trong chuỗi cung cấp năng lượng, luyện than thành cốc. Sau đó, cốc được sử dụng làm nguồn năng lượng nhiệt quan trọng trong quy trình sản xuất thép. Đến lượt nó, thép là vật liệu cần thiết cho việc xây dựng đường, nhà ở, ôtô và các thiết bị dân dụng phục vụ 1,3 tỷ người Trung Quốc.
Sự phát triển nhanh của Trung Quốc có nghĩa là than cốc đang trở thành một loại hàng hoá có giá trị hơn. Dự đoán, giá than cốc sẽ tăng 60% trong năm tài khoá tới. Như vậy, có một thị trường lớn đối với sản phẩm này cũng như động lực tài chính rõ ràng để các nhà máy sản xuất than cốc tiếp tục hoạt động. Chuyên gia ô nhiễm Liu Xiang, luật sư của nhóm cư dân tại Đường Sơn, cho biết: ''Thường thì các doanh nghiệp gây ô nhiễm thuộc ngành kinh doanh chính và là nguồn thu thuế quan trọng. Do vậy, các chính quyền địa phương không muốn đóng cửa nhà máy. Thỉnh thoảng, họ gây áp lực rất lớn đối với luật sư chúng tôi''. Nhà máy điện tại Đường Sơn.
Đây là tình thế tiến thoái lưỡng nan, mầm mống của cuộc khủng hoảng năng lượng tại Trung Quốc. Trung Quốc không có đủ điện phục vụ nền kinh tế. Nước này thiếu 30 triệu kilowatt điện trong năm nay và nhiều khu vực đối mặt với nguy cơ bị cúp điện. Cơ quan năng lượng quốc tế dự đoán Trung Quốc sẽ chiếm hơn 1/5 tổng nhu cầu điện gia tăng trên thế giới trong 25 năm tới và hơn 1/4 tổng lượng khí thải nhà kính gia tăng. Khoảng 2/3 nguồn điện của Trung Quốc có nguồn gốc từ than và các sản phẩm than - dạng năng lượng rẻ và bẩn nhất. 400.000 người Trung Quốc tử vong mỗi năm do bệnh liên quan tới ô nhiễm không khí và theo Ngân hàng thế giới 16 trong tổng số 20 thành phố ô nhiễm nhất thế giới nằm ở Trung Quốc.
Klaus Toepfer, Giám đốc Chương trình môi trường LHQ cho biết loại bỏ các dạng năng lượng gây ô nhiễm là thách thức toàn cầu. Ông nói: ''Sử dụng nhiên liệu hoá thạch là không thể tránh khỏi. 80% nguồn năng lượng bắt nguồn từ nhiên liệu hoá thạch. Điều chúng ta phải làm và có thể làm là tăng hiệu suất sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Chúng ta cũng cần phát triển công nghệ than sạch nhằm chống các chất ô nhiễm như lưu huỳnh đioxide và thuỷ ngân, giảm lượng khí thải CO2''.
Theo Karen Polenske thuộc Viện công nghệ Massachusetts, người đang nghiên cứu các nhà máy than cốc tại các vùng nông thôn của Trung Quốc, loại nhà máy than cốc ô nhiễm nhất tại nước này đã bị đóng cửa gần hết. Tuy nhiên, các nhà máy còn lại đang sản xuất nhiều than cốc hơn so với trong quá khứ. Tình hình có thể thay đổi vì Bộ Thương mại tuyên bố sẽ giảm sản lượng than cốc 20% trong năm tới nhằm giảm ô nhiễm. Nhiều người trong số các cư dân ở Đường Sơn thì vẫn hy vọng vào tương lai mặc dù vấn đề ô nhiễm thường được giải quyết chậm chạp.
Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Robot on Nov 18, 2004 12:39:20 GMT -5
Thứ Năm, 18/11/2004, 20:43 (GMT+7)
Xuất khẩu dầu thô đạt mức kỷ lục
Theo Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, lượng dầu thô xuất khẩu trong 10 tháng qua đã đạt hơn 16,8 triệu tấn với doanh thu đạt mức kỷ lục 4,58 tỷ USD, tăng gần 50% so với cùng kỳ năm ngoái.
Như vậy, dầu thô tiếp tục là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực hiện nay.
Tính đến hết tháng 10, toàn ngành dầu khí đã khai thác được gần 16,9 triệu tấn dầu thô và 5,22 tỷ m3 khí, đạt hơn 94% kế hoạch năm.
Cùng với dầu thô, các mặt hàng có kim ngạch xuất kẩu lớn khác là dệt may, thuỷ sản, giày dép, đồ gỗ, cà phê, máy tính và linh kiện cũng đạt mức tăng trưởng khá. Đến nay đã có 17 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch từ 100 triệu USD trở lên.
Theo TTXVN
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 14:45:38 GMT -5
Nguồn gốc, sự hình thành, dịch chuyển và tích tụ của hydrocarbon, là một vấn đề quá lớn nếu so sánh với quy mô của một topic trên diễn đàn này. QFR không “có nhiều kiến thức về hydrocarbon ” nhưng cũng muốn được trao đổi cùng với các bạn. Hy vọng chúng ta cứ tiếp tục mở rộng và đi sâu vào từng vấn đề có liên quan nhé.
Sự phát triển của ngành công nghiệp dầu mỏ, cùng với những món lợi kếch xù kiếm được từ khai thác, xuất khẩu, chế biến dầu thô và kinh doanh các sản phẩm dầu mỏ đã làm thay đổi diện mạo của các quốc gia, cũng như các cá nhân có độc quyền thao túng trong thị trường dầu khí. Chắc chẳn ai cũng đã nghe đến tên tuổi của Rockenfeller (Mỹ ), Sultan Hashanal Bokhiac (Brunei), Saddam Hussein (Iraq) và các ông hoàng Ả rập giàu có, nghe đến các meeting, conference và seminar của ngành công nghiệp dầu mỏ trong các khách sạn 5* sang trọng. Ngay cả ở Việt Nam chúng ta, một thời từng đã có tiêu chuẩn chọn người yêu rất nực cười của một số bạn trẻ (nhưng không phải là không có những cơ sở đúng đắn) ở các thành phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu: nhà mặt phố, bố dầu khí. Vài dòng dông dài như vậy để thấy rằng vị thế của ngành dầu khí rất quan trọng trong mỗi quốc gia có nó. Những phúc lợi xã hội và kinh phí dành cho việc nghiên cứu khoa học là rất lớn và có phần được ưu đãi nhiều hơn so với cách ngành khoa học địa chất khác.
Những lợi nhuận khổng lồ cùng với kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học dồi dào cộng với những ưu đãi tương đối tốt đối với người nghiên cứu trong ngành dầu khí đã là những động lực rất lớn thúc đẩy sự phát triển của các khoa học trong ngành này. Nguồn gốc, quá trình hình thành, dịch chuyển và tích tụ của hydrocacbon (HC) đã được nghiên cứu, làm sáng tỏ và chi tiết hóa dần dần theo thời gian.
Hiện nay, tất cả các nguồn gốc về dầu khí đều vẫn tồn tại dưới dạng giả thuyết vì trong thực tế thành phần vật chất của dầu khí vô cùng phức tạp. Con số vài trăm hợp chất HC, các dãy đồng phân mạch nhánh, mạch vòng, 5 – 10 đồng phân của một vài HC đã biết, các gốc thơm, gốc thơm-nitơ, thơm-lưu huỳnh, etc., chưa thể đại diện cho toàn bộ thành phần hóa học của dầu mỏ mà trong đó vẫn còn những hợp chất khác chưa được phát hiện. Cho đến nay vẫn chưa có một cơ chế tổng hợp nhân tạo nào có thể tạo ra được một hợp chất giống y hệt như dầu thô. Vì lẽ đó, các giả thuyết về nguồn gốc HC vẫn tồn tại song song với nhau. Tuy vậy, trong số đó đã có MỘT giả thuyết được đa số những nhà địa hóa dầu khí, địa chất dầu khí, nhà nghiên cứu về dầu khí chấp nhận trên cơ sở là các bằng chứng khoa học về phân tích thành phần hóa học, thành phần đồng phân các vật chất HC, đồng vị cacbon. Các bằng chứng này thường được người ta gọi là các dấu hiệu/chỉ thị sinh học (biomarker). Trước khi chúng ta đi cụ thể hơn vào giả thuyết chính này, thiết nghĩ cũng rất cần thiết để liệt kê lại vài nét chính liên quan đến các giả thuyết khác về nguồn gốc HC.
QuaFeRo
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 14:46:45 GMT -5
Như vậy, ta có thể thấy rằng giả thuyết nguồn gốc hữu cơ của dầu mỏ đã được đa số các nhà khoa học công nhận do có nhiều tính ưu việt hơn so với các giả thuyết khác: nguồn gốc vô cơ, nguồn gốc vũ trụ, hoặc xa xưa hơn là những quan điểm sơ khai về nguồn gốc hữu cơ (động vật, thực vật, động vật + thực vật). Thành phần, kiểu loại và hàm lượng vật chất hữu cơ ban đầu đã góp một phần quyết định đến sự tồn tại của dầu khí trong tự nhiên.
Các vật chất hữu cơ ban đầu này có nguồn gốc từ xác, cặn bã động thực vật trong các môi trường ngập nước (đầm, hồ, biển), lắng đọng trong điều kiện khử (thiếu oxy), được bảo tồn trong khoảng thời gian dài. Dưới tác dụng của các quá trình khử sunphat, khử cacbonic của các vi sinh vật kỵ khí, các xác, cặn bã động thực vật được chuyển thành các loại bùn thối (sapropen). Trải qua tiếp một thời gian dài nữa, ở những điều kiện thích hợp (điều kiện khử, nhiệt độ và áp suất thuận lợi) các bùn thối sapropen đã chuyển hóa thành vật chất kerogen, vật chất có khả năng biến đổi thành dầu khí sau này. Cần hết sức lưu ý khái niệm về kerogen: thành phần vật chất; kiểu loại; cách xác định và phân biệt các loại khác nhau cũng như các giai đoạn biến đổi vật chất này.
Thành phần vật chất kerogen có thể được phân chia thành 3 hoặc 4 (kiểu/loại) dạng khác nhau. Những loại kerogen có khả năng biến đổi và sản sinh ra dầu khí có nhiều cấu trúc hóa học, thành phần vật chất khác với loại kerogen có khả năng biến đổi và sinh ra than đá, bản thân chúng cũng khác nhau và phản ánh môi trường lắng đọng và biến đổi khác nhau của các loại vật chất hữu cơ.
- Kerogen loại 1: có tiềm năng sinh dầu khí cao nhất, chủ yếu là sinh dầu; gồm các vật chất hữu cơ vô định hình, giàu lipid (ví dụ các loại tảo…) lắng đọng môi trường khử: biển, đầm hồ nước ngọt; trong cấu trúc hóa học có chứa nhiều chuỗi -CH2- và một số nhân thơm, tỷ số nguyên tử H/C cao nhất. - Kerogen loại 2: tiềm năng sinh dầu khí kém hơn loại 1, sinh cả dầu và khí; gồm chủ yếu là các vật chất hữu cơ có nguồn gốc biển, lắng đọng trong môi trường khử, chuyển tiếp giứa biển và lục địa, có hàm lượng lưu huỳnh từ trung bình đến cao; trong cấu trúc hóa học có nhiều vòng nhân thơm và vòng naphthence hơn so với loại 1, tỷ số nguyên tử H/C thấp hơn loại 1. - Kerogen loại 3, tiềm năng sinh dầu trung bình, chủ yếu là sinh khí ở các độ sâu lớn (3000 – 4500m); có nguồn gốc từ thực vật bậc cao trên lục địa; trong cấu trúc hóa học có chứa nhiều đa thơm và các nhóm chức oxi hóa, tỷ số nguyên tử H/C thấp nhất và tỷ số O/C lớn nhất trong các loại.
Quá trình chuyển hóa vật chất kerogen thành dầu khí có thể diễn ra theo tính giai đoạn. Nếu không tính đến quá trình biến chất diễn ra sau các giai đoạn tạo sản phẩm thì quá trình chuyển hóa có thể diễn ra theo 3 giai đoạn: giai đoạn chưa trưởng thành, trưởng thành và quá trưởng thành. Giai đoạn trưởng thành chính là giai đoạn mà các vật chất kerogen biến đổi thành dầu khí. Tương ứng với mỗi loại kerogen, sẽ có loại sản phẩm dầu khí chính được sinh ra. Khoảng nhiệt độ mà kerogen ở trong pha tạo sản phẩm chính khoảng chừng 70 – 160 oC.
QuaFeRo
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 14:48:05 GMT -5
vngg.topvn.com/news/forum.php?msg=512&forum=17&page=2&fpage=1To Oshin: 1. Thời gian thành tạo dầu khí tùy thuộc vào lịch sử chôn vùi, gradient địa nhiệt và thành phần vật chất (chính xác là thành phần vật chất của kerogen)và tuổi của đá sinh. Ví dụ ở các bể trầm tích Kainozoi của chúng ta, dầu khí mới chỉ được thành tạo cách ngày nay trong khoảng 15 – 25 triệu năm mà thôi. 2. Người ta thường thấy có mặt cả dầu và khí trong một mỏ thì chính xác hơn, mỏ dầu Bạch Hổ của chúng ta vẫn cho khai thác khí đồng hành chẳng hạn. 3. Khi so sánh tỷ trọng hoặc mật độ để đề cấp đến lực nổi trong dịch chuyển thứ sinh của dầu khí người ta thường so sánh với tỷ trọng/mật độ của nước. 4. Trong địa chất, địa hóa và ngành dầu khí nói chung, người ta không sử dụng khái niệm vũng dầu. Dầu khí dịch chuyển và tích tụ lại ở các bẫy chứa – đó là các thể địa chất được khép kín theo phương ngang và thẳng đứng, hoặc các thể địa chất có các yếu tố khép kín rất đặc biệt là kết quả của quá trình biến chất dầu (asphalt hóa chẳng hạn) hay là có điều kiện thủy văn đặc biệt. Nếu một hang động cac-tơ tầm cớ như động Phong Nha (Quảng Bình) mà bị chìm vài ngàn m xuống dưới sâu, chắn chắn nó sẽ bị sập ngay lập tức do tải trọng của mấy ngàn m đất đá bên trên. 5. Thực tế, người ta thấy có mối quan hệ giữa thành tạo than và thành tạo dầu, đặc biệt là các mỏ than đã có quá trình lắng đọng và thành tạo ở khu vực chuyển tiếp giữa biển và đất liền. Ngoài ra, trong số các phương pháp đánh giá mức độ trưởng thành của vật chất kerogen, có một phương pháp (đóng vai trò chủ đạo) được phát triển từ nghiên cứu sự trưởng thành của các vật chất than. Đó chính là phương pháp nghiên cứu độ trưởng thành của các cấu tử vitrinite (phương pháp phản xạ vitrinite - Ro). 6. Dầu thường tập trung ở các nước Hồi giáo: khu vực Tây Nam Á, Châu Phi; Asean group thì có Malaysia, Indonesia, Brunei. Chắc là do Thánh Alah phù hộ cho họ thôi…là lá la, blah blah a a. 7. Than anthracite được thành tạo khi quá trình tạo than tham gia vào pha biến chất mạnh: áp suất, nhiệt độ cao ở những độ sâu lớn hoặc trong những đới uốn nếp mạnh. Chúc vui. QuaFeRowww.gasresources.net/index.htm
|
|
|
Post by Robot on Dec 2, 2004 3:51:55 GMT -5
Vì sao giá dầu giảm mạnh
TTO - Ngày 1-12, giá dầu trên thị trường giao dịch New York đã sụt giảm hơn 3,5 USD/thùng sau khi cơ quan năng lượng Mỹ (DoE) công bố lượng dầu dự trữ tăng cao và thời tiết êm dịu so với dự kiến.
Trên thị trường giao dịch New York, giá dầu thô nhẹ giao tháng 1-2005 chỉ còn 45,49 USD/thùng, giảm 3,64 USD và là mức thấp nhất kể từ ngày 16-9. Giá dầu thô Biển Bbắc tại thị trường London (Anh) cũng giảm tương tự với 42,31 USD/thùng, giảm 3,20 USD.
Theo giới phân tích, nguyên nhân khiến giá dầu giảm mạnh do lượng dầu tinh luyện dự trữ của Mỹ tăng đáng kể và dự báo thời tiết êm dịu hơn so với bình thường trong vòng hai tuần tới tại khu vực đông bắc Mỹ, nơi mùa đông tương đối khắc nghiệt và mức tiêu thụ dầu để sưởi rất cao. Theo nhận định của nhà phân tích Mỹ Phil Flynn thuộc công ty Alaron Trading, mối lo ngại thiếu dầu trong mùa đông tới đã giảm mạnh.
Theo báo cáo của DoE, lượng dầu thô dự trữ đã tăng 900.000 thùng và đạt 293,3 triệu thùng trong tuần qua, là tuần thứ 10 liên tiếp có lượng dầu dự trữ tăng. Tuy nhiên, lượng dầu gia dụng dự trữ còn thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Tình hình này khiến nhà phân tích Jamal Qureshi, thuộc PFC Energy lo ngại nếu mùa đông trở nên lạnh hơn mà lượng dầu gia dụng còn rất thấp thì nguy cơ thiếu hụt chất đốt vẫn còn đó. Ông Qureshi cho rằng trong lúc này giá dầu sẽ ổn định quanh mức giá 45 USD/thùng.
Trong khi đó, cơ quan Năng lượng Mỹ nhận định giá dầu còn tiếp tục tiến triễn từ 45 - 50 USD/thùng trong mùa đông này, đặt biệt trong lúc khả năn sản xuất thêm của nguồn cung ứng dầu trên thế giới còn ở mức "tương đối thấp" (thêm một triệu thùng/ngày)
NG.DAO (Theo AFP)
|
|