Post by Robot on Feb 5, 2005 15:08:49 GMT -5
Nhân ngày Tết nói chuyện Truyện Kiều
Minh họa: Lê Lam - Trích từ bản Truyện Kiều - NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp - GS Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải.
Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du đã thấm vào máu thịt dân gian đến độ cứ vào dịp Tết, người ta lại chơi trò bói Kiều, nghĩa là dùng một cuốn Kiều thường là bằng giấy bổi, thắp hương khấn nguyện một câu nào đó ứng theo ngón tay rồi lý giải, để đoán biết vận mệnh trong năm mới.
Không một cuốn sách nào có thể sánh với Kiều về tính dân gian, vì cũng chưa có cuốn tiểu thuyết hiện đại nào được dùng để bói. Chẳng những thế, mọi loại hình văn nghệ đều muốn có Kiều làm nhân vật chính của mình. Hình như dân gian ta đã chấp nhận đời nàng Kiều là một đời người điển hình, xã hội của Kiều sống cũng là một xã hội điển hình; và như vậy số phận của Kiều cũng được xem là số phận của muôn đời. Do đó, người ta thường mô phỏng Truyện Kiều trong mọi thể loại, ví dụ như ta có: chèo Kiều, tuồng Kiều, thơ vịnh Kiều... Sau đây, tôi xin kể vài trường hợp về Kiều làm chuyện vui ngày Tết.
Giai thoại về Kiều
Có một người học trò nghèo, ở trọ học tại nhà một bà lão 80 tuổi. Chàng hàn sĩ có bệnh mê Kiều, suốt ngày bỏ ăn bỏ ngủ bỏ học bỏ hành quấn quýt theo người đẹp trong truyện cổ. Bà lão khuyên can mãi mà chẳng được. Bỗng một hôm, hình như bà lão gặp tuổi hồi xuân thì phải, bà chải tóc mượt mà, son phấn lòe loẹt, ỏn ẻn bảo chàng rằng: "Anh đi học mau về kẻo em đợi". Bà thường ăn nói tán tỉnh, cử chỉ đong đưa như vậy khiến chàng hàn sĩ rất bực mình. Đến mức chịu không nổi, chàng xẵng giọng: "Mệ làm chi ôốc dôộc rứa, mệ đã già rồi mà!". Bà lão như vớ được một dịp bằng vàng, trở giọng: "Rứa cậu mê Kiều thì răng? Nếu cô Kiều còn sống thì cô còn tra bằng mười tui!". Chàng học trò nghèo bèn tỉnh ngộ; từ đó bỏ hẳn tật mê Kiều.
Thơ mới về Kiều
Giới trí thức Nho học thường hay tổ chức làm thơ vịnh Kiều. Thơ này có nhiều bài nổi tiếng, và có một kỳ Olympic như vậy, chính cụ Nguyễn Khuyến được mời làm giám khảo. Nghe nói có hai câu thơ của người dự thi viết:
Nhà Nho người cũng coi ra vẻ
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay
Cụ Nguyễn Khuyến phê:
Rằng hay thì thật là hay
"Nho" đối với "xỏ" lão này không ưa
Thơ vịnh Kiều được truyền bá nhiều, nhưng đều là thơ Đường luật cũ. Thơ mới thì thật lạ. Tôi nhớ, mẹ tôi không biết học ở đâu, có đọc cho tôi nghe một bản thơ vịnh Kiều "thơ mới", tức là "thơ mới" một cách cổ lỗ sĩ kiểu bài Tình già của Phan Khôi, có lẽ làm vào thời buổi "thơ mới" mới xuất hiện. Tôi xin đọc nguyên một đoạn sau đây:
Nàng Thúy Kiều là con viên ngoại
Lúc sinh thành ở tại Bắc Kinh
Khi Kiều còn niên thiếu ấu xinh
Chị em xúm xít ngồi chơi trước cửa
Tên đâu lạ, vô tường hương sở
Tự xưng mình là: Thầy tướng sĩ bắc phương
Bỗng nhiên bước tới gặp nường
Liền đứng lại xem qua tài tướng
Như nàng đây là tài sắc đáng thiên kim vạn lượng
Uổng cho nàng tuyết nguyệt, phong ba
Thanh minh trong tiết tháng ba
Chị em mới rủ nhau đi tảo mộ...
Cách gieo vần quả có mới thật, câu dài, câu vắn cũng có mới thật; chỉ tội hình tượng cổ lỗ sĩ, quả là các ông đồ Nho tập làm thơ mới.
Câu đối Kiều
Ở đây không phải là "bằng" đối với "trắc", "thiên" đối với "địa" chỉnh đốn như trong phép đối cổ điển; ở đây, người ta phải ngắt bớt một chữ trong câu Kiều làm thành một câu khác có ý nghĩa mới rồi cứ thế mà đối. Thí dụ: có hai cha con cùng chạm trán nhau trong phòng một cô gái lầu xanh bèn thi nhau mắng bừa cô gái giang hồ cho đỡ xấu hổ. Con mắng: "Chẳng hổ mình sao, dám đem trần cấu dự vào bố?" (nguyên văn Kiều: Dám đem trần cấu dự vào bố kinh). Bố mắng: "Tuồng gì hoa thãi. Mượn màu son phấn đánh lừa con" (nguyên văn Kiều: Mượn màu son phấn đánh lừa con đen).
Một cặp câu đối khác dùng để dán trước bàn thờ của hai anh chị; lưu ý khẩu khí ghen tuông của người vợ nhỏ viết câu đối:
Cùng một tiếng đồng, chớ nề u hiển mới là chị (Đáng lẽ: Chớ nề u hiển mới là chị em).
Đối với:
Cách năm mây bạc, tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh (Đáng lẽ: Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng).
Thơ vịnh Kiều kiểu cổ
Có một ông hoàng giáp ngồi án sát ở Nam Định. Xẩy có một tù phạm tự giới thiệu là học trò nghèo bị kết án. Quan hỏi: Vậy học trò nghèo có biết làm thơ vịnh Kiều không? Và quan cho ba ngày để làm xong một bài thơ vịnh Kiều. Chỉ mới một đêm, người tù phạm - hàn sĩ đã làm xong bài thơ xin đọc cho quan nghe:
Khép cửa phòng xuân để đợi chờ
Mà em mất nết tự bao giờ?
Chàng Kim mê gái công đeo đẳng
Viên ngoại chìu con chết ngất ngư
Nợ trước thề bồi con đĩ Đạm
Duyên sau lăn lóc bố cu Từ
Mười lăm năm ấy bao nhiêu sướng
Còn trách than chi chú bán tơ
Thấy bài thơ có tóm tắt đại ý của Truyện Kiều một cách đầy đủ, hai câu năm sáu lại chốt cả tên họ của quan, quan đành xá tội cho người học trò nghèo.
Tôi có lên núi Dục Thúy thấy có lốt bàn chân của quan tạc vào đá, bên cạnh có những câu thơ mỉa mai không rõ của ai:
Vừa mới nghe quan đục mấy vần
Lại nghe quan đục lốt bàn chân
Khen cho đá cũng lì gan thật
Mà để cho quan đục mấy lần.
Tháng 12/2004
Hoàng Phủ Ngọc Tường