|
Post by Robot on May 16, 2004 9:17:48 GMT -5
Franz Schubert. "Khúc nhạc chiều" với giai điệu buồn da diết của nhạc sĩ thiên tài người Áo đã khiến cả nhân loại phải thổn thức. Con người bình dị này đã miệt mài sáng tạo trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình và để lại 10 bản sonate, 20 bản tứ tấu, 10 bản giao hưởng và 5 vở opera cho kho tàng âm nhạc cổ điển thế giới.Schubert từng có 15 năm làm thày giáo tiểu học theo nghiệp cha, nhưng thực ra ông nghĩ tới âm nhạc nhiều hơn dạy học. Khi mới tuổi 18, Schubert viết bản lider (ca khúc thơ có đệm đàn piano) đầu tiên. Ông là người có công phối hợp đến mức tuyệt vời thể loại thi ca và giai điệu. Trong số 10 bản giao hưởng đồ sộ của ông có một bản giọng si thứ, sáng tác vào năm 1822 chưa hoàn thành. Sau này, giới phê bình âm nhạc gọi tên là bản Giao hưởng bỏ dở. Mãi về sau, người ta mới biết được Schubert rất hay bị đau ốm, nên ông không thể hoàn thành trọn vẹn bản giao hưởng tuyệt vời đó. Đây là bản giao hưởng duy nhất trong lịch sử âm nhạc cổ điển chỉ có hai chương. Tuy nhiên, chính sự dang dở ấy đã khai mở một mạch nguồn âm nhạc vô tận, mỗi người có cách phát triển ý nhạc đó theo cảm xúc riêng. Năm 1815, Hoàng đế nước Pháp Napoleon bị phế truất. Niềm hy vọng về tự do và cách mạng thổi bùng khắp nơi. Ban ngày, người dân bàn tán về số phận của châu Âu, ban đêm khiêu vũ trong các quán rượu, nhà hàng và các lâu đài quý tộc. Chính những nơi này sinh ra những điệu valse, mà sau này dòng họ Johann Strauss đã khai thác triệt để và trở thành những bản valse bất tử của nhân loại. Khi ấy, Schubert thường thết đãi bạn bè nhạc sĩ bằng những bản nhạc do mình sáng tác trong những buổi dạ hội mang tên Những buổi tối Schubert. Các sáng tác của ông được giới nhạc sĩ đương thời ngưỡng mộ. Thế nhưng, ông lại không có được vị trí xứng đáng trong danh sách những nhạc sĩ hàng đầu của thành Vienne lúc bấy giờ. Cuộc sống của thiên tài rất nghèo túng. Đôi khi, ông viết liên tục không nghỉ trong một ngày, chỉ mong kiếm được một khoản kha khá từ các nhà sản xuất. Có nhà xuất bản chỉ chịu trả cho ông 6 bản lider trong số 24 bản của tập Hành trình mùa đông với giá 15 franc rẻ mạt. Tuy vậy, Schubert vẫn miệt mài sáng tác. Các tác phẩm của ông thấm đượm nỗi u buồn và ca ngợi sự chịu đựng phi thường của con người trước số phận bất hạnh. Những giai điệu ấy cũng chan chứa tình yêu cuộc sống cho đến phút cuối cuộc đời. Khúc nhạc chiều bất hủ của ông sáng tác là để tặng sinh nhật cho một thiếu nữ mà ông thầm yêu trộm nhớ. Để làm cho nàng bất ngờ, ông nhờ một bạn thân là ca sĩ, trình bày ngay dưới cửa sổ nhà nàng. Tối đó, người ta bí mật khiêng cây đàn piano vào trong vườn, tất cả đã sẵn sàng cho buổi biểu diễn lãng mạn và độc đáo. Thế nhưng, Schubert lại quên không đến. Trớ trêu thay, cô gái lại đem lòng yêu chính chàng ca sĩ, chứ không dành trái tim cho Schubert. Vào một ngày mùa đông tháng 11 năm 1828, nhạc sĩ thiên tài giã từ thế giới ở tuổi 32, vì căn bệnh thuỷ đậu tại nhà của một người anh em ở ngoại ô thành Vienne. Khi ông mất, người ta kiểm kê tài sản và chỉ đếm được vẻn vẹn 6 shilling đồng sáu xu và một đống bản thảo nhạc viết tay.
|
|
|
Post by Robot on May 16, 2004 9:18:03 GMT -5
Tất cả mọi bản nhạc của Franz Schubert đều được tạo ra như một phép mầu, một con người mà phần lớn thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, trong sự buồn bã và đấu tranh cho cuộc sống của mình, sự đấu tranh khi không một ai nhận ra được cái chân giá trị của mình, cuộc sống với thể lực nghèo nàn đã khiến ông ra đi khi mới ở tuổi 31.
Tuy vậy, cả thế giới cũng đã đủ sững sờ trước vẻ duyên dáng và những giá trị đích thực trong tác phẩm của ông bao gồm hơn 60 tác phẩm cho các nhà hát, 8 bản giao hưởng(bao gồm bản gia hưởng chưa hoàn thành, do ông chỉ viết hai thay vì bốn phần), 50 tác phẩm cho tứ tấu đàn dây, 21 tác phẩm thính phòng, một số lượng lớn các đoạn solo dành cho piano và piano hai người chơi (trên cùng một nhạc cụ > four-hands), một số lượng lớn các hợp xướng và hàng trăm bài hát vẫn được hát lên trong các dàn nhạc giao hưởng trên thế giới.
Có lẽ không hề sai khi nói Schubert sáng tác mọi nơi mọi lúc, ngay cả thói quen đi ngủ vẫn đeo kính để có thể bắt tay vào sáng tác ngay khi cảm hứng chợt đến khiến ông thức giấc.
Mặc dù ông làm việc từ bình minh tới hoàng hôn, tác phẩm đầu tiên của nhà soạn nhạc thiên tài lúc 21 tuổi này là bài hát “The Trout” (“Die Forelle”) vào lúc nửa đêm mà những nốt nhạc đã tràn lên trang giấy nhanh tới nỗi không kịp dùng cát để thấm cho chúng khô.
Nhìn vào tốc độ sáng tác kinh khủng như thế (dường như ông cảm thấy cái chết cận kề chăng ?) , chúng ta không khỏi kinh ngạc khi phải nhìn nhận đó toàn là những kiệt tác. Một trong những kiệt tác đó là “Ave Maria”.
Đó là một đoạn nhạc đơn giản(hic, tuy vậy đánh nó hay cũng không đơn giản lắm), được đông đảo mọi người biết tới và ưa thích vào năm 1825 (lúc đó ông 28 tuổi) và là một phần trong các bài hát của vở kịch “Lady of Lake” của Walter Scott.
Theo lời Schubert, thính giả đầu tiên của bản nhạc này (là một trong những người bạn của ông) đã kinh ngạc bởi tính “thánh ca” sâu sắc của nó “Tôi nghĩ nguyên nhân của chuyện đó là tôi không bao giờ ép buộc mình vào việc phải viết một bài thánh ca hay cầu nguyện trừ khi tôi bị chế ngự bởi cảm xúc đó, duy nhất cảm xúc cầu nguyện cho bản thân tôi.”
Ba năm sau khi viết “Ave Maria”, vào ngày 19 tháng 11 năm 1828, ông đã ra đi sau một cơn sốt và được chôn cất tại tu viện Wahring, gần nơi nhạc sỹ mà ông yêu thích, Beethoven, được chôn cất chỉ trước đó 1 năm. Trong lễ tang của ông, Franz Schober đã đọc một bài thơ vĩnh biệt nhạc sỹ thiên tài.
Nếu như gọi Beethoven là người anh hùng, người cách mạng vĩ đại trong lĩnh vực âm nhạc, thì phải gọi Schubert là nhà trữ tình vĩ đại. Mọi vấn đề của cuộc sống, quan hệ giữa con người và con người và với thiết thực bao quanh, Schubert đều nhìn nhận và thể hiện bằng những cảm xúc trữ tình.
|
|
|
Post by Robot on May 16, 2004 9:18:43 GMT -5
Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 trong một gia đình bố là nhà giáo có nế nếp. Nhà nghèo, một căn nhà nhỏ bé ở ngoại ô thành Viên. Schubert cất tiếng khóc chào đời và vĩnh biệt cuộc đời cũng ở dưới mái nhà này.
Trong căn nhà nhỏ bé này luôn có tiếng đàn tiếng hát vì bố và hai anh lớn của Schubert đều là giáohọc, mà thời đó dạy học văn hóa phải kiêm luôn dạy nhạc cho học sinh, cho nên làm thầy là phải biết nhạc lý cơ bản, biết hát và chơi được một thứ nhạc cụ nào đó. Cho nên Schubert ngay từ nhỏ đã yêu nhạc và có năng khiếu khác thơờng về âm nhạc. Cũng là một thần đồng âm nhạc như Môda, chỉ khác là bố Schubert không có trình độ nhạc giỏi như ông Lêôpôld - bố của Mozart, để đào tạo được Schubert thành một "Môda" thứ hai không có tiền thuê thầy dạy, cho nên Schubert được học nhạc muộn hơn so với Môda.
Tuy vậy Schubert cũng được bố dạy chơi đàn violon, anh cả dạy chơi đàn clavơxanh và cha cố Hôlxerơ dạy lý thuyết âm nhạc và chơi đàn oogan. ông Hôlxerơ nhớ lại: "Khi tôi muốn giới thiệu cho Franx (Schubert) một cái gì mới thì hóa ra cậu ta đã biết rồi... Do đó không phải tôi dạy, mà là nói chuyện với anh ta để rồi ngạc nhiên vì sự hiểu biết của cậu ấy..."
Năng khiếu trời phú đả giúp Schubert được nhận vào học trường dạy nhạc nội tú của nhà thờ, gọi là "Cônvích", trường dạy giỏi nhất ở Viên, nơi vốn chỉ nhận con em các gia đình quí tộc. Schubert đến trường xin học, dáng dấp rụt rè vì thất tòa nhà của trường quá đồ sộ, lại bị học sinh nhà trường chê giễu vì quần áo quá nghèo nàn. Nhưng nhờ có giọng hát tốt và khả năng đọc nhạc nhanh nên Schubert đã được nhận học. Đó là vào năm 1808 khi Schubert đã 11 tuổi.
Học ở trường, Schubert đau đầu nhất với môn toán, ngoài ra ăn không đủ no, vì chế độ ăn nội trú quá tồi tàn, thường gia đình phải tiếp tế thêm mà gia đình Schubert không có điều kiện vì quá đông con. Nhưng âm nhạc thì rất được nhà trường chú trọng, có dàn nhạc học sinh, những tứ đấu và tứ ca của học sinh, hợp xướng. Tối nào dàn nhạc cũng phải hòa nhạc nhiều loại tác phẩm. Schubert chơi violon trong dàn nhạc do đó có điều kiện làm quen với nhiều tác phẩm, tác giả. Chính nhờ đó mà ông học được kỹ thuật sáng tác, và đã sáng tác rất nhiều. Tính từ sáng tác đầu tay của ông năm 1810, cho đến năm 1813 là khi ông rời ghế nhà trường, Schubert đã viết hàng loạt ca khúc, ba lát, tứ đấu đàn dây, hợp xướng và bản giao hưởng số 1.
Ra khỏi trường, ông buộc phải đi dạy học, làm phụ giảng tại trường nơi bố ông dạy, vì nếu không sẽ bị gọi và phục vụ trong quân đội 14 năm liền (nghĩa vụ quân sự ở nước Aáo thời đó là 14 năm). Việc dạy học chiếm nhiều thời gian, lương thấp, Schubert phải nhận dạy tư thêm để kiếm sống. Nhưng chính thời gian này sức sáng tác của ông thật dồi dào và ở một số lĩnh vực đã đạt đến độ chín, có bản lĩnh cao.
Có lần trong một ngày ông viết 8 ca khúc. Chỉ trong một năm 1815, vừa đi dạy học, kể cả dạy tư, Schubert đã sáng tác 144 ca khúc, 4 ôpêra, 2 bản giao hưởng một tứ đấu đàn dây, hai bản xônát cho piano và hàng loạt tác phẩm khác nữa. Sáng tác của ông thật phong phú về thể loại, đến năm 1817, ông đã có hơn 300 ca khúc, trong đó có những bài nổi tiếng cho đến tận ngày nay, như: "Con cá phôren", "Thần rừng", "Người lữ hành", "Cô gái quay xa".v.v... 5 bản giao hưởng (ông viết tất cả 9 bản). 7 trong số 15 xônát và nhiều tác phẩm lớn khác.
Schubert vốn chán nghề dạy học do bị mất quá nhiều thời gian sáng tác âm nhạc, nên sau khi dạy đủ số năm qui định, ông thôi việc để tập trung vào sáng tác. Nhưng vì không còn lương để sống, lại bị bốt cắt đứt quan hệ do giận ông không theo nghề truyền thống của gia đình, nên Schubert lâm vào cảnh túng quẫn. Dạy đàn tư thì tiền thu được nhiều khi không đủ tiền thuê đàn (không có tiền mua đàn, phải thuê). Trong khi đó, vì lòng tự trọng, ông khước từ không đến diễn tại các phòng khách của những gia đình quí tộc giàu có, một công việc có thể giúp ông vượt qua cảnh đói nghèo, nghèo đến mức không đủ tiền mua đủ giấy nhạc để ghi lại các tác phẩm của mình.
|
|
|
Post by Robot on May 16, 2004 9:20:40 GMT -5
SerenadeBản Serenade nổi tiếng của ông chính là đã ra đời trên một thực đơn của nhà hàng, Schubert viết ở mọi nơi có thể, dường như trong đầu ông chen chúc nhiều giai điệu, chỉ chờ có dịp là tuôn trào ra như thác lũ (trong cuộc đời ngắn ngủi 31 năm Schubert đã viết hàng ngàn tác phẩm trong đó có hơn 600 ca khúc). Schubert sống thêm được sau cái chết của Beethoven - người nhạc sĩ mà ông yêu quí và khâm phục nhất - hơn một năm. Ông ra đi vào ngày 19 tháng 11 năm 1828, vì thiếu thốn, bệnh tật, kiệt sức. Bi kịch trong đời người nghệ sĩ này là cho đến khi chết hầu như không được dự một cuộc trình diễn nào những tác trình diễn vào những tác phẩm lớn của mònh. Bản "Giao hưởng bỏ dở" nổi tiếng của ông viết năm 1822. Khi ông còn sống, tổng phổ bị thất lạc. Người ta chỉ tìm lại được sau khi ông chết mấy chục năm. Cuộc đời của ông thể hiện tính bi kịch nội tâm của người sẽ nhận biết được sự xấu xa của hiện thực thời gian ấy nhưng không nhìn ra những con đường và phương thức khắc phục. Ông thu mình trong những suy tư của mình, chao đảo giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa bóng tối và ánh sáng. "Giờ đây không còn thời kỳ hạnh phúc mà mỗi thứ tưởng chừng như được bao bọc trong ánh hào quang của tuổi thanh xuân, thay vào đó là điều bất hạnh khi nhìn thấy hiện thực đau buồn mà nhờ trời, tôi cố tô điểm bằng trí tưởng tượng của mình cho nó đẹp lên...". Đó là những dòng nhật ký ảo não của chính Schubert viết trong mấy năm cuối đời. Đời sống của Schubert giản dị và ngắn ngủi, hầu như chỉ ở thành phố Viên, không phải trong những tòa lâu đài lộng lẫy nơi Môda được đón tiếp khi đang là một thần đồng, nơi Hayđơn được hoan nghênh nồng nhiệt và Betôven còn tìm được những người hâm mộ. Schubert chỉ sống tại vùng ngoại ô Viên, nơi những căn nhà nhỏ bé và lụp xụp, dân chúng nghèo. Ông không biết được sự thành công rực rỡ nào, không đóng một vai trò gì đáng kể trong đời sống âm nhạc thời ấy. Nhưng hậu thế biết đến ông và đã đánh giá đúng cống hiến to lớn của ông cho kho tàng âm nhạc của nhân loại. Bia mộ của ông ghi dòng chữ: " Ở đây, cái chết đã chôn vùi một kho báu và cả những niềm hy vọng còn quí báu hơn". Người dịch: Thosan
|
|