|
Post by Oshin on Mar 11, 2004 3:18:31 GMT -5
Tình già Trần Minh Thuận
Tiếng khóc mất vợ của ông lão tám mươi lăm tuổi làm người nghe khó mà cầm lòng được. Từng tuổi này mà ông Đắc khóc như trẻ con, khóc như thể là khóc lần cuối cùng. Mà chắc là lần cuối cùng thật, bởi vì ông bà chẳng có đứa con nào mặc dù đã chung sống gần sáu mươi năm.
Ông gọi bà bằng ''em'' từ khi mới sống với nhau, đến giờ vẫn vậy dù hai người đã vào cái tuổi gần đất xa trời, mọi người đều bật cười khi nghe cách xưng hô này. Còn bà cũng thế, một anh Bảy, hai anh Bảy. Nghe riết rồi cũng quen, mọi người trong xóm Giồng Giếng đều gọi ông bà bằng cái biệt danh hết sức ấn tượng: ''Đệ nhất chung tình”. Ông chỉ cười và coi bộ cũng khoái cái biệt danh nghe ngồ ngộ. Đám con nít thì thường chọc ông bà bằng những câu hát rất trẻ con mỗi khi thấy ông bơi xuồng chở bà lên chợ. Mới sáng hôm kia, ông vừa đẩy chiếc xuồng ra khỏi ụ đã thấy chúng chạy dọc theo bờ kinh hát vang:
Bà già nắm tay ông già Chiều chiều dắt ra bờ sông Hai hàm răng sún không còn ''Hun" nhau té đùng xuống sông...
Nghe những câu hát có phần hơi hỗn như vậy, thím Tám đang tắm cho bầy heo liền rút cây roi mây giắt ở mé vách chạy theo phang túi bụi vào đít bọn trẻ:
- Chết tía tụi bây, hỗn nè, hỗn nè.
Sau mỗi tiếng ''nè'' là tiếng chát của chiếc roi và tiếng "ây da'' của bọn trẻ, chúng vừa chạy vừa xoa đít lia lịa nhưng chẳng đứa nào khóc, hình như cuộc sống cực khổ làm cho tụi con nít xóm này lì đòn từ nhỏ. Ông vừa bơi vừa dứ dứ cây dằm nhưng trên môi nở một nụ cười thiệt là hiền.
Ông bà đến với nhau cũng hềt sức đặc biệt, mỗi người có một hoàn cảnh riêng nhưng đều mang những nỗi đau khó tả xiết. Hồi đó cha ông là một địa chủ giàu có ở Ba Xuyên với ruộng đất cò bay thẳng cánh. Là con một gia đình địa chủ nhưng ông không quan tâm gì đến việc ruộng đất, đến việc phát triển điền sản của gia đình. Điều duy nhất mà ông đam mê là võ thuật, ông tập võ từ bé và nổi tiếng cả hạt Ba Xuyên khi chỉ mới hai mươi tuổi. Cũng vì là con út trong gia đình nên ông bị cha mẹ bắt cưới vợ sớm, vợ ông cũng là con của một chức sắc nổi tiếng giàu có trong vùng. Do cuộc hôn nhân không tình yêu và cũng do lòng đam mê võ thuật của ông mà gia đình tan nát. Cha ông buồn nhưng biết tánh và thương con nên cố gắng nuôi dạy hai đứa cháu nội. Vợ ông quen thói sống xa hoa, đua đòi của gia đình giàu có nên tối ngày cắm đầu vào chiếu bạc, tiền của trong nhà lần lượt theo chân những quân bài xanh đỏ ra đi, rồi ngoại tình với tay hương quản Cảo cũng do thiếu nợ đỏ đen. Ba ông biết tin này đổ bịnh và mất sau đó ít tháng, má ông đau khổ quá cũng mất theo. Hay tin, ông về mang theo lòng căm hờn ngất trời, rình mấy đêm liền mới gặp vợ ông và hương quản Cảo từ sòng bạc về nhà. Chỉ với một cú đá, hương quản Cảo phải gục tại chỗ. Ông trói cả hai vào gốc cây sầu riêng cạnh mộ của cha mẹ ông, trong tay ông là cái phảng được mài sáng loáng dưới ánh trăng mười sáu. Mấy lần ông muốn chặt đứt đầu họ nhưng tiếng van nài của hương quản Cảo, những giọt nước mắt lỗi lầm của vợ ông và tiếng kêu khóc của hai đứa con nhỏ làm ông chùn tay. Ngẫm lại, ông thấy mình cũng có lỗi trong việc này, lỗi lớn nữa là khác. Nhưng dù sao ông cũng không thể tha thứ được, ông chém phập lưỡi phảng vào gốc cây sầu riêng:
- Tao tha hai đứa mày, tất cả đất đai, tài sản tao không lấy thứ gì, chỉ có điều...
Ôg chỉ vợ, nói tiếp:
- Tao xin mày nuôi con tao đến lớn. Nếu chúng có chuyện gì tao sẽ lấy đầu cả hai đứa mày. Tao thề đó.
Ổng làm giấy tờ giao một phần tài sản lại cho người chị gái ông giữ, chừng nào con ông lớn thì giao lại cho chúng. Một phần giao cho vợ ông, ông nói trong nỗi buồn và sự chán nản dâng cao:
- Tình nghĩa vợ chồng coi như hết, cô đã có nơi nương tựa, chung sống với người dù sao tui cũng cầu chúc cho cô hạnh phúc.
Những giọt nước mắt ân hận của người vợ không thể níu chân ông. Ông lạy mộ cha mẹ rồi đi trong một buổi chiều nhạt nắng, gió hiu hiu mang nỗi buồn qua sông, tâm hồn nặng trĩu. Ông đi như để quên tất cả, lang bạt kỳ hồ khắp Nam kỳ lục tỉnh, rồi sang Cao Miên, kết bạn với nhiều cao thủ trong giới võ thuật. Ông tham gia rất nhiều trận đấu trên võ đài, đã cùng với một số tay cự phách lúc lấy giờ như Đông Phương Sóc, Minh Thành, Minh Sang... tung hoành trên khắp các võ đài ở Việt Nam và Đông Dương.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 11, 2004 3:19:48 GMT -5
Ông quen bà cũng trong một dịp tình cờ. Đó là một ngày cuối năm, trời vào xuân, nắng dường như ấm hơn, hoa lá dường như xanh hơn và nỗi buồn trong ông lại ngùi ngùi trở lại, nhớ nhà và nhớ quê hơn... Khi chờ đò qua sông Long Toàn lên Trà Vang để tham gia một trận đấu võ đài, ông đã gặp bà, một cô gái nhà quê không có gì đặc biệt. Bà lúc đó mười tám tuổi, phổng phao, tóc bới cao vót đỉnh đầu, nước da ngăm ngăm đen nhưng nhìn duyên lắm. Bà đội nguyên cái sịa (*) trên đầu, giọng rao ngọt lịm:
- Ai ăn bánh ú nước tro hôn?
Khi bà rao, hai lúm đồng tiền sâu hút bên má đã hớp hồn ông, ông ghẹo lại như theo quán tính:
- Không tiền bán thiếu hôn, cô Hai?
Buôn bán dạn miệng, bà cũng bông đùa với khách đường xa:
- Hông có tiền thì ''dìa'' nhà tui mần công trừ nợ.
Ông lấy hai cái bánh ú và quyết tâm không trả tiền:
- Qua theo cô Hai về thiệt đa!
Bà có mong mỏi gì đâu, buôn bán đã nhiều năm bà rất quen với chuyện bị khách trêu ghẹo, ai cũng bóng gió lả lơi nhưng không một lần quay lại. Vậy mà ông quay lại thật, hình như ông linh cảm rằng cuộc đời mình phải gắn bó với cô gái quê mùa kia, ông cảm nhận được những rung cảm rất chân thành từ trái tim đã chai sạn với thời gian và nỗi đau, con tuấn mã độc hành mỏi mệt trên đường dài sương gió đã tìm được nơi dừng bước sau cùng. Ba hôm sau khi thi đấu, về lại bến đò cũ, ông dọ hỏi, cô bán bánh ú có nước da đen giòn. Ông già chèo đò có cái thẹo to tướng bên má phải nheo mắt cười rồi chỉ ông theo hướng về xóm Giồng Giếng. Lân la hết buổi chiều cũng tìm được nhà bà, đứng ngoài cửa ông kêu mà giọng run run:
- Cô Hai bánh ú ơi!
Ông kêu vậy thôi bởi nào biết bà tên gì đâu. Bà đang lọc nước tro làm bánh giật mình ngẩng lên:
- Trời, anh ''dìa'' mần trả công thiệt hả!
- Qua nói thiệt chớ chơi sao.
Chỉ có vậy mà nên duyên, hai tâm hồn đau khổ hòa quyện, chia sẻ cùng nhau. Tình yêu đã níu bước chân giang hồ lãng tử của ông, một tình yêu rất đơn sơ nhưng đích thực của cuộc đời ông. Tối hôm ấy, khi nghe ông kể về bi kịch cuộc đời mình, bà chợt nhận ra rằng mình không thể sống thiếu ông, cái tình của ông bình dị mà sâu sắc quá. Ông cũng vậy, ông biết chắc rằng mình rất cần bà từ khi nghe tiếng rao bán bánh ngọt ngào của bà trên bến đò hôm trước.
Bà cũng chỉ một mình, ba má của bà mất năm nào bà cũng không nhớ rõ vì lúc đó bà chỉ là một đứa bé lên năm. Trong ký ức tuổi thơ của bà chỉ hiện về những cơn lũ cuồn cuộn dâng cao, cuốn phăng cả ngôi nhà nhỏ. Khi trời sáng thì ba má bà cũng không còn nữa, vĩnh viễn bà không còn thấy lại những hình ảnh thân yêu. Bà sống nhờ vào sự đùm bọc của bà con chòm xóm, mười ba tuổi bà họåc cách làm bánh ú và hằng ngày đem bán ở các bến dò, bến chợ. Ông nghe kể mà thương bà vô cùng, ông ngùi ngùi:
- Nếu cô Hai chịu, tui sẽ ở lại đây suốt đời.
Họ đã là của nhau bắt đầu ngay từ cái đêm gặp nhau ấy, bà cũng không hiểu tại sao bà lại tin tưởng ông đến như vậy. Sáng hôm sau, bà bắt cặp vịt xiêm sau nhà làm một mâm cơm cúng ông bà, cha mẹ và mời bà con chòm xóm đến để chứng kiến cho ông bà thành vợ thành chồng. Ông mặc áo dài khăn đóng hẳn hòi, bà cũng mặc bộ áo dài màu xanh, coi bộ ngượng ngùng lắm vì lần đầu tiên bà được mặc trong một buổi lễ trọng đại của một đời người. Vậy là ông ở lại, cùng bà chia sẻ buồn vui trong cuộc sống, bỏ lại sau lưng những vinh quang của đời võ sĩ, bỏ tính phiêu bạt giang hồ, bên ngôi nhà nhỏ của bà, ông trở thành con rể của quê hương mới này.
Hằng ngày bà vẫn đi bán bánh ú, ông thì làm bất cứ việc gì người ta mướn. Nhờ sức khỏe tốt do tập võ từ nhỏ, ông làm việc gấp hai người bình thường. Một công ruộng cỏ ngập tới đầu, ông cầm phảng phát ào ào chỉ một buổi sáng là xong. Ông làm nhanh và rất đàng hoàng nên lúc nào cũng có việc cho ông làm. Ông vẫn giữ thói quen tập võ khi trời sắp sáng, những người đi chợ sớm rất quen thuộc với hình ảnh bà lui cui ở cái chái nhà sát mé sông nấu nước pha trà cho ông uống, còn ông mình đầy mồ hôi với những đòn thế của Thiếu Lâm Bắc Phái, ông đi những bài quyền rất nhanh nhẹn, dứt khoát. Đôi khi họ dừng xuồng lại, chống dầm xem ông luyện võ. Từ khi có ông về, bọn trộm cướp dường như biến đâu mất hết, hình như cái tên Võ Thành Đắc chúng đã nghe từ lâu lắm.
Hết thời Pháp rồi đến thời Mỹ, ông luôn là người sát cánh cùng anh em du kích trong phong trào tập võ ở xóm. Những đêm trăng sáng, bãi đất trống ngoài ruộng là nơi các du kích tập võ, có người canh gác đàng hoàng, nếu lính có đi tuần thì những người tập võ nhanh chóng trở thành những người nông dân đập lúa ầm ầm. Những kinh nghiệm thi đấu trên khắp các võ đài ông đem truyền lại hết cho anh em, lúc nào càng gần gũi, chân tình. Đất nước giải phóng, ông vẫn hằng ngày vác phảng đi làm cỏ mướn, bà vẫn đội sịa bánh ú trên đầu đi bán khắp các bến đò nhưng cuộc sống trong ngôi nhà nhỏ cuối xóm luôn êm đềm hạnh phúc. Cả xóm này hình như chưa bao giờ nghe hai ông bà cãi nhau, lúc nào cũng ''anh anh'', "em em'' ngọt xớt. Chỉ có một nỗi đau luôn canh cánh bên lòng bà là không sinh được cho ông một đứa, con nối dõi, những chiều hai ông bà bắc ghế đẩu ngoài sân nhìn con nít trong xóm nô đùa, bà thường mủi lòng:
- Mình không có con, mai mốt em chết rồi ai lo cho anh.
Ông nhìn bà như chia sẻ:
- Dù sao tui cũng có hai đứa con rồi, chỉ tội em thôi!
Bà nhìn ông trìu mến và cảm phục. Thời gian cứ trôi mãi, hai ông bà đã bước vào cái tuổi ''thất thập cổ lai hi”, mái đầu đã trắng như sương khói nhưng cái tình thì vẫn như xưa, vẫn như cái hồi ông lần dò theo bà về nhà để trả tiền hai cái bánh ú bằng cả cuộc đời mình.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 11, 2004 3:20:07 GMT -5
Vậy mà bây giờ bà bỏ ông đi thiệt, mới hôm qua bà còn hờn ghen ông vì ông đi từ sáng tới chiều bỏ bà ở nhà một mình. Số là có mấy anh phóng viên báo trên tỉnh biết tiếng ông, họ về mời ông ra phòng văn hóa huyện để làm phóng sự về một thời oanh liệt của võ thuật Việt Nam. Ông hào hứng nhớ lại những cuộc so găng quyết tử hồi đó, chuyện ông thượng đài cùng một cao thủ người Miên, chuyện ông hạ gục một tên võ sĩ Pháp mà báo chí hồi đó đưa hình ông lên trang nhất. Rồi chuyện vui buồn đời võ sĩ, chuyện những lần ông bị đánh lại, chuyện những chiến hữu năm xưa... Mải mê kể những câu chuyện quá khứ, ông quên hẳn trời đã gần tắt nắng và bà đang chờ ông bên mâm cơm, ông biết chắc thế vì có khi nào bà ăn một mình đâu. Khi ông về bà hờn mát vẫn như cái ngày xưa ấy: - Ông đi với “con nào" từ sáng tới giờ? Lần đầu bà kêu ông bằng '''ông'', chắc là giận ông rồi. Ông nheo mắt: - Bậy nà, mê kể chuyện hồi xưa chớ con nào đâu. Bà trách ông lần đầu cũng là lần sau cuối. Sáng nay, ông không dậy luyện võ như mọi hôm do hồi chiều có uống mấy ly rượu với mấy anh phóng viên ngoài phòng văn hóa hơi mệt. Bà vẫn dậy pha trà cho ông như thường lệ, bà đang lui cui rửa bộ ly tách trên cái sàn nước bắc de ra mé sông thì một chiếc vỏ lãi chạy bằng máy xe hơi ào ào lao qua, những đợt sóng ầm ầm chồm lên hai bên bờ đánh bật tấm ván bà đang ngồi, cuốn phăng bà xuống nước. Nghe tiếng la của mấy người đi chợ, ông vụt chạy ra thì chỉ còn thấy những con sông hung dữ đang vỗ từng hồi vào bờ, mặt nước chao đảo dữ dội. Ông nhảy ùm xuống sông, mò như điên như dại. Cả tiếng đồng hồ chẳng thấy bà đâu, ông biết rằng mình đã mất bà vĩnh viễn. Ngực ông đau nhói, ngồi bệt xuống mé bờ, hai mắt ông đỏ hoe. Đến chiều mọi người đã tìm được xác bà, ông ôm chặt bà vào lòng nức nở, bao nhiêu giọt nước mắt cuối cùng ông dành hết cho vợ, trọn tình trọn nghĩa. Bà con chòm xóm đến giúp ông mai táng, không ai cầm được nước mắt khi thấy một ông lão tóc trắng như mây quấn vành tang trắng. Đám con nít thường chọc ông bây giờ ngồi đầy ngoài hàng ba, đứa khóc sụt sịt, đứa khóc hu hu, khóc như chuộc lại những lỗi lầm trẻ con mà chúng mắc phải. Ông an táng bà ngay trước sân nhà để được gần gũi mỗi lúc, mỗi hôm. Hai người con trai ông đến đón ông về xứ nhưng ông không cam lòng bỏ bà lại một mình. Chừng nào ông chết hẵng hay. Bây giờ, bà con trong xóm Giồng Giếng bắt đầu làm quen với một hình ảnh mới. Một ông già với mái tóc bạc phơ, mặc bộ áo dài khăn đóng năm xưa ngồi cạnh ngôi mộ của người bạn đời chung thủy mỗi khi đêm về... --------------------------------------- (*) Sịa: một loại nong nhỏ, đan thưa. Trần Minh Thuận
|
|