|
Post by Robot on Mar 16, 2004 13:29:12 GMT -5
WWF KÊU GỌI ĐƯA RA LỆNH CẤM DDT TRÊN TOÀN THẾ GIỚI
Ngày 27/1/1999, Quỹ động vật hoang dã thế giới (WWF) đã kêu gọi đưa ra một lệnh cấm sản xuất và sử dụng DDT trên quy mô toàn cầu vào khoảng năm 2007. Hiện nay, DDT đã bị cấm sản xuất và sử dụng tại khu vực Bắc Mỹ, nhưng vẫn tiếp tục được sử dụng để diệt muỗi và một số loại côn trùng gây bệnh khác ở rất nhiều nước đang phát triển. WWF cũng nêu rằng theo các kết quả nghiên cứu thì việc sử dụng DDT dưới dạng thuốc phun, thậm chí chỉ sử dụng ở trong nhà cũng có thể gây ra hiện tượng rò rỉ một lượng lớn DDT vào môi trường và có khả năng gây hại cho cả người và vật. WWF cũng đã thu thập ý kiến của hơn 100 nước tham dự cuộc họp vừa qua tại Nairobi (Kenya) về việc cấm trên quy mô toàn cầu sản xuất và sử dụng 12 chất POP thuộc nhóm độc hại nhất (trong đó có DDT) để xây dựng một báo cáo mới về vấn đề này. Trong báo cáo này, WWF cũng đã tổng kết tất cả các ảnh hưởng của DDT và các chất phân huỷ từ DDT đối với con người như gây tổn hại cho quá trình phát triển của não, giảm khả năng miễn dịch v.v... Báo cáo này còn đưa ra các kết quả nghiên cứu ở Mexico và Nam á, theo đó thì hàm lượng DDE (một trong các chất tạo thành trong quá trình phân huỷ DDT) trong cơ thể mẹ sẽ có khả nâưng gây ảnh hưởng tới con đường qua sữa mẹ. Báo cáo này cũng chỉ ra rằng hàng triệu tấn DDT được sản xuất và sử dụng trước đây hiên đang còn lưu giữ trong đất và sẽ tiếp tục phân tán trong môi trường. Khi bị phát thải ra khí quyển DDT sẽ có khả năng di chuyển hàng nghìn dặm trong khí quyển đến các khu vực lạnh hơn thì bị kết tủa và lại rơi trở lại xuống đất, tích tụ trong mỡ người và các loại động vật. Do đó theo WWF thì DDT được sử dụng ở một làng nhỏ tại Châu Phi cũng có khả năng làm tích tụ DDT trong cơ thể của loài gấu sinh sống ở Bắc cực. Ngài Clifton Curtis, Giám đốc chương trình hoá chất độc hại toàn cầu của WWF đã phát biểu : "Nếu như DDT còn tiếp tục được sử dụng ở bất kỳ nơi nào trên thế giới thì không có sự bảo đảm an toàn cho bất kỳ ai trên hành tinh này". Ông Curtis cũng nói thêm rằng "vấn đề cấm hay không cấm sản xuất và sử dụng DDT đã có câu trả lời hoàn toàn rõ ràng, nhưng câu hỏi được đặt ra là khi nào thì việc cấm DDT trên toàn cầu được áp dụng và làm thế nào để đảm bảo sự an toàn cho các nước đang phát triển và đảm bảo có được một loại vật liệu thay thế khác để kiểm soát bệnh sốt rét ở các nước này khi lệnh cấm vận được thực hiện".(Theo Mạng thông tin môi trường Mỹ ENN,)
|
|
|
Post by Robot on Mar 16, 2004 13:50:45 GMT -5
HỘI THẢO KHU VỰC VỀ QUẢN LÝ CÁC CHẤT Ô NHIỄM HỮU CƠ KHÓ PHÂN HUỶ
Từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 3 năm 1999 tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo Khu vực về quane lý các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ do Tổ chức Hoá học- Chương trình Môi trường liên Hiệp quốc (UNEP Chemicals) phối hợp với một số nước tài trợ (Ôxtraylia, Canada) chủ trì.
Hội thảo nằm trong khuôn khổ các hoạt động theo quyết định của kỳ họp lần thứ 19 của Hội đồng quản trị (GC) Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) về việc tổ chức các hội thảo khu vực, các cuộc họp đa quốc gia nhằm xây dựng công ước quốc tế quản lý các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ (POPs). Mục đích của Hội thảo này nhằm trợ giúp các cơ quan quản lý của các nước đang phát triển trong khu vực xây dựng và áp dụng Kế hoạch hành động Quốc gia/hoặc khu vực giảm thiểu và hạn chế nguy cơ ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khoẻ nhân dân do các chất POPs gây ra.
Tham dự Hội thảo gồm 80 đại biểu từ 27 nước trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương là: Ôxtrâylia, Bangladesh, Brunei, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, iran, Nhật Bản, Hàn Quốc, CHDCNN Triều Tiên, Lào, Malaysia, Maldives, Mông cổ, Mynamar, Nepal, Pakistan, Philppines, Singapore, Sri Lanka, Thái Lan, SPREP, Việt Nam và của 5 tổ chức quốc tế như WHO, UNEP Chemicals, UN ECE, Greenpeace, Công ước Basel và các quan sát viên của nhiều nước trên thế giới như Đức, Canada, Phillipine, Thuỵ Sỹ và các tổ chức công nghiệp quốc tế.
Trong diễn văn khai mạc Hội thảo Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phạn Khôi Nguyên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảm thiểu và kiểm soát các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ hiện nay trên thế giới. Tám chất POPs sau đây đã bị cấm sử dụng ở Việt Nam từ những năm 1992 là: Aldrin (C12H8Cl6); Chlordane (C10H6Cl8); DDT (C14H9Cl5); Dieldrin (C12H8Cl6O); Endrin (C12H8Cl6O); Hexachlorobenzene (C6Cl6); heptachlor (C10H5Cl7); Toxaphene (C10H10Cl8), tuy nhiên, lượng thuốc này vẫn đang còn lưu giữ trong các kho thuốc trừ sâu cũ và là nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường Việt Nam. Ông Jame Willis Giám đốc UNEP Chmical nêu rõ vai trò của UNEP trong việc chuẩn bị xây dựng công ưóc quốc tế về quản lý các chất POPs cũng như giúp đỡ các nước đang phát triển trong việc triển khai, áp dụng kế hoạch hành động quốc gia về giảm thiểu và ngăn ngừa ô nhiễm do các chất POPs gây ra tại các nước và trong khu vực.
Hội thảo đã chia làm hai nhóm thảo luận về hai loại các chất POPs: một loại là các chất POPsdùng làm thuốc trừ sâu và diệt côn trùng trong nông nghiệp, y tế và một loại các chất POPs trong công nghiệp (PCBs, Dioxins và Furans). Các nhóm thảo luận đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc hiện nay của các nước trong khu vực như:thiếu thông tin, chưa thống kê được lượng các chất POPs, đặc biệt là lượng PCBs có trong các loại dầu biến biến thế cũ nhập khẩu từ Liên Xô (cũ ) và các nước khác, chưa có đủ trình độ khoa học để phan tích và xác định các chất POPs và quan trọng nhất là thiếu kinh phí cho các hoạt động này. Hội thảo cũng đã nghe báo cáo tham luận của các nước về tình trạng quản lý các chất POPs của từng nứoc và những khó khăn, vướng mắc hiẹn nay.
Cục trưởng Cục Môi trường Nguyễn Ngọc Sinh đã đọc diễn văn bế mạc Hội thảo và nhận định Hội thảo đã tập trung thảo luận nhiều vấn đề liên quan đến POPs, đặc biệt là những khó khăn gặp phải của các nước trong khu vực như xác định và thống kê lượng POPs, cũng như việc xây dựng chương trình hành động Quốc gia và khu vực đối với POPs. Cục trưởng cũng bày tỏ hy vọng rằng, thông qua Hội thảo, các nước phát triển và các tổ chức Quốc tế hiểu được về tình trạng quản lý các chất POPs ở khu vực cũng như ở Việt Nam. Từ đó, chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một chương trình thích hợp trong khu vực để ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm do POPs gây ra, cùng nhau bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:52:22 GMT -5
NHỮNG BỨC ẢNH ĐẦU TIÊN VỀ TÊ GIÁC QUÝ HIẾM Ở VIỆT NAM
Ngày 15 tháng 7 năm 1999, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Đại sứ quán Vương quốc Hà Lan tại Hà Nội, WWF- Chương trình Đông Dương và Dự án Bảo tồn Vườn quốc gia Cất Tiên chính thức công bố những bức ảnh về loài tê giác đang có nguy cơ tuyệt chủng rất cao và có thể là quý hiếm nhất châu Á, lần đầu tiên chụp được ở Vườn quốc gia (VQG) Cát Tiên, kể từ trước đến nay. Chỉ có từ 5 đến 8 cá thể tê giác (Rhinoceros sondaicus annamiticus, một phân loài của tê giác Java) được coi vẫn là tồn tại, tập trung toàn bộ ở VQG Cát Tiên.
Trước đây, thỉnh thoảng nhân dân địa phương tình cờ nhìn thấy tê giác, nhưng các nhà khoa học thì chưa bao giờ thấy bất kỳ một con nào. Chúng nhút nhát và lẫn tránh con người đến mức một số nhà khoa học đã coi chúng là tuyệt chủng ở Việt Nam. Cho đến năm 1989 sự tồn tại của chúng mới được biết đến khi một thợ săn bị bắt trong lúc tìm cách bán da và sừng của một con tê giác.
Hầu hết những hiểu biết của các nhà khoa học hiện nay về tê giác Việt Nam đều thu nhập được từ nghiên cứu về dấu chân và phân của chúng, và những báo cáo về việc nhìn thấy chúng cùng những thông tin khác đều là từ nhân dân địa phương.
Dân địa phương, những người luôn cho rằng tê giác vẫn tồn tại, đã đề xuất 10 điểm để chụp ảnh tê giác. Các máy chụp được bấm tự động khi một vật thể cắt ngang qua đường chéo lazer được nói với máy chụp. 7 bức ảnh đã được chụp vào các ngày 11,17,19 và 25 tháng 5, hai tuần sau khi máy chụp được cài đặt.
Vài nét về dự án bảo tồn VQG Cát Tiên: Dự án được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn khởi xướng và do Chính phủ Việt Nam và Hà Lan tài trợ với tổng số tiền 6 triệu đô la, kéo dài 5 năm 1998 đến 2003.
Ông cố vấn trưởng dự án và Giám đốc Vườn quốc gia Cát Tiên cho biết về những công việc mà Dự án đã và đang thực hiện gồm:
+ Trang bị các phương tiện đi lại cho cán bộ gác rừng nhe xe máy ( 25 chiếc), thuyền (3 chiếc) để tăng cường hoạt động tuần tra, theo dõi.
+ Trang bị 6 đài rađio phục vụ công tác thông tin liên lạc.
+ Nâng cao năng lực cho đội ngũ nhân viên thông qua việc tổ chức các khoá đào tạo ( trong lĩnh vực du lịch và bảo vệ rừng, sinh thái) và các chuyến đi khảo sát (trong nước và nước ngoài).
+ Tháng 1 năm 1999 đã thực hiện một cuộc điều tra về con Tê giác do một số chuyên gia, đứng đầu là ông Nguyễn Xuân Đẳng, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật ( Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia) và đã có kết luận là có khoảng 7 hoặc 8 con tê giác trong khu vực rộng khoảng 6.500 ha.
+ Từ tháng năm, các máy chụp tự động đã được đặt và những bức ảnh đầu tiên về những con tê giác này đã được thực hiện.
+ Trong thời gian tới, Dự án sẽ hỗ trợ VQG và chính quyền Tỉnh đưa vào một kế hoạch quản lý toàn diện VQG Cát Tiên. Kế hoạch sẽ giải quyết vấn đề vùng đệm của Vườn ( Khu cần được bảo vệ, khu cho những người dân hiện đang sinh sống trong Vườn và khu dành cho mục đích khai thác dịch vụ du lịch sinh thái,v.v... )
+ Nghiên cứu tiếp theo về con tê giác sẽ gồm các nghiên cứu hàng năm để giám sát số lượng và nghiên cứu các loại thức ăn phù hợp cho chúng. Nghiên cứu gần đây nhất có thể có kết quả là phục hồi hệ sinh thái, tạo thêm nguồn thức ăn cho những con tê giác này.
Mặt khác, Dự án cũng nghiên cứu tìm các biện pháp để đảm bảo cuộc sống cho người dân trong vùng đệm vì trưóc đây rất nhiều người sinh sống dựa chủ yếu vào nguồn lợi thu được từ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên trong Vườn quốc gia. Dự án sẽ hỗ trợ người dân để họ cải thiện việc canh tác, trồng cây và kinh doanh các hoạt động du lịch sinh thái trong vùng đệm để tạo thu nhập và không cần phải vào khu vực Vườn quốc gia để khai thác. Trong tương lai, Dự án sẽ thu nhập thêm số liệu, mẫu và phân tích về gen và hy vọng sẽ tìm ra câu trả lời vè cấu trúc đàn, tuổi và giới tính của các con vật này. Nghiên cứu này đang được thực hiện với sự cộng tác của Vườn quốc gia Kulon- Inđônêxia, nơi cũng đang có nghiên cứu tương tự về tê giác.
MAI NGỌC BÍCH NGA
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:53:27 GMT -5
CHỨNG CHỈ ISO 14001 ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM
Sau hơn một năm chính thức bắt tay vào xây dựng hệ thống bảo vệ môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000, ngày 29/5/1999, Công ty TOY-OTA Việt Nam đã được nhận chứng chỉ ISO 14001 do cơ quan chứng nhận Việt Nam (QUACERT) và Tổ chức AJA cấp.
Hãng TOYOTA luôn trung thành với tuyên ngôn toàn cầu của mìng về bảo vệ môi trường tại mọi doanh nghiệp của mình, dù trong nước hay tại các nước mà Hãng có chi nhánh. Ngoài việc đảm bảo vệ sinh và môi trường trong lành trong khu vực sản xuất, Công ty còn đầu tư kinh phí khá lớn để xây dựng hệ thống xử lý nước thải công nghiệp, đảm bảo yêu cầu nước thải ra khỏi nhà máy là hoàn toàn sạch.
Tổng giám đốc Công ty TOYOTA Việt Nam bày tỏ niềm vinh dự là đơn vị sản xuất đầu tiên ở Việt Nam xây dựng thành công hệ thống bảo vệ môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế IOS 14000 và cam kết duy trì hệ thống trong thời gian tới.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:54:37 GMT -5
THẢM HOẠ MÔI TRƯỜNG Ở NAM TƯ
Cho đến nay, thế giới vẫn chưa đánh giấ được hoàn toàn chính xác mức độ thiệt hại về vật chất do NATO gây ra sau 79 ngày đêm không kích Nam Tư. Một trong những thiệt hại nặng nề đó chính là sự ô nhiễm nghiêm trọng môi trường sống.
Bom đạn NATO đã phá huỷ hầu hết các nhà máy hoá chất của Nam Tư, gây phát tán một lượng lớn hoá chất vào không khí, sông ngòi và đất đai, Pancevo, thành phố cách thủ đô Belgrade 15 km về phía Đông-Bắc là nơi ô nhiễm nặng nhất. Tại một nhà máy sản xuất phân bón, nơi bị NATO ném bom ngày 15-4, mùi hôi thối bốc ra từ một bồn chứa dầu bị phấ sập làm bị ô nhiễm một vùng rộng lớn.Với 150 tấn dầu chảy ra từ nhà máy này, khó có sinh vật nào sống sót nổi tại các kênh rạch gần đấy- hiện đang bị bao phủ một lớp đen dày trên bề mặt. Phần lớn các hoá chất đều độc hại và vấn đề nguồn nước trên sông Danube bị ô nhiễm sẽ khó tránh khỏi.
Các nhà máy lọc dầu, hoá dầu bị NATO ném bom đã tạo ra một đám mây đen dày đặc treo lơ lửng trên trành phố này. Chính quyền đã di tản 40.000 cư dân ra khỏi thành phố vì sợ phải gánh chịu hậu quả từ các trận mưa axit do đám mây này gây ra. Bộ Môi trường Nam Tư cũng khuyến cáo cư dân thành phố không nên dùng rau, quả thu hoạch từ vùng đất có mưa axit. Thế nhưng, hầu hết các công dân bị mất việc làm do nhà máy bị phá huỷ, phải ăn các loại rau quả này vì không có đủ tiền để mua rau quả ở các nơi khác. Chính vì vậy mà số lượng các bệnh nhân suyễn và viêm phổi tại bệnh viện trung tâm của Pancevo đã tăng 30% từ khi NATO ném bom tới nay. Số lượng bệnh nhân bị các bệnh lạ do môi trường bị ô nhiễm gây ra đang tăng lên rõ rệt. Phụ nữ mang thai tại Pancevo đã được khuyến cáo nên phá thai để tránh sinh con bị dị tật do ảnh hưởng của nạn ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Báo Sài Gòn giải phóng
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:57:55 GMT -5
17 CÁ NHÂN/ TỔ CHỨC ĐƯỢC TRAO GIẢI THƯỞNG GLOBAL 500 NĂM 1999 CỦA UNEP
Bà Bebe Arcifa Khan- Ajodha người Trinidat và Tôbagô: đã dược trao giải do đã có các thành tích sau:
* Tích cực truyền bá giáo dục môi trường trong đất nước mình, giúp cho việc đưa chương trình giáo dục môi trường vào trong các chương trình giáo dục khoa học và xã hội quốc gia.
* Phát triển và thực thi các kế hoạch bảo tồn dài hạn và điều phối một chương trình nghiên cứu về khu bảo tồn San Fernando Hill, là vùng đã bị trọc hoá do khai thác đá quý trái phép.
* Góp công xây dựng một chính sách tổng thể về giáo dục môi trường (thông qua Cục Môi trường Quốc gia) trình lên Văn phòng Chính phủ vào năm 1998.
* Đã viết và xuất bản nhiều tài liệu giới thiệu với công chúng về các vấn đề đại dương, sự phát thải của các phương tiện vận tải và nhiễm độc chì; tổ chức được rất nhiều cuộc hôi thảo nhằm xuất bản các cuốn sách nhỏ, các tờ rơi nhằm giới thiệu về các hoạt động bảo vệ môi trường cho trẻ em.
* Biên tập cuốn từ điển chuyên ngành về môi trường cho Bộ Kế hoạch và Môi trường, là cuốn sách đã được phân phát cho tất cả các trường học trên khắp đất nước.
Bà Khan-Ajodha cũng là một trong những sáng lập viên của học niện kỹ thuật về quản lý môi trường San Fernado và là giảng viên về khoa học môi trường của Trường cao đẳng sư phạm Corinth. Bà hiện là thành viên của Uỷ ban Bảo tồn động vật hoang dã. (Uỷ ban tư vấn cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Bảo tồn động vật hoang dã) và đã phát động phong trào thành lập các câu lạc bộ môi trường trong các trường học. Năm 1997, bà đã dược đề cử là người phụ nữ trong năm do các hoạt động môi trường của mình.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:59:10 GMT -5
1.Hội phụ nữ Trung Quốc (All- China Women"s Federation): được trao giải do có nhiều nỗ lực thúc đẩy việc trồng cây xanh nhằm bảo vệ môi trường. Kể từ ngày 8/3/1990, tổ chức này đã bắt đầu phát động Chương trình công nghệ cây xanh (Green Engineering Progamme). Sáu năm sau đó, chương trình này đã thu hút được hơn 120 triệu phụ nữ nông thôn và thành thị trên toàn quốc. Hàng năm, phát động và tổ chức trồng cây tự nguyện, tính đến nay đã trồng được khoảng 4,2 tỷ cây xanh. Vào năm 1995, trong thời gian diễn ra Hội nghị phụ nữ thế giới được tổ chức ở Bắc Kinh. Hội đã tổ chức trồng được 500 cây thông và bách tại vùng Huairou ngoại ô Bắc Kinh. Kể từ năm 1993, Hội đã bắt đầu có những hoạt động nhằm phát động phong trào trồng cây ở 22 thành phố và 16 tỉnh của Trung Quốc, khuyến khích phụ nữ trồng cây xanh, các thảm cỏ làm cho thành phố xanh hơn và đẹp hơn. Hội đã hỗ trợ và tạo điều kiện cho hơn 80 triệu phụ nữ được tham gia các khoá đào tạo về ứng dụng và các công nghệ mới trong công tác trồng cây gây rừng. Hội phụ nữ Trung Quốc đã đóng một vai trò rất quan trọng trong công tác trồng cây gây rừng và các hoạt động nâng cao chất lượng môi trường trên toàn lãnh thổ Trung Quốc.
2.Ông Vilma Berna: là một nhà báo người Braxin đã được trao giải thưởng vì những đóng góp to lớn trong việc nâng cao nhận thức môi trường cộng đồng tại nước mình thông qua các tác phẩm và bài báo của mình. Từ năm 1982, ông Vilma Berna làm việc cho một tổ chức phi chính phủ ở Sao Gancalo ( thuộc bang Rio de Janeiro, Braxin). Ông là người đã tạo lập nên đội ngũ những người viết báo bảo vệ rừng ở Braxin và bằng các bài baó của mình đã đóng góp một phần đáng kể vào việc kêu gọi từ bỏ kế hoạch lập bãi chôn rác thải trong một khu bảo tồn của Braxin, đe doạ sự tồn tại của các khu rừng ngập mặn. Thông qua tổ chức của mình, Vilma đã thành công trong việc bảo tồn được 3.000 ha rừng và xây dựng nên công viên quốc gia Serra da Tiririca, thúc đẩy việc ban hành luật đảm bảo quyền lợi của hơn 15.000 người dân bản địa sinh sống trong các khu bảo tồn bang Rio de Janeiro. Ông cũng là nhân vật đóng một vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền và giáo dục moi trường cho lớp trẻ Braxin thông qua việc xuất bản rất nhiều sách, báo trong lĩnh vực này.
3.Ông Kenneth Chamberlain: người Anh, lamf việc cho Hiệp hội du lịch vùng châu Á và Thái Bình dương (PATA), được trao giải thưởng do đã có những cống hiến to lớn trong việc định hướng ngành công nghiệp du lịch theo hướng phát triển bền vững. Năm 1974 ông bắt đầu làm việc cho PATA với cương vị là Giám đốc phát triển và ông đã là một trong những chuyên gia đầu tiên có quan điểm cho rằng du lịch là một hoạt động có tiềm năng phá huỷ môi trường. Trong một thời gian dài, trước khi khái niệm " du lịch bền vững" trởi nên phổ biến. Kenneth cũng đã làm việc không mệt mỏi nhằm thúc đẩy việc hoà nhập giữa du lịch và phát triển và từng bước thực thi các chiến lược để có được một ngành du lịch bền vững. Ông đã có những đóng góp đáng kể trong việc nâng cao nhận thức môi trường cho ngành công nghiệp du lịch thông qua việc tổ chức rất nhiều hội thảo về du lịch và các khu di sản ở vùng châu Á và Thái Bình Dương, thúc đẩy việc thành lập quĩ PATA, ông đã chú trọng đến việc nâng cao năng lực trong lĩnh vực quản lý tổng hợp và bảo tồn thiên nhiên. Ông đã hợp tác với nhiều tổ chức, hiện là chuyên gia tư vấn cho các tổ chức UNEP, Hiệp hội du lịch thws giới, Quĩ PATA, Quĩ môi trường Himalaya.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 5:59:38 GMT -5
4.Tổ chức hành động môi trường toàn cầu (Global Environment Action- GEA): là một tổ chức phi chính phủ của Nhật được thành lập năm 1991, được trao giải do đã có những đóng góp trong việc đưa ra các quyết định có liên quan đến chính sách, công nghiệp và giáo dục nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. GEA hợp tác rất chặt chẽ với các tổ chức của UN. Tháng 3/1992, 3 tháng trước khi diễn ra Hội nghị thượng đỉnh Rio, GEA đã phối hợp với Uỷ ban môi trường và phát triển của Liên hiệp quốc tổ chức hội nghị quốc tế đầu tiên ở Tokyo bàn về việc tài trợ cho các chương trình môi trường và phát triển toàn cầu. Các kết quả của hội nghị này đã được trình bày tại khoá họp đặc biệt của Hội nghị thượng đỉnh Rio92 và đã đặt nền móng cho các thành công của các khoá họp này. Năm 1994, GEA đã phối hợp với tổ chức UNCSD tổ chức thành công hôi nghị quốc tế thứ hai mang tên "Hội nghị Tokyo về hành động môi trường". Các kết quả của hội nghị này là căn cứ để xây dựng. Tuyên bố Tokyo năm 1994 và đã dược gửi cho toàn thế giới nhằm kêu gọi sự hợp tác quốc tế mạnh hơn, sâu hơn và các hành động mang tính toàn cầu nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Năm 1997, GEA tổ chức họi nghị quốc tế ần thứ 3 mang tên "Hội nghị hợp tác toàn cầu về môi trường" nhằm mục đích việc đánh giá thực thi Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21).
5.Ông Sampson Osew Larbi: Người Ghana, được nhận giải do những nỗ lực nhằm khuyến khích nông dân nghèo Ghana áp dụng phương thức canh tác phát nương phổ biến ( slash and mulch farming system- SMS) thay cho phương thức đốt nương làm rẫy (Slash and burn farming sýtem) góp phần làm giảm lượng phát thải khí nhà kính và tạo nên môi trường không khí tốt hơn phục vụ cho canh tác ở các địa phương thuộc Ghana. Trong giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1990, ông đã tổ chức được 800 nông dân tham gia trồng 400.000 cây co coa, 20.000 cây cọ hạt dầu bằng phương thức SMS. Từ năm 1994 đến năm 1998, ông đã ươm gần 200.000 cây bạch đàn và một số loài cây khác cung cấp cho khoảng 250 nông dân để trồng mà không sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu và các chất hoá học, do đó đã tạo nên được sự cân bằng sinh thái cần thiết cho sản xuất nông nghiệp bền vững. Với nỗ lực nhằm xoá bỏ nghèo đói, ông đã thực hiện giáo dục môi trường cho phụ nữ và những người không có đất đai, dạy họ cách trồng các loại rau. Trong năm 1999, ông đã ươm trồng được 500.000 cây bạch đàn và các cây khác để phân phối cho 600 nông dân trồng. Nhờ những nỗ lực của ông Larbi trong việc trồng cây lấy gỗ củi mà đã giảm được sức ép đối với các khu rừng già, đồng thời giúp cho việc bảo vệ đất, chống sa mạc hoá, giảm nạn phá rừng và bảo vệ các hệ động thực vật ở Ghana.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 6:00:51 GMT -5
6.Captain Khrishanan Nair: Người Ấn Độ, được nhận các giải thưởng do các hoạt động nhằm bảo vệ môi trường như xây dựng một khu khách sạn thân thiện với môi trường ( có trồng nhiều cây xanh, tạo điều kiện cho du khác được hưởng thụ cái đẹp của thiên nhiên), Trồng cây xanh ở thành phố Mumbai (Ấn Độ ), giáo dục nhằm nâng cao nhận thức môi trường cho người dân nghèo ở thành phố của ông v.v...
7.Tiến sĩ Makoto Numata: Người Nhật Bản, được nhận giải do đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp bảo vệ rừng tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Từ năm 1960, TS. Numata đã là thành viên của Tổ chức bảo tồn thiân nhiên Nhật Bản. Với cương vị là thành viên của Uỷ ban cứu hộ các loài của IUCN, ông đã biên soạn danh mục các loài cây của Nhật Bản vào năm 1989 và danh sách đỏ về các loài thực vật của Nhật Bản năm 1990. Ông còn là thành viên của Uỷ ban giáo dục và liên lạc của IUCN và đã có nhiều đóng góp trong việc thành lập Học viện đào tạo môi trường của Nhật Bản vào năm 1990. Ông cũng là người đứng ra tổ chức hội nghị lần thứ hai về khu bảo tồn và vườn quốc gia thuộc vùng đông Á và năm 1996 đã biên soạn một trong những ké hoạch hành động cho việc phất triển các khu bảo tồn trong vùng.
8.Pennsylvania Senior Environment Corps (PaSEC): được trao giải do có nhiều hoạt động hữu ích nhằm bảo vệ môi trường. Là một tổ chức liên minh trong các hoạt động bảo vệ môi trường phi lợi nhuận và có qui mô toàn quốc của Mỹ, các mục tiêu của PaSEC là: Làm cho những người cao tuổi Mỹ tham gia nhiều hơn trong các hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề môi trường ở từng địa phương; cung cấp các thông tin môi trường có chất lượng về các mối quan tâm về môi trường trwn toàn nước Mỹ; làm thay đổi cách nhìn nhận của các quan chức từ xem thường sang coi trọng các vấn đề môi trường; cải thiện sức khoẻ những người nghỉ hưu; sử dụng kỹ năng và khả năng lãnh đạo của những người có kinh nghiệm lâu năm trong các hoạt động bảo vệ môi trường ở cộng đồng. Được thành lập vào 1997, hiện nay đã có hơn 300 công dân cao tuổi tình nhuyện tham gia. Trong hai năm đầu tiên, đã thúc đẩy tiến hành quan trắc chất lượng nước ( khoảng 250 điểm quan trắc chất lượng nước được đo đạc và kiểm tra hàng tháng). Những người tình nguyện trong Tổ chức này còn tiến hành điều tra khảo sát về sinh học, tất cả các dữ liệu thu thập được đã được đưa vào cơ sở dữ liệu do EASI (Liên minh môi trường của những người cao tuổi Mỹ ) xây dựng.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 6:01:46 GMT -5
9.Hiệp hội các tộc người bản địa vùng phương Bắc của Nga (Russian Association of Indigenous People of the North- RAIPON): Được nhận giải thưởng do có nhiều đóng góp cho các hoạt động nhằm bảo vệ môi trường ở vùng bắc cực thuộc Nga. Được thành lập 1990 tại hội nghị những tộc người bản địa Nga. RAIPON có khoảng 190.000 hội viên hoạt động ở 29 chi nhánh vùng. Mục tiêu ban đầu của tổ chức là bảo vệ và nâng cao quyền lợi của người bản địa ở Sibêri và các nước vùng viễn đông. RAIPON đã tổ chức nhiều chiến dịch nhằm bảo vệ rừng và các loài động vật, tổ chức được hội nghị gồm 29 người đứng đầu các chi nhánh vùng của Hiệp hội để bàn về các vấn đề môi trường tác động đến lối sống của những người bản địa ở đây soạn thảo. RAIPON là thành viên thường trực của Hội đồng bắc cực, và đã có rất nhiều đóng góp trong việc bảo vệ môi trường, các hệ động và thực vật của vùng bắc cực. Nếu không có những đóng góp của tổ chức này và những kiến thức của người dân bản địa thì vấn đề bảo vệ môi trường ở vùng bắc cực thuộc Nga có lẽ đã không thể giải quyết nổi.
10. Bà Verna Simpon:Được nhận giải thưởng do đã sử dụng những kinh nghiệm trong kinh doanh và tiếp thị của mình để baỏ tồn các loài động vật hoang dã. Năm 1981, khi đang quản lý một công ty mua bán hàng qua bưu điện lớn nhất Ôxtrâylia, bà đã được bầu làm giấm đốc Quỹ động vật Ôxtrâylia vừa mới thành lập (Fund for Animals Australia- FFA). Trong thời gian làm việc cho FFA, bà đã thành lập được TRAFFIC Australia Office và thiết lập được một chương trình trao giải thưởng cho các tổ chức phi Chính phủ có đóng góp cho các hoạt động bảo vệ động vật hoang dã. Năm 1994, bà thành lập Humane Society lnternational (HSI) và chỉ 5 năm sau tổ chức này đã trở thành một trong các tổ chức phi Chính phủ hoạt động có hiệu quả nhất ở Ôxtrâylia. Bà đã có rất nhiều đóng góp cho các phong trào, hoạt động bảo vệ động vật hoang dã ở Ôxtrâylia.
11. Giáo sư Masayuki Tanaka: Được nhận giải thưởng do có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về các loại hơi, khí nhà kính tác động đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Hiện nay giáo sư Tanaka đang giảng dạy tại trường Đại học tổng hợp Tohoku.
12. Hãng ôtô Toyota: Được nhận giải thưởng do không ngừng nỗ lực trong nghiên cứu, sản xuất và phân phối các loại sản phẩm phương tiện vận tải ít phát thải khí gây ô nhiễm và thân thiện với môi trường, luôn chú trọng đến phát triển bền vững trong các chiến lược kinh doanh của mình. Toyota là một trong những hãng năng nổ nhất trong việc nghiên cứu chế tạo các loại xe sử dụng tế bào điện và đã thu được thành công trong việc chạy thử nghiệm. Toyota cũng là công ty luôn luôn tích cực trong việc tuân theo ISO 14.000.
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 6:06:59 GMT -5
13. Enviroworks: Được nhận giải do có nhiều đóng góp trong các hoạt động bảo vệ môi trường ở Canada. Là một chương trình được thành lập cách đây 5 năm theo sáng kiến của các học sinh trường trung học ở Limestone nhằm mục đích tạo sự quan tâm và gây áp lực đối với các khu chôn lấp rác thải xây dựng tại các thành phố Kingston, Ontario của Canada. Tổ chức này thu lượm các loại đồ phế thải xây dựng như các loại vật liệu, cửa ra vào, cửa sổ bỏ đi, các bồn tắm, bể tắm cũ và thông qua các hợp đồng, các tổ chức bán lại các đồ thu lượm được cho những người dân có nhu cầu sử dụng đồ cũ. Bằng cách vận dụng các cơ sở kinh doanh, các nhà lãnh đạo, tổ chức các chiến dịch đào tạo và nâng cao nhận thức, các chuyến du lịch, những sinh viên thuộc tổ chức này đã khuyến khích và thúc đẩy toàn bộ cộng đồng tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường và thay đổi cách suy nghĩ và thói quen của người dân trong vứt bỏ rác thải. Hiện nay đã có khoảng 300 cơ sở kinh doanh và 5000 cư dân tham gia trong các hoạt động của Envirowork tổ chức. Trong 4 năm trở lại đây đã có khoảng 120 sinh viên tham gia trong chương trình này.
14. Junior Eco- Club:Được nhận giải do có nhiều đóng góp trong các hoạt động giáo dục và nâng cao nhận thức môi trường và các hoạt động bảo tồn ở Nhật Bản. Được thành lập năm 1995, hiện mạng lưới của Junior Eco-club đã có hơn 70.000 học sinh trung học và tiểu học tham gia. Tổ chức này đã góp phần nâng cao nhận thức môi trường trong giới trẻ Nhật Bản.
15. Em gái Kruti Pare: Là một ảo thuật gia nhỏ tuổi (năm nay 13 tuổi), được trao giải do đã sử dụng những tiết mục của mình để truyền tải các thông điệp về môi trường.
16. Water Partnership Project: Được trao giải thưởng do có nhiều đóng góp nhằm sử dụng hợp lý nà bảo vệ tài nguyên ở nước Nam Phi. Dự án được thành lập năm 1997 theo sáng kiến của các học sinh trường tiểu học Eastville và John Graham của Nam Phi để hưởng ứng việc bắt đầu thực thi "Tầm nhìn 2020 về các dự án nước cho các trường học".
T.K.O
Theo tài liệu của UNEP
|
|
|
Post by Robot on Apr 16, 2004 6:10:17 GMT -5
GẦN 4000 NGƯỜI TẠI ĐỒNG NAI BỊ NHIỄM CHẤT ĐỘC HOÁ HỌC
Theo số liệu thống kê, tỉnh Đồng Nai hiện có gần 4000 người có khả năng bị ảnh hưởng chất độc hóa học, bao gồm cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cách mạng, cán bộ dân chính đảng, thanh niên xung phong dân công hoả tuyến, dân thường và các đối tượng khác đã từng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, hoặc đã hoạt động, sinh sống ở những vùng đã bị Mỹ rải chất độc hoá học. Con cháu của họ sinh ra bị dị tật, chết non hoặc bản thân họ bị bệnh hiểm nghèo do chất độc hoá học gây ra từ trước năm 1975.
THỪA THIÊN HUẾ PHÁT HIỆN CHẤT ĐỘC HOÁ HỌC TRÊN RẪY CỦA DÂN
Nhận được tin báo có một số thùng phi chứa chất độc hoá học được phát hiện ở xã Thượng Quảng, huyện Nam Đông, Sở khoa học, Công nghệ và môi trường đã phối hợp với BCH Quân sự tỉnh tiến hành kiểm soát thực địa và xác nhận có 5 thùng phi đã rỉ sét chứa chất độc hoá học tại rẫy, bên trong phi có các bao 3 lớp: bao bên ngoài màu trắng, bên trong đựng các chất dạng bột màu vàng nhạt gay cay sốc nhẹ, ở đầu thùng phi có kíp nổ... Được biết, đây là địa điểm thứ 4 có chất độc hoá học chiến tranh được phát hiện tại Thừa Thiên Huế.
CẨN THẨN, NƯỚC MƯA CŨNG BỊ Ô NHIỄM THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT
Các nghiên cứu ở Thuỵ Sỹ đã chỉ ra rằng, nước mưa có chứa nồng độ rất cao các chất hoá học hay được dùng trong nông nghiệp. Người ta cho rằng, các hoá chất có trong nước mưa bốc hơi từ những cánh đồng trồng trọt và tích tụ trong các đám mây. Uỷ ban Châu Âu và Thuỵ Sỹ đã giới hạn nồng độ bất cứ một loại thuốc BVTV cho phép có trong một lít nước uống là 100 nanogam (một anogam bằng 10-9g). Song nước mưa chứa lượng các chất độc này cao hơn nhiều, đặc biệt là nước mưa trong những phút đầu tiên của trận mưa lớn.
|
|