Post by chumanhdang on Aug 5, 2004 2:21:27 GMT -5
THÙNG LÀM SẠCH NƯỚC THẢI
(Quân đội nhân dân)
Hàng ngày, trung bình mỗi một người dân thành thị sử dụng khoảng 150 lít nước. Phần lớn lượng nước đó, sau khi đã qua sử dụng, đều được thải ra hệ thống thoát nước thành phố, mang theo nhiều chất bẩn hữu cơ và vô cơ, các vi khuẩn, vi trùng gây bệnh.
Thời gian qua, Trung tâm kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp Trường đại học Xây dựng đã phối hợp với các công ty và tổ chức nước ngoài nghiên cứu thử nghiệm, lắp đặt mô hình thùng làm sạch nước thải sinh hoạt quy mô nhỏ trong điều kiện Việt Nam. Mục tiêu và nội dung của chương trình nghiên cứu là lắp đặt và đưa vào sử dụng hai thiết bị quy mô vừa và nhỏ tại 2 địa điểm ở Hà Nội, phân tích chất lượng nước, xác định lượng nước và điện tiêu thụ, nghiên cứu quy trình và thiết lập các chế độ vận hành, quản lý và bảo dưỡng thiết bị, nhằm xác định tính thích hợp của công nghệ này trong điều kiện nước ta.
Thiết bị hoạt động theo nguyên tắc xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học, gồm 2 thùng bố trí nối tiếp. Nước thải sinh hoạt từ nhà vệ sinh, chậu rửa nhà bếp, nhà tắm, giặt... được chảy vào thùng thứ nhất có hai ngăn, ngăn thứ nhất (ngăn lắng + lên men yếm khí), rồi tràn qua máng vào ngăn hai (ngăn yếm khí). Sau ngăn xử lý yếm khí, nước thải được xử lý hiếu khí trong ngăn sục khí tiếp tục với khối vật liệu tiếp xúc gồm các tấm làm bằng chất dẻo có bề mặt lượn sóng. Không khí được thổi vào ngăn này qua quạt gió và hệ thống ống phân khối. Sau đó, nước từ ngăn này được đưa sang ngăn lắng và chuyển động từ dưới lên trên. Sau đó, nước thải đã làm sạch chảy ra ngoài qua máng tràn. Bùn (màng vi sinh vật) tách ra khỏi nước từ ngăn hiếu khí tiếp tục được đưa trở lại xử lý trong ngăn yếm khí bằng thiết bị nâng khí ép. Lưu lượng không khí cấp cho thùng sục khí tiếp xúc và lượng bùn trở lại ngăn yếm khí có thể điều chỉnh bằng hệ thống van và tấm chắn.
Tại thùng thứ hai, nước thải được làm sạch bậc 3 trên nguyên tắc sục khí tiếp xúc. Không khí từ quạt gió, qua hệ thống ống dẫn và phân phối bằng chất dẻo được dẫn vào ngăn hiếu khí có các khối vật liệu tiếp xúc. Chất lượng nước sau xử lý có thể đạt tiêu chuẩn nguồn nước mặt loại A theo TCVN 5942- 1995.
Trong giai đoạn thử nghiệm, 2 thiết bị đã được lắp đặt tại trung tâm kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp 10 - 20 người sử dụng và tại một hộ gia đình 5 người.
Các kết quả phân tích và theo dõi chế độ làm việc của thiết bị cho thấy hiệu suất làm sạch cao và tương đối ổn định. Nó được thiết kế và sản xuất với các kích thước theo từng loại đối tượng sử dụng: Cho các hộ gia đình, các khách sạn, nhà hàng, điểm dịch vụ... với số người được phục vụ từ 5 - 10 người (1-2m3 nước thải/ngày đêm) hay nhiều hơn. Cũng có thể lắp đặt nhiều thiết bị cho một trạm xử lý nước thải của một cơ quan, ký túc xá, trường học, bệnh viện, khách sạn hay cụm dân cư... Mô hình này là giải pháp thích hợp, cho phép các cơ sở chủ động xây dựng công trình xử lý nước thải trong khu vực của mình, phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo vệ sinh môi trường và sử dụng tuần hoàn nước.
Nguyễn Đoàn.
(Quân đội nhân dân)
Hàng ngày, trung bình mỗi một người dân thành thị sử dụng khoảng 150 lít nước. Phần lớn lượng nước đó, sau khi đã qua sử dụng, đều được thải ra hệ thống thoát nước thành phố, mang theo nhiều chất bẩn hữu cơ và vô cơ, các vi khuẩn, vi trùng gây bệnh.
Thời gian qua, Trung tâm kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp Trường đại học Xây dựng đã phối hợp với các công ty và tổ chức nước ngoài nghiên cứu thử nghiệm, lắp đặt mô hình thùng làm sạch nước thải sinh hoạt quy mô nhỏ trong điều kiện Việt Nam. Mục tiêu và nội dung của chương trình nghiên cứu là lắp đặt và đưa vào sử dụng hai thiết bị quy mô vừa và nhỏ tại 2 địa điểm ở Hà Nội, phân tích chất lượng nước, xác định lượng nước và điện tiêu thụ, nghiên cứu quy trình và thiết lập các chế độ vận hành, quản lý và bảo dưỡng thiết bị, nhằm xác định tính thích hợp của công nghệ này trong điều kiện nước ta.
Thiết bị hoạt động theo nguyên tắc xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học, gồm 2 thùng bố trí nối tiếp. Nước thải sinh hoạt từ nhà vệ sinh, chậu rửa nhà bếp, nhà tắm, giặt... được chảy vào thùng thứ nhất có hai ngăn, ngăn thứ nhất (ngăn lắng + lên men yếm khí), rồi tràn qua máng vào ngăn hai (ngăn yếm khí). Sau ngăn xử lý yếm khí, nước thải được xử lý hiếu khí trong ngăn sục khí tiếp tục với khối vật liệu tiếp xúc gồm các tấm làm bằng chất dẻo có bề mặt lượn sóng. Không khí được thổi vào ngăn này qua quạt gió và hệ thống ống phân khối. Sau đó, nước từ ngăn này được đưa sang ngăn lắng và chuyển động từ dưới lên trên. Sau đó, nước thải đã làm sạch chảy ra ngoài qua máng tràn. Bùn (màng vi sinh vật) tách ra khỏi nước từ ngăn hiếu khí tiếp tục được đưa trở lại xử lý trong ngăn yếm khí bằng thiết bị nâng khí ép. Lưu lượng không khí cấp cho thùng sục khí tiếp xúc và lượng bùn trở lại ngăn yếm khí có thể điều chỉnh bằng hệ thống van và tấm chắn.
Tại thùng thứ hai, nước thải được làm sạch bậc 3 trên nguyên tắc sục khí tiếp xúc. Không khí từ quạt gió, qua hệ thống ống dẫn và phân phối bằng chất dẻo được dẫn vào ngăn hiếu khí có các khối vật liệu tiếp xúc. Chất lượng nước sau xử lý có thể đạt tiêu chuẩn nguồn nước mặt loại A theo TCVN 5942- 1995.
Trong giai đoạn thử nghiệm, 2 thiết bị đã được lắp đặt tại trung tâm kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp 10 - 20 người sử dụng và tại một hộ gia đình 5 người.
Các kết quả phân tích và theo dõi chế độ làm việc của thiết bị cho thấy hiệu suất làm sạch cao và tương đối ổn định. Nó được thiết kế và sản xuất với các kích thước theo từng loại đối tượng sử dụng: Cho các hộ gia đình, các khách sạn, nhà hàng, điểm dịch vụ... với số người được phục vụ từ 5 - 10 người (1-2m3 nước thải/ngày đêm) hay nhiều hơn. Cũng có thể lắp đặt nhiều thiết bị cho một trạm xử lý nước thải của một cơ quan, ký túc xá, trường học, bệnh viện, khách sạn hay cụm dân cư... Mô hình này là giải pháp thích hợp, cho phép các cơ sở chủ động xây dựng công trình xử lý nước thải trong khu vực của mình, phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo vệ sinh môi trường và sử dụng tuần hoàn nước.
Nguyễn Đoàn.