|
Tin
Nov 11, 2004 9:41:53 GMT -5
Post by Robot on Nov 11, 2004 9:41:53 GMT -5
Trung Quốc công bố lượng khí thải nhà kính 10/11/2004
Trung Quốc lần đầu tiên chính thức tiết lộ lượng khí nhà kính mà nước này thải ra: 2,6 tỷ tấn CO2, 34,29 triệu tấn mêtan và 850.000 tấn nitơ ôxít vào năm 1994. Soạn: AM 191499 gửi đến 996 để nhận ảnh này qua MMS
Ống khói nhà máy tại Trung Quốc.
Những con số trên được đưa ra khi Trung Quốc tham gia vào Công ước khung của LHQ về thay đổi khí hậu. Theo các chuyên gia, tuy chưa được công bố song lượng khí thải gần đây chắc chắn sẽ cao hơn nhiều so với dữ liệu năm 1994. Mặc dù lượng khí thải trên đầu người của Trung Quốc tương đối thấp, xét về mặt tổng thể, nước này là quốc gia thải khí lớn thứ hai trên thế giới (sau Mỹ ).
Báo cáo của Trung Quốc được công bố sau khi gần 250 nhà khoa học trên thế giới đưa ra một báo cáo khác. Mức băng trung bình ở biển Bắc cực đã giảm khoảng 8% trong 30 năm qua. Vào năm 2100, mực nước biển sẽ tăng 20-90 cm và nhiệt độ toàn cầu tăng thêm 4-7 độ C.
Theo Khalid Malik, điều phối viên thường trú của LHQ tại Bắc Kinh, vấn đề không nằm ở chỗ con số. Tuy lượng khí thải bình quân đầu người vẫn còn tương đối thấp song tổng khối lượng khí thải lại đang tăng nhanh tại Trung Quốc. Trong những năm tới, lượng khí thải nhà kính sẽ trở thành vấn đề lớn ở nước này. Do mục tiêu của Trung Quốc là tăng gấp bốn tổng sản phẩm quốc nội tới năm 2020 nên mức tiêu thụ năng lượng sẽ tăng mạnh. Trong khi đó, nước này vẫn phụ thuộc vào nhiên liệu hoá thạch chứ không phải các nguồn năng lượng sạch hơn.
Không giống các nước phát triển, Trung Quốc và các quốc gia đang phát triển khác đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto song không bị buộc phải giảm 5,2% tổng mức phát thải 6 loại khí nhà kính tới năm 2008-2012 so với mức 1990. Tuy nhiên, Malik nói rằng Trung Quốc đóng vai trò then chốt trong cuộc chiến chống ấm hoá toàn cầu. Nguyên nhân là nước này tiêu thụ năng lượng nhiều thứ hai trên thế giới, với 10% tổng mức tiêu thụ toàn cầu. Sự tham gia tích cực của Trung Quốc vào cuộc chiến chống thay đổi khí hậu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Báo cáo Thông tin quốc gia sơ bộ về thay đổi khí hậu của Trung Quốc cho thấy một bức tranh tương tự nhiều quốc gia khác - thời tiết khắc nhiệt do thay đổi khí hậu gây ra sẽ tăng lên, dẫn tới hạn hán và lũ lụt thường xuyên hơn. Sản lượng các loại cây trồng lớn có thể giảm và chi phí của hoạt động nông nghiệp trong tương lai sẽ tăng lên.
Các quan chức Trung Quốc nói rằng Chính phủ nước này sẽ tăng cường nỗ lực nâng cao ý thức của người dân về giảm thiểu khí thải nhà kính. Tuy nhiên, sự tăng trưởng dân số, đô thị hoá và tăng trưởng kinh tế sẽ làm tăng lượng khí thải. Gao Feng, Phó Tổng giám đốc Cục Hiệp ước và Luật của Bộ Ngoại giao, nói: ''Khí thải nhà kính ở Trung Quốc sẽ cao hơn nhiều trong tương lai. Với sự gia tăng dân số, mức tiêu thụ năng lượng trên đầu người sẽ cao hơn''. Dự đoán đến năm 2043, dân số Trung Quốc sẽ tăng thêm 300 triệu người.
* Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Tin
Nov 12, 2004 13:45:54 GMT -5
Post by Oshin on Nov 12, 2004 13:45:54 GMT -5
Đương đầu với đại hạn
(TTXVN, 11/11/2004)
Miền Đông Nam Bộ đang đứng trước nỗi lo khô hạn, cơn đại hạn lớn nhất trong nhiều năm qua, và dự báo thiệt hại về kinh tế do hạn hán sẽ rất lớn.
Theo Đài Khí tượng thủy văn Nam Bộ, do lượng mưa năm nay giảm hơn 40% so với mức trung bình nhiều năm nên sông, suối nhỏ ở đầu nguồn rơi vào tình trạng cạn kiệt nước cho dù mới bắt đầu vào mùa khô. Mực nước sông Đồng Nai ở các trạm Tà Lài, Phú Hiệp đã thấp hơn 70cm so với năm có mực nước thấp nhất trước đây.
Mực nước hồ Dầu Tiếng - hồ thủy lợi lớn nhất Nam Bộ - hiện thấp hơn tới 3m so với mực nước dâng bình thường. Mực nước ở các hồ Trị An, Thác Mơ, Sông Quao, Suối Khoai, Đá Bàn cũng đều thấp hơn cao trình thiết kế.
Mực nước sông Hồng đang xuống thấp cũng đã khiến hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải có nguy cơ thiếu nước trầm trọng, đe dọa hoạt động sản xuất nông nghiệp tại một số khu vực ở Đồng bằng sông Hồng.
Trong khi đó, đoạn sông Hồng từ cầu Long Biên đến cầu Chương Dương đang diễn ra tình trạng bồi lắng phù sa, gây cản trở rất lớn cho dòng chảy đổ về cửa khẩu Xuân Quan (Hưng Yên), đầu mối bơm nước vào hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải.
Thiệt hại về sản xuất đã xảy ra ở nhiều nơi. Tại Bình Thuận, đã có hơn 9.300ha lúa mùa bị hạn, trong đó hơn 6.500ha bị mất trắng, 604ha giảm năng suất từ 40-60%, chưa kể hàng ngàn ha ngô, bông, sắn, hoa màu bị hư hại nặng. Tổng thiệt hại ban đầu ước tính hơn 10 tỷ đồng.
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu hiện có 11.381ha lúa mùa chưa thu hoạch, nhưng tỉnh chỉ có thể đảm bảo nước tưới cho 3.370ha.
Nhiều diện tích trồng hồ tiêu, cà phê ở Bình Phước cũng đang bị thiếu nước nghiêm trọng, người dân phải áp dụng các biện pháp ủ gốc giữ ẩm, tưới nhỏ giọt để cứu cây. Ở một số vùng thuộc khu vực miền Đông, cây công nghiệp ngắn ngày bắt đầu bị hư hại
|
|
|
Tin
Dec 8, 2004 9:50:15 GMT -5
Post by Robot on Dec 8, 2004 9:50:15 GMT -5
Mỹ tiếp tục bác bỏ Nghị định Kyoto
TTO - Ngày 7-12, tại Buenos Aires (Argentina), ngày thứ hai của hội nghị quốc tế do LHQ tổ chức về những thay đổi khí hậu, phái đoàn Mỹ công bố quyết định nước này không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto về hạn chế khí thải gây hiệu ứng nhà kính
Phát biểu tại hội nghị, đại biểu của Mỹ, Harlan Watson, nói Mỹ đã có một chọn lựa khác khi đề cập đến việc chính quyền Mỹ đã chi năm tỷ USD/năm cho nghiên cứu và phát triển công nghệ với mục đích hạn chế tình trạng khí hậu Trái đất nóng dần lên. Ông Watson khẳng định chính quyền Mỹ không có ý định thay đổi chính sách này trong tương lai.
Nghị định thư Kyoto đã được 127 nước phê chuẩn và có hiệu lực từ 16 - 2 -2005. Nhưng Mỹ - chiếm 1/4 lượng khí thải toàn cầu - cùng với Úc là hai nước công nghiệp hoá lớn nhất đã từ chối phê chuẩn công ước.
N.TRANG (Theo 24h)
Bồi thường thiệt hại do biến đổi khí hậu?
Hiệu ứng nhà kính làm lượng băng tan ngày càng nhiều
TTO- Trong khuôn khổ Hội nghị thế giới lần thứ 10 về thay đổi khí hậu đang diễn ra ở thủ đô Argentina, các nước đang phát triển lên tiếng yêu cầu các nước công nghiệp thải nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính phải bồi thường những thiệt hại do sự biến đổi khí hậu gây ra.
Đại diện 48 nước chậm phát triển nhất thế giới nêu rõ thay đổi khí hậu gây ra thảm họa khôn lường cho các nước nghèo như bão lụt xảy ra thường xuyên với cường độ ngày càng lớn; hạn hán liên tục tại các nước ôn đới; nhiều dịch bệnh lạ xuất hiện và mực nước biển dâng cao đã ảnh hướng lớn tới các nước đang phát triển do họ không có đủ nguồn tài chính để dự báo và ngăn chặn những thảm họa này.
Đại diện các đảo quốc nhỏ đứng trước nguy cơ bị các đại dương nhấn chìm do nước biển dâng cao đã kịch liệt phê phán các nước công nghiệp phát triển không phê chuẩn Nghị định thư Kyoto và lảng tránh trách nhiệm trong việc giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Đại diện các nước đang phát triển yêu cầu các nước công nghiệp phát triển phải thực hiện cam kết chuyển giao các nguồn tài chính và công nghệ cho các nước đang phát triển để giúp những nước này giảm nhẹ thiệt hại do sự biến đổi khí hậu gây ra, đồng thời kêu gọi tăng cường hợp tác toàn cầu thông qua các biện pháp tài chính cụ thể để các nước nghèo có thể xây dựng được kết cấu hạ tầng đủ sức chống đỡ những tác động của sự biến đổi khí hậu.
M.KA-IPS
|
|
|
Tin
Dec 8, 2004 11:01:27 GMT -5
Post by Robot on Dec 8, 2004 11:01:27 GMT -5
Trung Quốc đứng thứ hai thế giới về thải CO2
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), Trung Quốc hiện là nước thải CO2 lớn thứ hai trên thế giới, chỉ đứng sau Mỹ. Một nhà máy đang thải khí. Báo cáo trên của IEA khẳng định vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc và các nước đang phát triển khác trong vấn đề khí thải nhà kính. Theo IEA, 80% CO2 trong năm 2002 là do 22 quốc gia thải ra. Cho tới nay, Mỹ là nước thải nhiều nhất (23,5%), tiếp theo là Trung Quốc (13,6%), Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Anh và Canada, Hàn Quốc, Italia và Pháp.
Trong năm 1990, Trung Quốc thải 2,289 tỷ tấn CO2. Trong năm 2002, sau khi tổng sản phẩm quốc nội tăng 204% kể từ năm 1990, lượng khí CO2 phát thải của Trung Quốc là 3,307 tỷ tấn, tăng 44,5%. Ngoại trừ Trung Quốc, lượng CO2 phát thải ở châu Á cũng tăng 81,3% từ 1,493 tỷ tấn lên 2,709 tỷ tấn từ năm 1990 tới 2002. Trong năm 2002, lượng khí CO2 phát thải toàn cầu, bắt nguồn từ nhiên liệu hoá thạch, tăng thêm 2%, gấp đôi mức tăng của năm 2001 (0,8%).
Nước Lượng CO2 (%) Mỹ 23,5 Trung Quốc 13,6 Nga 6,2 Nhật Bản 5 Ấn Độ 4,2 Đức 3,5 Anh 2,2 Canada 2,2 Hàn Quốc 1,9 Italia 1,8 Pháp 1,6
Báo cáo của IEA liên quan tới ô nhiễm CO2 do đốt nhiên liệu hoá thạch. Nguồn CO2 này chiếm khoảng 80% tổng khí thải nhà kính. Các nguồn CO2 khác là núi lửa. Gần 20% khí nhà kính còn lại là methane - một loại khí sinh ra từ thực vật đang suy biến và vật nuôi. Báo cáo được đưa ra đúng vào lúc Hội nghị Thay đổi Khí hậu LHQ ở Buenos Aires đang tập trung thảo luận về Nghị định thư Kyoto. Nghị định thư Kyoto, có hiệu lực vào ngày 16/2/2005, thể hiện nỗ lực giải quyết vấn đề khí nhà kính của LHQ. Nó buộc các quốc gia công nghiệp tham gia vào nghị định này cắt giảm lượng khí CO2 trong giai đoạn 2008-2012.
Năm 2001, Mỹ rút khỏi Nghị định thư Kyoto với lý do quá tốn kém để đáp ứng những yêu cầu trong nghị định thư trên. Ngoài ra, nước này cho rằng Nghị định thư không công bằng bởi các nước như Trung Quốc và Ấn Độ với dân số đông và nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh không bị buộc giảm lượng khí thải. Lượng khí CO2 của Mỹ trong thời kỳ 1990-2002 tăng 16,7%, từ 4,843 tỷ tấn lên 5,652 tỷ tấn. Nếu tham gia vào Nghị định thư Kyoto, Mỹ phải cắt giảm 7% lượng CO2 so với mức 1990.
Minh Sơn (Theo AFP)
|
|
|
Tin
Dec 10, 2004 12:41:13 GMT -5
Post by Robot on Dec 10, 2004 12:41:13 GMT -5
Trung Quốc: Tràn dầu tồi tệ nhất trong vòng 5 năm qua TTO - Chiếc tàu chở container chứa 450 tấn dầu nhiên liệu đã va vào một tàu lớn khác gây tràn dầu phía nam bờ biển Trung Quốc, đây được coi là vụ tràn dầu tồi tệ nhất trong vòng 5 năm qua ở nước này.
Vụ tràn dầu xảy ra khi tàu chở dầu của Đức va chạm với thuyền lớn ở Panama gần cửa sông Pear vào tối thứ 3 vừa qua. Dầu đã tràn trên một diện tích rộng 65 đến 656 feet và dài 9 hải lý. Không có người bị thương trong vụ va chạm và cả hai tàu đều không bị chìm.
Dầu tràn đã được khống chế nhưng sẽ phải mất nhiều thời gian để làm sạch vùng biển đã bị dầu làm ô nhiễm. Máy bay trực thăng đang kiểm tra dầu tràn từ trên cao và hàng trăm tấn nguyên liệu dùng để làm sạch dầu tràn đã được đưa đến đây.
Đ.TÂM (Reuters)
|
|
|
Tin
Jan 14, 2005 13:00:47 GMT -5
Post by Robot on Jan 14, 2005 13:00:47 GMT -5
Tại sao năm 2004 lại nhiều thảm họa thiên nhiên?
Năm 2004 bắt đầu bằng một nỗ lực cứu trợ lớn, giống như những gì đang xảy ra ở Đông Nam Á hiện nay. Nhưng thủ phạm huỷ diệt không phải là sóng thần như năm nay. Một trận động đất mạnh đã làm rung chuyển Iran ngay sau Giáng sinh 2003, làm chết 50.000 người và phá huỷ 70% nhà cửa, doanh nghiệp tại thành phố Bam cổ kính.
Trận động đất, hàng loạt bão và lốc xoáy, và giờ đây là sóng thần, đã khiến cho nhiều người tự hỏi tại sao năm 2004 lại nhiều thảm họa thiên nhiên đến thế. Heidi Cullen, nhà khí tượng học kiêm chuyên gia thời tiết khắc nghiệt tại Weather Channel, cho biết, những sự kiện năm ngoái dường như không liên quan gì đến nhau. Bà nói: "Điểm giống nhau là chúng xảy ra cùng một thời kỳ. Với những sự kiện như vậy, chúng ta phải xét đến ba yếu tố khác nhau: thời tiết, khí hậu và địa chất. Tất cả đều được xác định bởi những thang thời gian khác nhau".
Bà nói thêm: "Mẫu thời tiết hình thành rất nhanh. Thay đổi khí hậu diễn ra chậm hơn, còn biến động địa chất thì phải mất một thời gian dài. Vì vậy, mặc dù trái đất là một thực thể liên quan chặt chẽ đến nhau, các sự kiện của năm ngoái vẫn chẳng có quan hệ gì với nhau cả".
Năm 2004 còn là một trong những năm có nhiều cơn bão huỷ diệt nhất-15 cơn bão nhiệt đới, nhiều hơn bình thường 30%. Riêng bang Florida của nước Mỹ đã phải hứng chịu bốn cơn. Lần cuối cùng một bang bị nhiều bão đến vậy xảy ra cách đây 118 năm, tại Texas. Ngạc nhiên lớn nhất mà năm 2004 dành cho thế giới là cơn bão Caterina, tấn công Brazil vào tháng 3. Điều này khiến các nhà khoa học phải kinh ngạc, bởi họ cho rằng bão nhiệt đới không thể hình thành được ở Nam Đại Tây Dương.
Tất cả các cơn bão nói trên đã tạo ra lượng lốc xoáy nhiều đến mức kỷ lục, nhiều hơn 300 so với kỷ lục cũ của năm 1998. Chỉ riêng ở Mỹ đã có tới 1.700 cơn. Tại khu vực Thái Bình Dương, 10 trận bão lớn đã gây sụt lở đất ở Nhật Bản, phá vỡ kỷ lục trước đấy là 6 trận trong một năm.
Thiệt hại mà các thảm họa này gây ra cho năm 2004 là 100 tỷ đô la, nhiều hơn bất kỳ năm nào khác, còn thiệt hại về người thì không thể nào đo nổi. Theo các nhà khoa học, 2004 là năm ấm thứ tư từ trước đến nay, khiến nhiều người phải thắc mắc không hiểu ấm hóa toàn cầu có vai trò gì trong các thảm họa thiên nhiên nói trên. Nhiệt độ cao kỷ lục từ châu Phi cho tới nơi lạnh lẽo như Alaska đã khiến cho mùa màng thất bát, hàng triệu hecta đất bị thiêu đốt. Bang Alaska của Mỹ đã phải chứng kiến một kỷ lục đáng buồn về cháy rừng: 2,6 triệu ha rừng bị đốt rụi.
Cullen cho biết, nhiệt độ trung bình trên thế giới đã tăng 1–1,5oC trong vòng 100 năm qua. Bà nói: "Chúng ta đã làm rất nhiều điều tác động trực tiếp đến việc biến đổi khí hậu toàn cầu - lái xe, dùng điện, thải CO2 vào khí quyển. Về cơ bản, chúng ta đang đoản mạch chu kỳ tự nhiên của mọi vật khi lấy đi một lượng nhiên liệu hóa thạch quá lớn ra khỏi trái đất và bơm vào khí quyển".
Khánh Hà (Theo ABC)
|
|
|
Tin
Jan 17, 2005 15:23:23 GMT -5
Post by Robot on Jan 17, 2005 15:23:23 GMT -5
Thiên tai: không nước nào an toàn
TT - Hôm qua, người Nhật kỷ niệm 10 năm trận động đất Kobe, trận động đất mang đi gần 6.500 mạng sống. Trong bối cảnh thảm họa động đất, sóng thần tại châu Á, lời cảnh báo của các chuyên gia càng trở nên khẩn thiết hơn: không đất nước nào an toàn với thiên tai.
Đa số chuyên gia cho rằng số thiên tai ngày càng tăng hiện nay có liên hệ trực tiếp với hoạt động con người. Theo tạp chí Scientific American, việc hủy hoại môi trường sinh thái truyền thống (thí dụ phá rừng) đã dẫn tới tăng nạn khô hạn, lũ lụt và bão tố.
Ngoài ra, theo dữ liệu của Hội đồng Nghiên cứu quốc gia (Mỹ ), tình trạng đô thị hóa đã góp thêm vai trò tiêu cực, khi những thảm họa thiên nhiên như động đất thường rất nguy hiểm ở những nơi tập trung đông dân cư.
Theo nhà khí hậu học John Twigg, tác giả công trình nghiên cứu "Giảm nhẹ thiệt hại thiên tai", từ thập niên 1970 những thảm họa thiên nhiên mỗi năm đã mang đi trung bình 80.000 mạng người và ảnh hưởng xấu lên cuộc sống của 144.000 người, trong khi theo đánh giá của Đại học Chicago, thiên tai trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 đã tác động tới 2 tỉ người, tức 1/3 nhân loại.
Còn theo Tổ chức Y tế thế giới, dân châu Mỹ và châu Á có nhiều nguy cơ trở thành nạn nhân động đất, lũ lụt hay sự phún xuất của núi lửa hơn là dân châu Âu. Thống kê nhiều năm qua cho thấy người dân các nước đang phát triển là nạn nhân của hơn 90% trường hợp tử vong do thiên tai; trong số 49 nước ít phát triển trên thế giới thì 24 nước nằm trong "vùng nguy cơ", trong đó sáu nước đã phải trải qua 2-8 thiên tai lớn trong 15 năm qua.
Trong những năm 1990, người ta ghi nhận được 84 vụ thiên tai - ba lần nhiều hơn thập niên 1960. Tổng giá trị tổn thất của những thảm họa này lên tới 591 tỉ USD, tức gấp tám lần thập niên 1960.
Đặc biệt, tổn thất mà các thiên tai mang đến cho nước nghèo luôn nhiều hơn các nước giàu. Thí dụ, theo đánh giá của Công ty bảo hiểm Munich Re, thiệt hại mà hiện tượng El Nino mang tới cho Mỹ trong hai năm 1997 - 1998 là 1,96 tỉ USD hay 0,03% GDP. Thế nhưng thảm họa thiên nhiên này làm Ecuador mất trắng 14,6% GDP (2,9 tỉ USD)!
Trận bão Mitch quét qua các nước Trung Mỹ năm 1998 làm tiêu tan thành quả cả thập niên của ngân hàng khu vực này, trong khi băng giá tại Mông Cổ mùa đông năm 2002 làm thiệt hại tới 15% GDP.
Cho dẫu thế, hậu quả của thảm họa thiên nhiên thì đáng sợ như nhau, dù nước giàu hay nước nghèo. Trận động đất dữ dội tại Kobe gây thiệt hại kinh tế ước tính hơn 100 tỉ USD. Đến nay, kinh tế Kobe vẫn chưa gượng dậy nổi. Năm 2003, tám năm sau động đất, khối lượng trao đổi kinh tế của khu vực này vẫn còn thấp hơn mức năm 1994 tới 15%.
Trong khi đó, số vụ thiên tai đang tăng theo từng thập niên, kéo theo đó số nạn nhân và tổn thất kinh tế cũng tăng. Theo Trung tâm nghiên cứu các hậu quả thiên tai, năm 1973- 1982 trên thế giới có 1.500 vụ thiên tai, cướp đi gần 1 triệu mạng sống thì trong những năm từ 1983 - 1992, con số thảm họa tăng tới 3.500 vụ với 1,2 triệu người chết.
Gần đây hơn, giai đoạn 1993-2002: tới 6.000 thiên tai và gần 620.000 người chết. Đó là chưa tính các nạn nhân gián tiếp, tức những người mà nhà cửa bị thiệt hại hay mùa màng bị ảnh hưởng do thiên tai. Nếu tính chung cả số nạn nhân này thì thiệt hại do thiên tai mang đến cho con người còn nhiều hơn của những cuộc chiến tranh vũ trang. Trong thời kỳ từ 1990 - 1999: 188 triệu người bất lực trước sự giận dữ của thiên nhiên so với 31 triệu người là nạn nhân chiến tranh.
DUY VĂN (Theo Washington Profile)
|
|
|
Tin
Jan 21, 2005 10:21:32 GMT -5
Post by Robot on Jan 21, 2005 10:21:32 GMT -5
VN: 30 vùng có nguy cơ động đất mạnh(VietNamNet) - Từ nay, người dân có thể biết được khu vực nơi mình sinh sống có thể bị... động đất hay không. Đó là nhờ vào bản đồ các vùng phát sinh động đất trên lãnh thổ VN, một đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước vừa được nghiệm thu tại Viện Vật lý Địa cầu vào ngày 20/1. Đề tài nói trên có tên gọi là 'Nghiên cứu dự báo động đất và dao động nền ở Việt Nam". Mục tiêu của đề tài là xác định độ nguy hiểm động đất ở Việt Nam, khi có động đất thì nền đất rung động như thế nào và liệu có tìm cách dự báo được không. Phải mất gần ba năm nghiên cứu và với kinh phí 1,8 tỷ đồng, GS Nguyễn Đình Xuyên và cộng sự mới thành lập được bản đồ các vùng phát sinh động đất trên lãnh thổ Việt Nam. Nhờ vào bản đồ này, người ta có thể biết được thời điểm động đất lập lại trong 1.000 năm, 500 năm và 20 năm. Hay, nói cách khác, các nhà khoa học có thể dự báo được động đất tại VN. Phân biệt độ lớn và chấn động Độ lớn hay mức năng lượng mà động đất phát ra được đo bằng độ Richter. Còn chấn động (hay cấp động đất) là rung động mà động đất gây ra trên mặt đất, tác động tới mọi vật trên bề mặt. Càng gần chấn tâm, chấn động càng mạnh. Chấn động được đo bằng thang động đất quốc tế MSK-64. Theo bản đồ nói trên, từ bắc chí nam, VN có tất cả 30 khu vực có thể phát sinh động đất. Mức độ chấn động của động đất nằm trong khoảng từ 5,5 - 6,8 độ Ríchter (tức là có thể gây ra hư hại nhẹ về nhà cửa). Trong lịch sử, từ năm 114 tới năm 2003, VN đã ghi nhận được 1.645 trận động đất mạnh từ 3 độ Richter trở lên. Đó là trận động đất cấp 8 xảy ra vào năm 114 ở bắc Đồng Hới, các trận động đất cấp 7, cấp 8 xảy ra ở Hà Nội vào các năm 1277, 1278, 1285; động đất cấp 8 ở khu vực Yên Định - Vĩnh Lộc - Nho Quan vào năm 1635; động đất cấp 8 vào năm 1821 ở Nghệ An, cấp 7 ở Phan Thiết vào các năm 1882, 1887... Đáng lưu ý, qua nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện Thủ đô Hà Nội nằm trong vùng đứt gãy sông Hồng- sông Chảy, nơi đã xảy ra các trận động đất mạnh 5,1-5,5 độ Richter. Chu kỳ lặp lại động đất mạnh 5,4 độ Richter ở Hà Nội là 1.100 năm và trận động đất mạnh cuối cùng xảy ra cách đây đã hơn 700 năm (1285). Hiện Hà Nội đang trong thời kỳ yên tĩnh nhưng trong tương lai hoạt động động đất có thể tăng lên và động đất mạnh có thể xảy ra. Ngoài ra, Hà Nội còn phải chịu tác động của động đất mạnh xảy ra ở những vùng đứt gãy lân cận như đứt gãy sông Lô, Đông Triều, Sơn La. Gần đây nhất, từ năm 1990 tới nay, cũng có hai trận động đất cấp 8 ở Điện Biên (1935) và Tuần Giáo (1983), 17 trận động đất cấp 7 và 115 trận cấp 6-7 ở khắp các vùng miền. Các trận động đất trên đã gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Theo GS Nguyễn Đình Xuyên và nhóm nghiên cứu, điều đó đã bác bỏ nhận định của nhiều nhà khoa học nước ngoài và trong nước rằng lãnh thổ Việt Nam không có nguy hiểm đáng kể về động đất. Bản đồ phân vùng động đất ở VN và hiện đang đặt tại viện Vật lý Địa cầu (Hà Nội). Người dân quan tâm đến vấn đề này, có thể đến tham khảo tại Viện. Trong buổi nghiệm thu, GS Xuyên cũng kiến nghị xây dựng phần mềm chứa cơ sở dữ liệu về nguy hiểm động đất ở Việt Nam cũng như các phương pháp khai thác, sử dụng cho mục đích xây dựng và quản lý thiên tai. Kiến nghị thứ hai của GS Xuyên là xây dựng hệ thống quan sát và dự báo động đất cho các vùng nhạy cảm nhất ở Việt Nam: Hà Nội, nhà máy thuỷ điện Sơn La, nhà máy thuỷ điện Hoà Bình cũng như các nhà máy điện hạt nhân tương lai nằm trong vùng động đất. Ngoài ra, GS Nguyễn Đình Xuyên cũng đề nghị cần biên soạn và phổ biến một hướng dẫn kháng chấn đơn giản, dễ hiểu cho nhà dân, giống như các nước Ấn Độ, Nhật Bản và Trung Quốc đã làm. Đồng thời, phổ biến rộng rãi thông tin về những khu vực có nguy cơ động đất bằng cách in các bản đồ nói trên dưới dạng atlas. Trước mắt, mọi người cũng có thể tới Viện Vật lý địa cầu để tham khảo các bản đồ nói trên. Xem: www.vnn.vn/khoahoc/trongnuoc/2005/01/367701/ Chú thích: -Động đất cực đại là động đất lớn nhất có thể xảy ra. -Động đất mạnh 5,5 độ Richter gây chấn động cấp 7, làm hư hại nhẹ nhà cửa. -Động đất 6,0 độ Richter gây chấn động cấp 8, làm hư hại nặng nhà cửa. -Động đất 6,8 độ Richter gây chấn động cấp 8-9, làm hư hại nhà cửa nặng hơn cấp 8. * Minh Sơn
|
|
|
Tin
Jan 27, 2005 10:56:40 GMT -5
Post by Robot on Jan 27, 2005 10:56:40 GMT -5
10 năm và 1,2oC
Tại một bãi rác thải ở Bắc Kinh. Trung Quốc thải ra 100 triệu tấn đồng nát mỗi ngày (tức khoảng 440 kg/đầu người) TT - Thời gian còn lại cho tới khi nổ ra cuộc khủng hoảng khí hậu là rất ngắn: chỉ 10 năm.
Và nhiệt độ trung bình của thế giới đã tăng 0,8oC so với năm 1750 (giai đoạn trước cuộc cách mạng công nghiệp), trong khi chỉ số khủng hoảng của mức tăng nhiệt độ là 2oC. Điều đó có nghĩa, nếu Trái đất ấm lên thêm 1,2oC nữa, quả bom khí hậu sẽ bùng nổ.
Đó là kết quả của một báo cáo mang tên “Đối phó với thách thức khí hậu”, do nhóm chuyên gia Anh, Mỹ, Áo thực hiện, được công bố trên The Independent hôm qua. Đây là lần đầu tiên người ta nghe nói đến thời điểm và những chỉ số cụ thể của tình trạng khí hậu ấm dần.
Đáng sợ hơn là các con số về độ tập trung khí thải CO2 trong khí quyển: nếu mức tập trung này đạt tới 400 phần triệu thì nhiệt độ Trái đất sẽ ấm lên 2oC so với năm 1750. Hiện nay tỉ lệ này đã là 379 phần triệu, và mỗi năm nó lại tăng trung bình 2 phần triệu. Như vậy sau 10 năm nữa, nếu không phải là sớm hơn, thế giới sẽ đạt tới chỉ số khủng hoảng 400 phần triệu.
T.DANH (Theo Independent
|
|