|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:22:15 GMT -5
Con người và mối ðe dọa ðến ða dạng sinh học
Ngày nay con người ðang khai thác thiên nhiên một cách tàn bạo mà ðã không hề quan tâm ðến tương lai của ða dạng sinh học, làm cho nhiều loài bị diệt vong. Theo nhà sinh thái học Norman Myers th́ ðã có khoảng 600.000 loài bị tiêu diệt chỉ tính từ nãm 1950 ðến nay. Cứ ba loài ðang tồn tại th́ có 2 loài ðang có nguy cơ bị suy thoái.
Ðể sinh sống và phát triển loài người ngày nay ðang sử dụng khoảng nửa tổng số nãng lượng cần thiết ðể duy tŕ toàn bộ sự sống trên trên trái ðất. Ðiều ðó có nghĩa là loài người ðang sử dụng khoảng 40% toàn bộ sản lượng thô của cây xanh trên toàn thế giới là nguồn thức ãn của tất cả các loài ðộng vật ðang tồn tại. Mức sử dụng này có thể tãng lên gấp ðôi trong ṿng 25 nãm nữa. Việc khai thác quá mức các loài thực vật là mối lo ngại lớn ðối với thiên nhiên v́ rằng cây xanh có liên quan ðến toàn bộ các dạng sống khác trên trái ðất, v́ cây xanh sản xuất ra chất hữu cơ cần thiết cho mọi sinh vật thông qua quá tŕnh quang hợp.
Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) ðã thông báo rằng hiện nay có khoảng 5.200 loài ðộng vật ðang ðứng trước nguy cơ bị diệt vong bao gồm: - Gần 1.100 loài thú, chiếm 1/4 số loài thú hiện nay; - Hơn 1.100 loài chim , 11% của 9.600 loài chim trên thế giới; - Hơn 2.000 loài các nước ngọt, 20% toàn bộ loài cá nước ngọt; - 253 loài ḅ sát, chiếm 20% toàn bộ các loài ḅ sát ðã nghiên cứu; - Khoảng 124 loài ếch nhái, chiếm 25% số loài ðã nghiên cứu.
Các loài thực vật cũng ðang ðứng trước nguy cơ tương tự. Trong số 270.000 loài thực vật bậc cao có khoảng 34.000 loài ðang nguy cấp, ða số thuộc các vùng nhiệt ðới.
Khoảng 60.000 loài thực vật , chiếm gần 40% toàn bộ các loài c̣n lại ở các vùng nhiệt ðới ðang ðứng trước nguy cơ bị tiêu diệt trong ṿng 25 nãm sắp tới.
Mặc dù sự mất mát về các loài là không thể bù ðắp ðược, nhưng chúng ta có thể và phải t́m cách làm giảm tốc ðộ mất mát càng sớm càng tốt, lúc c̣n có thể cứu vãn ðược, ít nhất cũng giữ ðược ở trạng thái cân bằng hiện tại. Nếu diện tích các vùng ðất hoang dã c̣n sót lại ðược sử dụng ðể khai thác nguồn gen, ðể tổ chức du lịch sinh thái và c̣n quan trọng hơn là ðể bảo vệ ðầu nguồn các sông suối th́ khả nãng kinh tế của các vùng ðó sẽ cao hơn rất nhiều so với việc bị phá huỷ ðể kiếm thêm ít gỗ, củi, làm ðất nông nghiệp hay sử dụng vào các mục ðích khác. Chúng ta nên nhớ rằng các vùng ðất hoang dã chứa ðựng nhiều tiềm nãng mà chúng ta chưa biết hết. Theo GS. Vơ Quư
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:23:14 GMT -5
Đa dạng sinh học ở Việt Nam - Phần IViệt Nam đã được xem là một trong những nước thuộc vùng Đông Nam Á giàu về đa dạng sinh học. Ở Việt Nam do sự khác biệt lớn về khí hậu từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên sự đa dạng về thiên nhiên và cũng do đó mà Việt Nam có tính đa dạng sinh học cao. Một dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã được hình thành ở các độ cao khác nhau, như các rừng thông chiếm ưu thế ở vùng ôn đới và cận nhiệt đới, rừng hỗn loại lá kim và lá rộng, rừng khô cây họ Dầu ở các tỉnh vùng cao, rừng họ Dầu địa hình thấp, rừng ngập mặn chiếm ưu thế ở ven biển châu thổ Sông Cửu Long và Sông Hồng, rừng tràm ở đồng bằng Nam bộ và rừng hỗn loại tre nứa ở nhiều nơi. Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài nhiều thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê được 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch (Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật), khoảng 1.030 loài rêu, 2.500 loài tảo và 826 loài nấm. Theo dự đoán của các nhà thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ lên đến 12.000 loài, trong đó có khoảng 2.300 loài đã được nhân dân ta dùng làm nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên vật liệu khác. Chắc rằng trong hệ thực vật Việt Nam còn nhiều loài mà chúng ta chưa biết công dụng của chúng. Cũng có thể có rất nhiều loài có tiềm năng là một nguồn cung cấp sản vật quan trọng - dược liệu chẳng hạn. Hơn nữa hệ thực vật Việt Nam có mức độ đặc hữu cao. Tuy rằng hệ thực vật Việt Nam không có các họ đặc hữu và chỉ có khoảng 3% số Chi là đặc hữu (như các Chi Ducampopinus, Colobogyne) nhưng số loài đặc hữu chiếm khoảng 33% số loài thực vật ở miền Bắc Việt Nam (Pocs Tamas, 1965) và hơn 40% tổng số loài thực vật toàn quốc (Thái văn Trừng, 1970). Phần lớn số loài đặc hữu này tập trung ở bốn khu vực chính: khu vực núi cao Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc, khu vực núi cao Ngọc Linh ở miền Trung, cao nguyên Lâm Viên ở phía Nam và khu vực rừng mưa ở phần Bắc Trung Bộ. Nhiều loài là đặc hữu địa phương chỉ gặp trong một vùng rất hẹp với số cá thể rất thấp. Các loài này thường rất hiếm vì rằng các khu rừng ở đây thường bị chia cắt thành những mảnh nhỏ hay bị khai thác một cách mạnh mẽ. Bên cạnh đó, do đặc điểm cấu trúc, các kiểu rừng nhiệt đới ẩm thường không có loài chiếm ưu thế rõ rệt nên số lượng cá thể của từng loài thường hạn chế và một khi đã bị khai thác, nhất là khai thác không hợp lý thì chúng chóng bị kiệt quệ. Đó là tình trạng hiện nay của một số loài cây gỗ quý như Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa) Gụ mật (Sindora siamensis) nhiều loài cây làm thuốc như Hoàng liên chân gà (Coptis chinensis), Ba kích (Morinda officinalis)... thậm chí có nhiều loài đã trở nên rất hiếm hay có nguy cơ bị tiêu diệt như Thuỷ tùng (Glyptostrobus pensilis) Hoàng đàn (Cupressus terbulosa) Bách xanh (Calocedrus macolepis), Cẩm lai (Dalbergia bariaensis), Pơ Mu (Fokiena hodginsii) v.v... Theo GS. Võ Quý
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:24:03 GMT -5
Đa dạng sinh học ở Việt Nam - Phần IIHệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê được 275 loài thú, 830 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, 472 loài cá nước ngọt, khoảng hơn 2000 loài cá biển và thêm vào đó có hàng chục nghìn loài động vật không xương sống ở cạn, ở biển và nước ngọt (Đào Văn Tiến, 1985, Võ Quý 1997, Đặng Huy Huỳnh, 1978). Hệ động vật Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông Nam Á. Cũng như thực vật giới, động vật giới Việt Nam có nhiều dạng đặc hữu : hơn 100 loài và phân loài chim và 78 loài và phân loài thú là đặc hữu. Có rất nhiều loài động vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như Voi, Tê Giác Java, Bò rừng, Bò tót, Trâu rừng, Bò xám, Nai cà tông, Hổ , Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá, Voọc xám, Voọc mông trắng, Voọc mũi hếch, Voọc đầu trắng, Sếu cổ trụi, Cò quắm cánh xanh, Cò quắm lớn, Ngan cánh trắng, nhiều loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển. Theo tài liệu "Xem lại hệ thống các khu bảo vệ vùng Đông Dương - Mã Lai" của IUCN/CNPPA (Review of the Protected Areas System in the Indo - Malayan Realm, MacKinnon, MacKinnon, 1986) thì Việt Nam khá giàu về thành phần loài và có mức độ cao về tính đặc hữu so với các nước trong vùng phụ Đông Dương. Trong số 21 loài khỉ có trong vùng phụ này thì ở Việt Nam có 15 loài, trong đó có 7 loài đặc hữu của vùng phụ (Eudey, 1987). Có 49 loài chim đặc hữu trong vùng phụ, ở Việt Nam có 33 loài, trong đó có 10 loài đặc hữu của Việt Nam, so với Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Hải Nam, mỗi nơi chỉ có 2 loài, Lào một loài và Cam pu chia không có loài đặc hữu nào cả. Khi xem xét về sự phân bố của các loài ở trong vùng phụ Đông Dương nói chung, số loài thú và chim và các hệ sinh thái có nguy cơ bị tiêu diệt nói riêng và sự phân bố của chúng, chúng ta có thể nhận rõ rằng Việt Nam là một trong những vùng xứng đáng có ưu tiên cao về vấn đề bảo vệ. Không những thế, hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có những phát hiện mới rất lý thú. Chỉ trong 2 năm 1992 và 1994 đã phát hiện được ba loài thú lớn, trong đó có hai loài thuộc vùng rừng Hà Tĩnh là loài Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) và loài Mang lớn hay còn gọi là Mang bầm (Megamuntiacus vuquangensis), nơi mà trước đây không lâu đã phát hiện loài trĩ cuối cùng trên thế giới, loài Gà lam đuôi trắng hay còn gọi là Gà lừng (Lophura hatinhensis). Ngày 21 tháng 10 năm 1994 một loài thú lớn mới thứ ba là loài Pseudonovibos spiralis ở Tây Nguyên, tạm gọi là loài bò sừng xoắn được công bố và năm 1997 một loài thú lớn mới nữa cho khoa học được mô tả, đó là loài Mang Trường Sơn (Caninmuntiacus truongsonensis) tìm thấy lần đầu tiên ở Vùng Hiên, thuộc tỉnh Quảng Nam. ở khu vực Vũ Quang trong những năm gần đây phát hiện được thêm một loài cá mới cho khoa học: Opsarichthys vuquangensis, và hai loài chim mới được phát hiện ở Tây Nguyên là loài khướu Ngọc Linh (Garrulax ngoclinhensis) và loài khướu vằn mào đen (Actinodura sodangorum) . Chúng ta tin rằng ở Việt Nam chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật chưa được các nhà khoa học biết đến. Theo GS. Võ Quý
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:25:17 GMT -5
Đa dạng sinh học ở Việt Nam - Phần IIIVề mặt đa dạng sinh thái, Việt Nam có nhiều kiểu rừng khác nhau, từ kiểu rừng rậm thường xanh đến kiểu rừng rụng lá ở các độ cao khác nhau, từ đai thấp (lowlands), cận núi (sub-montane), núi (montane), cận núi cao (sub-alpine), các kiểu rừng núi đất, rừng núi đá vôi, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng tre nứa.... Việt Nam cũng có vùng đất ngập nước khá rộng, trải ra khắp đất nước nhưng chủ yếu ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long và vùng đồng bằng Sông Hồng. Đây không những là vùng sản xuất nông nghiệp quan trọng của Việt Nam mà còn là nơi sinh sống của 39 loài động vật được coi là những loài có nguy cơ bị tiêu diệt ở vùng Đông Nam á thuộc các nhóm thú, chim và bò sát (AWB, 1989). Ngoài ra Việt Nam còn có phần nội thuỷ và lãnh hải rộng khoảng 226.000 km2 trong đó có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và nhiều rạn san hô phong phú. Ở Việt Nam các rạn san hô phân bố rải rác suốt từ Bắc vào Nam của Biển Đông và càng vào phía Nam cấu trúc và số loài càng phong phú. Phần lớn các rạn san hô ở biển miền Bắc là những đám hẹp hoặc tạo thành từng cụm nhỏ, độ sâu tối đa chỉ giới hạn trong vòng mươi mét . ở phía Nam điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn cho sự phát triển của san hô. Từ vùng bờ biển Đà Nẵng đến Bình Thuận có nhiều rạn san hô ở xung quanh các đảo và các bãi ngầm, và xung quanh các đảo ở vịnh Thái Lan ở phía Tây nam. Các đảo và bãi ngầm thuộc quần đảo Hòang Sa và Trường Sa có những bãi san hô rộng lớn và đa dạng nhất trong vùng biển Việt Nam. Các rạn san hô phía Tây nam có cấu trúc đa dạng và có đỉnh cao đến 8-10 mét, và nằm ở độ sâu chừng 15 mét. Tại quần đảo Trường Sa các rạn san hô có thể đạt tới độ sâu nhất là 40 mét và có đỉnh cao từ 5-15 mét. Cũng như rừng nhiệt đới, các rạn san hô là nơi có tính đa dạng sinh học cao, chứa đựng nhiều loại tài nguyên quý giá và có nhiều tiềm năng cho sự phát triển khoa học và kinh tế trong tương lai. Hiện nay chúng ta đã phát hiện được hơn 300 loài san hô cứng ở vùng biển Việt Nam, trong số đó có 62 loài là san hô tạo rạn phù hợp với điều kiện trong vùng. Về nhóm nhuyến thể ở nước mặn chúng ta đã thống kê được khỏang 2.500 loài, giáp xác 1.500 loài, giun nhiều tơ 700 loài, da gai 350 loài, hải miên 150 loài, 653 loài tảo biển cũng đã được xác định . Nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có về sinh giới này, có thể đáp ứng những nhu cầu hiện tại và tương lai của nhân dân Việt Nam trong quá trình phát triển, cũng như đã đáp ứng những nhu cầu ấy trong quá khứ. Nguồn tài nguyên thiên nhiên này không những là cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới. Tuy nhiên thay vì bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá này và sử dụng một cách hợp lý, nhân dân Việt Nam dưới danh nghĩa phát triển kinh tế đang khai thác quá mức và phí phạm , không những thế còn sử dụng các biện pháp huỷ diệt như các chất độc, kích điện .. . Nhiều loài hiện đã trở nên hiếm, một số loài đang có nguy cơ bị diệt vong. Nếu biết sử dụng đúng mức và quản lý tốt, nguồn tài nguyên sinh học của Việt nam có thể trở thành nguồn tài nguyên tái tạo rất có giá trị, thế nhưng nguồn tài nguyên này đang suy thoái nhanh chóng. Theo GS. Võ Quý
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 9:30:54 GMT -5
Ở Việt Nam hiện nay có những loài động vật nào đã bị tuyệt chủng và còn bao nhiêu loài?Theo quy luật của tự nhiên thì tuyệt chủng là quá trình tất yếu trong tiến hoá của các loài sinh vật. Qua quá trình đấu tranh sinh tồn, những loài nào không thích nghi được với môi trường và không cạnh tranh nổi với các loài khác sẽ bị loại ra khỏi sinh giới. Vì vậy, từ khi có sự sống trên trái đất đến nay, đã có đến hàng triệu loài sinh vật bị tuyệt chủng, trong đó có nhiều loài chúng ta chưa kịp biết đến tên tuổi chúng. Tuy nhiên, từ khi loài người thống trị thế giới này thì tốc độ tuyệt chủng càng bị đẩy nhanh hơn. Heo vòi mèo cá, tê giác hai sừng là ba loài trước kia có ở Việt Nam nhưng nay đã không còn thấy xuất hiện nữa. Ngoài ra còn rất nhiều loài khác ở đất nước ta đã bị tiêu diệt hoặc đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng do những hoạt động tiêu cực của con người. Theo thống kê của các nhà khoa học thì chúng ta đã biết được ở nước ta có khoảng 280 loài thú, 828 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài lưỡng cư, 471 loài cá nước ngọt, 2500 loài cá biển, 5500 loài côn trùng. Còn có rất nhiều loài khác mà chúng ta chưa biết được. Đợt tuyệt chủng lớn lần 6 đã bắt đầu? Loài bướm lớn màu xanh đã tuyệt diệt ở Anh từ năm 1979. Cuộc khảo sát của hơn 20.000 tình nguyện viên tới mọi ngóc ngách nước Anh, Scotland và xứ Wales đã phát hiện thấy nhiều quần thể sinh vật bản địa suy thoái nặng nề và một số đã hoàn toàn vắng bóng. Kết quả này ủng hộ giả thuyết rằng con người đang đẩy trái đất vào đợt tuyệt chủng lớn lần thứ 6. "Đây là lần đầu tiên, chúng ta có thể trả lời những câu hỏi kiểu như liệu các loài bướm có suy giảm tồi tệ như các loài chim?", Jeremy A. Thomas, một nhà sinh tái tại Tổ chức nghiên cứu môi trường quốc gia ở Dorchester, Anh, là tác giả đầu tiên của nghiên cứu, cho biết. Thống kê trên 58 loài bướm phát hiện thấy một số loài đã mất đi 71% quần thể so với cuộc khảo sát tương tự thực hiện từ năm 1970 đến 1982. Khoảng 201 loài chim được theo dõi từ năm 1968 và 1971, sau đó lặp lại từ 1988 đến 1991, có dân số giảm khoảng 54%. Trong khi đó, hai cuộc khảo sát trên 1.254 loài thực vật bản địa cho biết có sự suy giảm khoảng 28% trong vòng hơn 40 năm. Các nhà khoa học (ghi nhận về sự mất mát ở thú và các loài động vật khác) từng tiên lượng về sự suy giảm côn trùng, song theo Thomas, đây là công trình đầu tiên thực sự thống kê qua nhiều thập kỷ sự tụt dốc nhanh chóng đó. "Tiêu biến quần thể diễn ra trong tất cả các hệ sinh thái chính ở Anh. Điều này ủng hộ giả thuyết cho rằng thế giới sinh vật đang tiếp cận tới đợt tuyệt chủng lớn thứ 6 trong lịch sử của nó", Thomas viết. Một vài đợt tuyệt chủng trong quá khứ đã xóa đi hơn 90% tất cả các dạng sống và "không ai phỏng đoán rằng chúng ta đang ở thời điểm đó". Nhưng "nếu tiến trình này tiếp diễn thì trong một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ tiến tới cấp độ tuyệt chủng lớn", Thomas nói. Đợt tuyệt chủng gần đây nhất và cũng nổi tiếng nhất xuất hiện giữa kỷ Creta và Kỷ thứ ba khoảng 63 triệu năm trước, đã loại trừ khủng long và mở đầu kỷ nguyên của những động vật có vú. Paul S. Martin, một nhà động vật học tại Đại học Arizona ở Tucson, nhận định "chúng ta đang ở giữa đợt tuyệt chủng thứ 6 - bắt đầu khoảng 50.000 năm về trước - với sự bành trướng vai trò của con người trên thế giới. Điều này đang xảy ra, nhưng chậm hơn và nó không dễ quan sát như một vài đợt trước đó". B.H. (theo AP)
|
|
|
Post by Robot on Nov 23, 2004 14:08:14 GMT -5
Cây chết cũng cần được bảo vệ
Tổ chức bảo vệ môi trường quốc tế WWF lên tiếng cảnh báo ngày 25.10, tình trạng di dời cây cối chết và mục nát từ các cánh rừng đang gây nhiều khó khăn cho các loài động, thực vật sống ở đó.
Theo WWF, các loại cây già cỗi và chết là một thành phần quan trọng giúp tạo cân bằng sinh thái cho môi trường rừng, giảm tác hại của sâu bọ và các mối nguy hiểm khác. Khoảng 1/3 số sinh vật trong rừng dựa vào các thân, cành cây mục ruỗng để sống. Việc di dời những cây này do sự thiếu hiểu biết của con người đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng đối với các loài côn trùng, nấm và địa y, làm mất chỗ trú ngụ cho chim gõ kiến, dơi và sóc.
WWF kêu gọi chính quyền và người dân các nước nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của cây cối già cỗi đối với sự đa dạng sinh thái, từ đó có các biện pháp bảo vệ rừng hiệu quả hơn. ảnh: Thân cây mục là nơi giúp nấm phát triển.
T.A (Theo BBC)
|
|