|
Post by Robot on Mar 14, 2004 11:18:36 GMT -5
Các thành phần của hệ sinh tháiTrong hệ sinh thái tồn tại các thành phần sống và không sống. Các thành phần sống được chia ra thành 3 loại: sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ, và sinh vật phân huỷ. Trong đó sinh vật sản xuất là thực vật. Thực vật chuyển năng lượng mặt trời thành nguồn dinh dưỡng thông qua quá trình quang hợp. Nguồn năng lượng này được luân chuyển trong hệ sinh thái qua lưới thức ăn. Mỗi bước của quá trình luân chuyển năng lượng bao gồm một số mức dinh dưỡng: từ thực vật đến động vật ăn cỏ đến động vật ăn thịt, và cuối cùng là các sinh vật phân huỷ (vi khuẩn, nấm, các loài động vật ăn xác chết). Nguồn dinh dưỡng được sử dụng và tái sinh triệt để trong hệ sinh thái. Thực vật tổng hợp chất dinh dưỡng có trong đất và nước, sau đó tích trữ lại trong mô. Những chất dĩnh dưỡng này lại được chuyển đi trong lưới thức ăn. Người ta nói thực vật là cơ sở của sự sống vì thực vật cung cấp nguồn dinh dưỡng cho các thành phần khác của sinh giới. Nếu không có thực vật thì các loài động vật cũng như con người không thể tồn tại và hệ sinh thái cũng sẽ sụp đổ vì bị mất cân bằng nghiêm trọng. Thực vật tạo ra môi trường sống cho đa số các loài động vật. Thực vật là sinh vật tiên phong để xây dựng nên một hệ sinh thái. Lấy ví dụ ở một cánh đồng bỏ hoang chẳng hạn. Theo thời gian, nếu không có những tác dộng ngoại cảnh thì các loài cây bụi sẽ dần xâm chiếm khu vực bỏ hoang, sau đó nữa sẽ là các loài cây khác. Các loài thực vật bắt đầu cạnh tranh lẫn nhau và chỉ những loài có sức sống tốt mới có thể bám trụ được và tạo nên một hệ sinh thái mới. Khi quần xã thực vật đã phân chia phạm vi sống của mình, tạo nên nhiều môi trường sống khác nhau thì các loài động vật ngày càng trở nên phong phú hơn. Động vật cũng đóng vai trò quan trọng đối với sinh trưởng và phát triển của thực vật. Chúng có thể kiểm soát, khống chế số lượng, phân bố của nhiều loài thực vật. Về phương diện này đôi khi động vật gây hại đến thực vật. Chẳng hạn nếu số lượng các loài động vật ăn cỏ tăng quá nhanh thì sẽ dẫn đến việc nhiều loài thực vật bị tiêu diệt hoặc giảm số lượng nhanh chóng. Nhiều loài động vật như bướm, ong và nhiều loài côn trùng, chim giúp thụ phấn cho thực vật. Chúng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc sinh sản của thực vật. Ngoài ra động vật còn giúp thực vật phát tán hạt giống. Nhờ vậy, thực vật có thể mở rộng quần thể của mình. Tóm lại, những loài động thực vật mà chúng ta biết đến ngày nay đã trải qua một quá trình tiến hoá lâu dài và khắc nghiệt. Có thể nói đó là những loài ưu việt nhất mà tự nhiên đã chọn lọc và vẫn còn tiếp tục được chọn lọc trong quá trình tiến hoá. Trong hệ sinh thái, mỗi loài động thực vật đều có vai trò nhất định và có mối liên quan chặt chẽ hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhau. Những can thiệp “thô bạo” mà con người đang tiến hành đối với tự nhiên đã và sẽ gây ra những hậu quả xấu cho sự cân bằng sinh thái. Con người chúng ta cần hiểu và sống đúng với các quy luật của tự nhiên hơn!
|
|
|
Post by Robot on Mar 14, 2004 11:21:25 GMT -5
Các kiểu hệ sinh thái đất ngập nước ở Việt NamĐất ngập nước hiểu theo công ước RAMSAR (Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế ) như sau: "Là các vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước tự nhiên hay nhân tạo, có nước thường xuyên hay tạm thời, nước đọng hay nước chảy, nước ngọt, nước lợ hay nước mặn, kể cả các vùng nước ven biển có độ sâu không quá 6m khi thuỷ triều thấp đều là các vùng đất ngập nước" Đất ngập nước là hết sức phong phú và phức tạp, chiếm một phần không nhỏ của lãnh thổ bao gồm các vùng biển nông, ven biển,cửa sông, đầm phá, có thảm thực vật bao phủ hay không, đồng bằng châu thổ, tất cả các con sông, suối, ao, hồ, đầm lầy tự nhiên hay nhân tạo, các vùng nuôi trồng thuỷ sản, canh tác lúa nước đều thuộc loại đất ngập nước. Các hệ sinh thái đất ngập nước chủ yếu của Việt Nam 1. Các sông suốiNước ta có trên 2500 con sông, trong đó số sông dài trên 10 km là 2360; số sông có lưu vực từ 500 - 1000 km2 là 166. Số sông có lưu vực nhỏ hơn 500 km2 chiếm 92,55% tổng số sông. Số sông có lưu vực nhỏ hơn 100 km2 là 1556 chiếm 66,35% tổng số sông. 2. Các hồ chứaTheo các tài liệu hiện có, cả nước ta hiện có tổng số 68 hồ chứa nước, với tổng diện tích 242.725 ha thuộc địa bàn 38 tỉnh thành ở miền Bắc, miền Trung và Đông Nam bộ với nhiều hồ tự nhiên nổi tiếng như: Hồ Ba Bể (Bắc Kạn), Hồ Chử (Phú Thọ ) Hồ Tây (Hà Nội), Biển Hồ (Gia Lai), Hồ Lăk (Đaklac), Hồ Biển Lạc (Bình Thuận). 3. Các hồ chứa nước nhân tạoTrước năm 1945, ở Việt Nam chỉ có một số hồ chứa nước và nhà máy thuỷ điện nhỏ như Tà Sa (825kw), Nà Ngần (750kw), Bản Thi (140kw), Bồng Miêu ... Ở miền Bắc sau năm 1954, nhiều hồ chứa nước đã được xây dựng như: Thác Bà, Đại Lải, Suối Hai, Núi Cốc ... Hiện nay cả nước có trên 3600 hồ chứa nước nhân tạo do nhiều ngành tham gia xây dựng với mục tiêu chống lũ, phát điện, cung cấp nước cho sinh hoạt và nuôi trồng thuỷ sản. Tính riêng các hồ chúa nước có qui mô vừa và lớn (dung tích trên 1 triệu m3, hoặc có chiều cao đập trên 10m) thì có khoảng 460 hồ (chiếm 13% tổng số hồ chứa). Hồ có diện tích lớn nhất là Dầu Tiếng 72.000 ha, hồ chứa có công suất lắp máy lớn nhất là Hoà Bình: 1920 MW, tiếp theo là Trị An 420 MW, Đa Nhim: 160MW, Thác Bà: 108 MW, Dray - Hling: 12MW. Tổng công suất là 2620 MW. Trong số 460 hồ chứa nước này có 285 hồ (62%) được xây dựng sau năm 1979. Gần đây cũng đã xây dựng 4 công trình thuỷ điện ở các hồ chứa nước lớn là: Thác Mơ: 150MW, Vĩnh Sơn 66 MW, Sông Hinh 66 MW và Yaly: 690 MW. Tổng công suất là 972 MW . 4. Đất ngập nước vùng đồng bằng châu thổ các sôngViệt Nam có 2 vùng châu thổ của 2 con sông lớn: Sông Hồng và sông Cửu Long. Châu thổ sông Hồng: có độ cao so với mặt biển: 0 - 5m, diện tích 1.743.200 ha. Sông Hồng là một con sông lớn, mỗi năm có lượng phù sa đổ ra biển khoảng 115 triệu tấn. Cây trồng chính ở đây là lúa nước với sản lượng 3 triệu tấn thóc/ năm. Châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông): có độ cao so với mặt biển khoảng 5m. Diện tích 3.900.000 ha trên lãnh thổ Việt Nam và khoảng 1.600.000 ha trên lãnh thổ Campuchia. Sông Cửu Long (Mê Kông) chảy qua biên giới 6 nước, lượng phù sa của sông tương đối thấp nhưng hàm lượng phù sa lại cao, tạo nên năng suất thứ cấp vô cùng lớn của sông này.
|
|
|
Post by Robot on Mar 14, 2004 11:22:05 GMT -5
5. Đất ngập nước theo mùa không thường xuyên Bao gồm các khu vực rừng tràm và các đồng cỏ ngập nước, đầm lầy. Rừng tràm phân bố ở một số vùng như: Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, một phần tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang và rải rác ở một số tỉnh miền Trung. Riêng rừng tràm ở Đồng Tháp Mười có diện tích tự nhiên 800.000 ha, chiếm 15,8% diện tích đồng bằng sông Cửu Long và rừng tràm U Minh có diện tích 142.520 ha.
Rừng tràm là nơi có giá trị kinh tế lớn và nhiều mặt. Thảm thực vật rừng tràm cung cấp nhiều loài cây có giá trị kinh tế cao. Cây tràm vừa là cây cho gỗ xây dựng, đóng đồ đạc, làm củi, vừa là cây cho tinh dầu với chất lượng cao dùng trong y học và mỹ phẩm. Trong rừng tràm cũng có rất nhiều loài cá và chim nước sinh sống. Rừng tràm còn là nơi dự trữ nước ngọt trong mùa mưa và điều tiết nước vào mùa khô nhờ tầng thảm mục dầy được tích luỹ trên mặt đất rừng.
6. Các bãi triều và triều lầy vùng cửa sông ven biểnCác bãi triều và triều lầy ở nước ta thường phát triển trên các vùng của sông, phân bố ở độ sâu 0 m hải đồ đến mức nước triều cao nhất. Nơi đây xẩy ra sự tương tác của khối nước sông - biển và sự ngập nước hàng ngày. Đây là vùng đất ngập mặn rộng, bao gồm các bãi triều bùn, bùn- cát, có thảm thực vật bao phủ hay không. Nơi có thảm thực vật thường tạo nên một hệ sinh thái đặc thù. Đó là hệ sinh thái rừng ngập mặn.
Tổng diện tích các bãi triều- triều lầy của nước ta có trên 1 triệu hecta, chủ yếu phân bố tại các của sông lớn:
- Vùng cửa sông châu thổ sông Hồng: Từ Đồ Sơn đến Lạch Trường, tổng diện tích 52.000 ha, trong đó bãi triều lầy 25.000 ha, triều bùn cát không có thảm thực vật 27.000 ha. Tốc độ lấn biển là 30m/năm đối với bãi triều bùn cát (giai đoạn 1940 - 1995) (N. D. Cự, 1993, P.N. Hồng và cs, 1999).
- Vùng cửa sông châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông) có diện tích rất rộng, khoảng 600.00 - 800.00ha, trong đó 70 -80% là bãi triều lầy. Tốc độ lấn biển rất lớn, đạt 50m/năm trong khoảng 30- 50 năm qua (N.V. Phổ, 1983).
7. Rừng ngập mặn Trên các bãi triều lầy vùng cửa sông ven biển có thực vật bao phủ tạo nên hệ sinh thái RNM. Trước chiến tranh Việt Nam có khoảng 408.500 ha rừng ngập mặn, chủ yếu là ở Nam Bộ (250.000 ha). Từ năm 1960 đến 1971 do chiến tranh, bom đạn và chất độc hoá học của Mỹ đã huỷ diệt gần 150.000 ha rừng ngập mặn. Sau giải phóng năm 1975, diện tích và chất lượng rừng ngập mặn tiếp tục bị suy giảm.
|
|
|
Post by Robot on Mar 14, 2004 11:26:36 GMT -5
Đa dạng sinh học là gì?Công ước về Đa dạng Sinh học đã định nghĩa "Đa đạng Sinh học là sự khác biệt trong mọi cơ thể sống có từ mọi nguồn, từ các hệ sinh thái ở đất liền, ở biển, và ở các hệ sinh thái khác ở nước , và mọi tổ hợp sinh thái mà các cơ thể sống là thành phần hợp thành; Đa dạng Sinh học cũng bao gồm sự đa dạng trong loài, giữa các loài, và các hệ sinh thái. Đa dạng Sinh học bao gồm cả các nguồn tài nguyên di truyền, các cơ thể hay các phần của cơ thể, các chủng quần, hay các hợp phần sinh học khác của hệ sinh thái, hiện đang có giá trị sử dụng hay có tiềm năng sử dụng cho loài người". Nói một cách ngắn gọn Đa dạng Sinh học là mức độ phong phú của thiên nhiên sống, là toàn bộ tài nguyên thiên nhiên tạo nên do tất cả các dạng sống trên trái đất. Đa dạng sinh học bao gồm ba cấp khác nhau: 1) Đa dạng di truyền còn gọi là Đa dạng gen, 2) Đa dạng loài và 3) Đa dạng sinh thái. Nó bao gồm tất cả các loài sinh vật từ bé đến lớn đang sống trên trái đất, tất cả các gen có trong các loài đó, các hệ sinh thái, các nơi sống (habitat) được tạo nên do các loài khác nhau cùng chung sống trong những điều kiện nhất định, tương tác chặt chẽ với nhau và với môi trường sống. Nói một cách khác đó là thước đo tính đa dạng về gen, về loài và về các hệ sinh thái có trong một vùng hay của toàn thế giới. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng Đa dạng Sinh học còn bao gồm cả Đa dạng văn hóa, là sự thể hiện của con người, một thành viên của thế giới sinh vật, và đồng thời là một nhân tố quan trọng của các hệ sinh thái. Cũng cần nói thêm rằng hiện nay chưa có ai có thể khảng định được có bao nhiêu loài động vật, thực vật, vi sinh vật hiện đang sống trên trái đất. Có thể ước lượng khoảng chừng 5 đến 30 triệu loài, nhưng đa số các nhà khoa học tin là khoảng 14 triệu loài, trong đó chỉ mới có khoảng 1,7 triệu loài đã được mô tả và đặt tên, còn số loài được nghiên cứu đầy đủ thì rất ít. Tuy Đa dạng Sinh học mới đi vào vốn từ vựng chung của thế giới vào năm 1988 nhưng nó đã được các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách và nhiều người có hiểu biết hưởng ứng. Đây là một cách tiếp cận mới về bảo vệ thiên nhiên như Jeffrey McNeely đã nói, là một cách bảo vệ toàn diện, đưa các thông tin, kiến thức, hiểu biết và đạo đức vào các lĩnh vực cần bảo vệ như các khu bảo vệ thiên nhiên, nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh tế, quyền sở hữu trí tuệ, đất đai, buôn bán v.v...và điều đó cho phép chúng ta thay đổi những cách làm cũ, ví dụ như loại trừ nhân dân ra khỏi đất đai truyền thống của họ dưới danh nghĩa "bảo vệ". Do nhận thức được giá trị nội tại của đa dạng Sinh học và giá trị sinh thái, di truyền, xã hội, kinh tế, giáo dục, văn hoá, giải trí và thẫm mỹ của đa dạng sinh học và các thành phần của đa dạng sinh học; nhận thức được tầm quan trọng của đa dạng sinh học đối với sự tiến hoá và duy trì sự sống trong sinh quyển; xác định được vịệc bảo tồn đa dạng sinh học là nhiệm vụ của toàn nhân loại; và nhận thấy việc suy thoái đa dạng sinh học do các hoạt động của con người ngày càng nguy cấp và nhiều điều khác nữa mà đã dẫn đến Công ước Bảo vệ Đa dạng sinh học được 157 chính phủ ký kết ở Hội nghi thượng đỉnh Rio vào tháng 6 năm 1992 và có hiệu lực vào ngày 29 tháng 12 năm 1993 và đến tháng 3 năm 1998 đã có 172 nước ký và được 168 nước phê chuẩn, trong đó có nước Việt Nam. Chiến lược Đa dạng sinh học tòan cầu đã được Viện Tài nguyên Thế giối , IUCN, và Chương trình Môi trường LHQ (UNEP) công bố năm 1992. UNEP đã cổ vũ nhiều công trình nghiên cứu về đa dạng sinh học ở các nước và hàng chục cuộc họp đã được tổ chức ở khắp mọi nơi trên thế giới để phát triển thêm khái niệm về đa dạng sinh học và tạo ra sự nhất trí cao và đẩy mạnh các hành động trên toàn cầu. Theo GS. Võ Quý
|
|
|
Post by Robot on Mar 14, 2004 11:42:00 GMT -5
Lược sử sự sốngTheo các nhà khoa học, sự sống trên trái ðất bắt ðầu cách ðây hơn 3,4 tỉ nãm (tuổi của trái ðất xấp xỉ 5 tỉ năm). Khi ðó bề mặt trái ðất hầu hết ðược bao phủ bởi ðại dương, lượng ôxi trong không khí cũng rất ít. Những sinh vật ðầu tiên khởi nguồn trong ðại dương và ðược các nhà khoa học gọi là giọt cô-a-xéc-va có cấu tạo rất giản ðơn, tự nuối sống mình bằng cách hấp thu các chất vô cơ có trong nước. Dưới tác ðộng của năng lượng mặt trời và các phản ứng hoá học mãnh liệt, các sinh vật ðơn bào hình thành. Các sinh vật này tồn tại bằng cách hấp thu các chất hữu cơ trong nước, quang hợp ðể tạo ra chất dinh dýỡng, ðồng thời thải thêm ôxi vào không khí. Bằng chứng về những sinh vật cổ ðại này còn tìm thấy ở các loài vi khuẩn ngày nay. Các sinh vật ðõn bào dần phát triển các phương thức sống một cách ða dạng hơn và có nhiều hình thức sinh sản hơn. Cách ðây khoảng 700 triệu nãm, những sinh vật ða bào ðầu tiên xuất hiện. Khoảng 700 ðến 570 triệu nãm trýớc, những sinh vật tổ tiên của các loài ðộng vật ngày nay hình thành - ðó là những loài sứa có cấu tạo rất ðơn giản. Các loài giun dần phát triển với cấu tạo cõ thể ngày càng tiến hoá hõn. Khoảng 570 triệu năm trước, bộ xương ðã phát triển một cách ðộc lập ở một số nhóm ðộng vật. Ðầu tiên phải kể ðến các loài cá, chúng hình thành từ loài lưỡng tiêm. Thực vật, cơ sở của sự sống, phát triển tạo ðiều kiện cho các loài ðộng vật ăn cỏ xuất hiện, tiếp sau ðó là các loài ðộng vật ăn thịt. Thực vật ở cạn xuất hiện cách ðây 400 triệu nãm, bắt nguồn từ các loài thực vật sống ở nýớc và ðầm lầy. Theo sau ðó, các loài ðộng vật chân khớp (một số tiến hoá thành côn trùng) và các loài ðộng vật không xương sống khác cũng tiến lên ở cạn. Cuối cùng là các loài ðộng vật có xương sống (ðầu tiên là lưỡng cư ) có nguồn gốc từ các loài cá nước ngọt cũng lên cạn cách ðây 360 triệu năm. 135 triệu năm trước, khủng long và các loài thú ðã dần quen với môi trường cạn. Sau cuộc ðại tuyệt chủng cách ðây 65 triệu nãm, các loài thú sống sót và tiếp tục phát triển, còn loài khủng long to lớn ðã hoàn toàn bị tuyệt diệt. Loài người chỉ mới xuất hiện cách ðây khoảng 2 triệu năm, bắt nguồn từ loài vượn người.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 12:16:37 GMT -5
Những con số về ðại dương - Các đại dương rộng 361 triệu km2 = 71% diện tích bề mặt Trái đất. - Sinh vật ở đại dương gồm 43 ngành, còn sinh vật trên mặt đất chỉ có 28. Có người cho rằng trong lòng đại dương có đến 178.000 loài sinh sống mà con người biết được và khoảng 10 triệu loài chưa được khám phá. (Theo Le Monde) Sinh thái học biển (Phần I) Hệ sinh thái là gì?Người ta không nêu ra một định nghĩa chặt chẽ mà chỉ làm sáng tỏ khái niệm đó qua các thí dụ: hồ, cửa sông, rừng, là những hệ sinh thái. Trong hệ sinh thái, những thành phần tự nhiên sống và không sống quan hệ qua lại với nhau và hợp thành thể thống nhất. Quần xã sinh vật là gì?Quần xã sinh vật là những hệ sinh thái lớn hơn hoặc tập hợp các hệ sinh thái tồn tại trong những điều kiện khí hậu gần nhau và có đặc trưng thực vật giống nhau. Những thí dụ về quần xã sinh vật là đồng cỏ trơ trọi bao la ở Bắc cực, đồng cỏ lớn (ở Bắc Mỹ ), biển Sargasso. 4- Sinh quyển là gì?Sinh quyển bao gồm lớp bề mặt Trái đất, nước và không khí bọc quanh nó, rất cần thiết cho sự sống tồn tại và gồm tất cả sinh vật trên Trái đất. Ở ðại dương có tồn tại các mùa trong năm không?Mùa đông, trong thời kỳ động biển, lớp bề mặt đại dương xáo trộn mạnh mẽ, do đó các chất dinh dưỡng từ các lớp nước sâu chuyển lên trên mặt. Mùa xuân tới, nhờ nguồn dinh dưỡng phong phú, tảo silic sinh sôi nẩy nở rất nhanh, làm thức ǎn cho động vật nổi. Mùa hè, lớp bề mặt nước bị đốt nóng, chất dinh dưỡng không thể chuyển lên được nữa, thực vật nổi do vậy bị hao mòn nhanh hơn là hồi phục. Mùa thu, lại quan sát thấy sự nở rộ của sinh vật nổi, vì trong quá trình xáo trộn, do bão biển, các chất dinh dưỡng tích luỹ trong mùa hè - do động thực vật chết - lại được đưa lên lớp mặt đại dương. Cá phản ứng lại sự biến ðổi nhiệt ðộ theo mùa như thế nào?Nhiệt độ ở đại dương biến đổi không nhanh như nhiệt độ nước ngọt, và sự biến đổi đó không lớn. Vì vậy các loại cá biển ít thích nghi với sự biến đổi mạnh của nhiệt độ. Một số loài cá, về mùa đông di chuyển xuống phía nam, có những loài cá khác lại đi xuống sâu, nơi những dao động nhiệt độ theo mùa rất nhỏ. Có các loài cá chuyển động rất ít hoặc vùi mình dưới bùn. Ở ðại dương có tồn tại những hàng rào nhiệt ðộ hay không?Vùng mũi Cod là một thí dụ về hàng rào loại này. Nhiệt độ nước phía nam của mũi ấm hơn ở phía bắc 5,5oC. Rất nhièu loài cá chỉ có hoặc ở phía bắc, hoặc ở phía nam của mũi. Thậm chí có những loài kiếm ǎn cả ở hai nơi, nhưng chúng đẻ trứng chỉ ở một nơi nào đó nhất định. Vùng nước ấm hay vùng nước lạnh có sự sống phong phú hơn?Vùng nước lạnh Bắc cực thế giới động vật không đa dạng về loài như ở các vùng biển ấm, tuy nhiên các động vật ở đó lại lớn hơn và mỗi loài có số lượng cá thể nhiều hơn. Trong nước lạnh, khí oxy và cacbonic hoà tan tốt hơn. Ngoài ra, ở những vùng biển Bắc cực chất dinh dưỡng cần thiết cho sự tǎng trưởng của các thực vật nổi - mắt xích đầu tiên của chuỗi thức ǎn ở đại dương, có nhiều hơn. Những loài cá sống ở vùng cửa sông có thích nghi với những biến ðổi lớn của nhiệt ðộ không?Những loài cá đó thích hợp với những dao động của nhiệt độ tốt hơn là cá ở đại dương, nhưng không bằng các loài cá ở nước ngọt. Nhiều loài cá không chịu đựng nổi nhiệt độ nước cao hơn 32oC (nhiệt độ này xuất hiện trong những ngày hè nóng bức ở vùng vĩ độ thấp). Thậm chí sự nóng lên chút ít do nước thải công nghiệp hay nước làm lạnh lò phản ứng hạt nhân cũng có thể làm cho chúng chết. Kích thước của tôm hùm (Humarus) có phụ thuộc nhiệt ðộ nước hay không?Những kết quả thực nghiệm tiến hành ở Mỹ và Canada chỉ ra rằng sự tǎng nhiệt độ nước, tôm hùm phát triển nhanh hơn. Thí dụ, ở nhiệt độ 13oC, bốn giai đoạn ấu trùng thường hoàn thành trong vòng 30 ngày, ở nhiệt độ 17oC- trong 20 ngày và ở 21C -trong 10 ngày. Ngoài ra, ở nhiệt độ cao hơn, các ấu trùng dễ sống hơn. ở nhiệt độ cao người ta quan sát thấy sự phát triển trong giai đoạn ấu thể hay giai đoạn gần trưởng thành nhanh hơn. Song với những kết luận cuối cùng về nhiệt độ thích hợp nhất đối với tốc độ phát triển của tôm hùm còn chưa khẳng định được.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 12:21:40 GMT -5
Sinh thái học biển (Phần II) Ở vùng cửa sông có tồn tại các hàng rào muối hay không?Rất nhiều động vật nước ngọt không thể chuyển từ sông ra vùng nước lợ cửa sông, song một số khác, chẳng hạn như ốc nước ngọt có thể tự do di chuyển từ sông ra vùng cửa sông. Các loại sò, hàu, cua và tôm thích nghi với phạm vi rộng của độ muối. Loài thân mềm hai vỏ có phạm vi độ mặn hẹp, còn loài sao biển nhìn chung không thể sống ở vùng nước có độ muối nhỏ hơn 1,5%. Vì sao ở đáy đại dương sự sống lại nghèo hơn ở lớp mặt biển?Một nguyên nhân là không đủ thức ǎn. Nhưng nếu có đủ thức ǎn thì cũng bị một điều kiện quan trọng hạn chế đó là không đủ oxy hoà tan trong nước. Oxy có ý nghĩa gì?Oxy hoà tan có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự chuyển hoá của sinh vật. Ngoài ra nó còn tham gia vào quá trình tạo thành và hoà tan canxi cacbonat và cần thiết cho sự phân huỷ các chất hữu cơ. Oxy hoà tan vào nước biển bằng cách nào?Lớp nước tầng mặt hấp thụ oxy từ không khí. Từ mặt cho tới độ sâu ánh sáng có thể xâm nhập tới, oxy được tạo thành trong quá trình quang hợp của thực vật. Nhờ sự xáo trộn của lớp nước bề mặt và chuyển động thẳng đứng, lớp nước mặt giàu oxy thâm nhập xuống sâu hơn. Vì sao ðihyðro sunfua (H2S) lại tích tụ ở ðáy biển Ðen?Có một số sông lớn chảy vào biển Đen, do đó lớp bề mặt có độ muối nhỏ. Vì nước ở bề mặt nhẹ hơn rất nhiều so với nước ở dưới nên hầu như trong nước biển đó không có hoàn lưu thẳng đứng. Vì thế oxy ở các lớp trên không thâm nhập xuống lớp sát đáy được. Khi không có oxy, vi khuẩn khử lưu huỳnh tạo ra đihyđro sunfua từ các sunfat chứa trong nước. Sự tác ðộng của ðihyðro sunfua như thế nào?Đihyđro sunfua gây chết đối với phần lớn các sinh vật. Ngoài ra nó còn ǎn mòn rất mạnh nhiều vật liệu. Sự làm đen bột mì trắng (chì cacbinat) là hiện tượng rất rõ đối với các cửa sông bị ô nhiễm nặng. Cá có thể sống trong phạm vi nào của ðộ pH?Nhìn chung cá có có thể sống được với độ pH từ 5 đến 9. Song những biến đổi trong độ axit có thể làm tǎng thêm độ độc hại của một số chất ô nhiễm thông dụng. Do có thể chết với độ pH nhỏ hơn 5, nhưng một số loài cá lại thích nghi được với giá trị pH bé tới 3,7. Những nguyên tố vi lượng nào cần thiết cho sự phát triển của thực vật biển?Những nguyên tố thiết yếu cho sự phát triển thực vật là đồng, kẽm, molipđen và coban. Có dẫn liệu cho thấy rằng thiếu sắt cũng hạn chế sự phát triển của thực vật. Sinh vật biển tích các nguyên tố hóa học nào?Nhiều sinh vật như sò và các loại tôm tích đồng. Có những nguyên tố không phát hiện ra trong nước biển, nhưng lại tập trung ở trong các sinh vật biển. Trong các động vật có vỏ và hải sâm, người ta thấy có vanađi, còn ở thân động vật thân mềm có niken, tôm hùm và vẹm có coban. Trong các tảo nâu có tích iot và brom. Những nǎm gần đây đã nảy ra một mối lo lắng lớn về nồng độ những nguyên tố phóng xạ và thuỷ ngân trong các sinh vật mà con người sử dụng làm thức ǎn. Các sinh vật ảnh hưởng đến thành phần nước biển như thế nào?Hầu như tất cả các muối hoà tan trong nước đều được các sinh vật biển sử dụng để sinh sống, mặc dù ở mức độ khác nhau. ở những nơi sinh vật hoạt động mạnh thì nồng độ của các chất như photphat, các hợp chất của nitơ có thể bị giảm xuống dưới mức thông thường. Sự phân huỷ thực và động vật cũng làm thay đổi cục bộ thành phần hoá học của nước. Khí cacbonic tạo thành trong nước như thế nào?Khí cacbonic cần thiết để quang hợp được tạo thành trong quá trình thở của sinh vật và nó còn được thâm nhập trực tiếp vào nước từ khí quyển. Các chất dinh dưỡng hoá học trong đại dương có đủ hay không?Các nguyên tố như: kali, canxi và mage luôn luôn có trong nước với lượng vượt quá nhu cầu của thực vật biển. Còn nitơ, photpho, silic thì hàm lượng của chúng không phải luôn luôn dư thừa, và trong những điều kiện thuận lợi cho quang hợp thực vật có thể tiêu thụ hết nguồn dự trữ của chúng. Nguồn chất dinh dưỡng trong đại dương được bổ sung bằng cách nào?Trong nông nghiệp, để duy trì nǎng suất cao, nguồn dinh dưỡng cần thiết cho thực vật được bổ sung bằng cách bón phân nhân tạo. Trong đại dương, nguồn đó được khôi phục lại nhờ các quá trình tự nhiên, như hoạt động của vi khuẩn, dòng nước lục địa mang theo các loại phân bón nông nghiệp và nước thải. Sự phân huỷ các xác động vật và thực vật biển cũng là nguồn bổ sung chất dinh dưỡng.
|
|
|
Post by Robot on May 28, 2004 18:19:35 GMT -5
SINH THÁI HỌC CHƯƠNG 1 SINH QUYỂN VÀ CON NGƯỜI CHƯƠNG 2 TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG CHƯƠNG 3 HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP CHƯƠNG 1 : SINH QUYỂN VÀ CON NGƯỜIKHÁI NIỆM SINH QUYỂN NĂNG SUẤT SINH QUYỂN SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC TRONG SINH QUYỂN TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI ĐẾN SINH QUYỂN SỰ Ô NHIỄM SINH QUYỂN CẢI TẠO NGUỒN TÀI NGUYÊN CỦA SINH QUYỂN CHƯƠNG 2 : TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNGKHÁI NIỆM TÀI NGUYÊN KHÁI QUÁT VỀ TÀI NGUYÊN TRÊN THẾ GIỚI KHÁI QUÁT VỀ TÀI NGUYÊN VIỆT NAM NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG VÀ SINH THÁI VIỆT NAM CHƯƠNG 3 : HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆPKHÁI NIỆM HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP TỔ CHỨC CỦA HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ SINH THÁI NÔNG NGHIỆP NỀN NÔNG NGHIỆP SINH THÁI
|
|
|
Post by Robot on May 28, 2004 18:20:42 GMT -5
I. KHÁI NIỆM SINH QUYỂN
1. Ðịnh nghĩa
· Sinh quyển là khoảng không gian của trái ðất, ở ðấy có sinh vật cý trú và sinh sống thýờng xuyên . Sinh quyển là lớp vỏ ngoài của Trái Ðất gồm: thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh vật .
· Sinh quyển là mọt vùng sống mỏng ðạt ðộ cao 6-7km so với mặt biển, trên 10km ở ðộ sâu cực ðại của ðại dýờng vài chục mét dýới mặt ðất (60-100m) .
· Sinh quyển có tính thống nhất, ba quyển liên hệ chặt chẽ với nhau .
(Kiên, 1999) ; (Thời, 1997) ; (Tuyên, 2000)
2. Sự ra ðời và tiến hóa của sinh quyển
- Khi sự sống chýa xuất hiện, Trái Ðất là hành tinh chết với bầu khí quyển gồm N, H, CO, NH3, Cl, SO2, hõi nýớc, .. .. (do hoạt ðộng của núi lửa) .
- Từ Mặt Trời, tia tử ngoại chiếu xuống hành tinh làm cho hõi nýớc phân ly tạo một lýợng oxi không ðáng kể . Từ ðây sự tiến hóa hóa học khởi ðầu
- Nhiều chất hữu cõ phức tạp xuất hiện (nhý axit min) dẫn ðến hình thành sự sống ðầu tiên ở vùng nýớc nông của ðại dýõng cổ (cách ðây khoảng 3 tỷ nãm) . Những mầm sống ðầu tiên ở thể kỵ khí . Sau ðó dýới tác ðộng của chọn lọc tự nhiên ðã thúc ðẩy quá trình quang hợp, lýợng oxy tãng lên (khoảng 0,6( của khí quyển) . Nhý vậy bộ mặt hành tinh ðã có những biến ðổi lớn, từ tiến hóa hóa học sang tiến hóa sinh học và tiếp theo là sự tiến chiếm lục ðịa của giới thực vật . Trong các giai ðoạn khác nhau của ðại cổ sinh, ðời sống dýới nýớc và trên cạn trở nên phong phú ; hàm lýợng oxy dần ðạt ðýợc nhý hiện nay (20(thể tích khí quyển) . Ðồng thời sự phát triển ồ ạt của thực vật trên cạn còn là ðiều kiện ðảm bảo cho sự xuất hiện những nhóm ðộng vật lớn (bò sát, chim, thú, và sau ðó là sự xuất hiện của con ngýời cách ðây khoảng 1 triệu nãm) .
- Sự tiến hóa của sinh vật qua các giai ðoạn dẫn ðến những biến ðổi và thúc ðẩy sự tiến hóa của môi trýờng (vật lý, hóa học), qua ðó sinh quyển hình thành và tiến hóa .(Tạng, 2000)
|
|