|
Post by Robot on Mar 19, 2004 10:45:10 GMT -5
Trái đất từng là một quả cầu tuyết khổng lồSự tan vỡ của những mảng lục địa cổ đại đã biến trái đất thành một địa ngục băng hà kéo dài trong hàng triệu năm. Trên quả cầu tuyết này, băng bao phủ mọi lục địa và biển đóng băng cho đến tận đường xích đạo - một hiện tượng xảy ra ít nhất 2 lần trong khoảng 800-550 triệu năm trước. Thời kỳ Băng Hà dường như vô tận này đã được mở ra như thế nào đến nay vẫn là một điều bí ẩn. Trước đó, một số nhà khoa học cho rằng mặt trời đột ngột bị lạnh đi trong một khoảng thời gian, hoặc trái đất bị nghiêng trên trục của nó làm cho sức nóng mặt trời bị suy giảm. Nhưng nghiên cứu mới nhất do các chuyên gia tại Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia của Pháp (CNRS) và Đại học Florida (Mỹ ) thực hiện, đã mở ra tia sáng về một giả thuyết ít được để mắt tới: những cú lắc giật địa chất đã xé rách bề mặt trái đất và tạo nên một hiệu ứng nhà băng. Vào thời điểm đó, các lục địa ngày nay gắn kết thành một siêu lục địa gọi là Rodinia, một thực thể rộng lớn đến nỗi mưa từ biển không thể vào sâu trong lục địa. Khi Rodinia bị xé tách thành các mảnh nhỏ, lượng mưa đã thay đổi một cách nhanh chóng. Mưa rơi xuống những hòn đá bazan mới được phun lên từ miệng núi lửa và tạo ra một phản ứng giữa nước và canxi silicat. Trong đó, CO2 được tách ra khỏi không khí và cô lập thành canxi carbonate, sau đó rửa trôi ra biển. Mô hình máy tính ngày nay cho thấy việc hút khí nhà kính CO2 ra khỏi không khí đã gây nên đợt đông lạnh kinh hoàng. Nó ngược lại với hiệu ứng nhà kính, khi mà lượng CO2 tăng lên làm nóng trái đất. Theo sự mô phỏng thì trước khi Rodinia tan vỡ khoảng 800 triệu năm trước, hàm lượng CO2 trong khí quyển là 1.830 phần triệu (ppm), và nhiệt độ toàn cầu trung bình là 10,8 độ C. Đến thời điểm Rodinia tan vỡ, 50 triệu năm sau, bức tranh đã hoàn toàn khác. Hàm lượng CO2 là 510 ppm và nhiệt độ trung bình là 2 độ C. "Sự thay đổi địa chất đã tạo ra một sự chuyển dịch ghê gớm từ khí hậu nhà kính tới khí hậu nhà băng trong kỷ Đại nguyên sinh mới. Kết hợp với phản ứng giữa đá và mưa đã biến trái đất thành một quả cầu tuyết khổng lồ", các nhà khoa học kết luận. Minh Thi (theo ABC Online)
|
|
|
Post by Robot on Mar 19, 2004 10:46:49 GMT -5
Tìm thấy hành tinh thứ 10 trong hệ mặt trời? Nằm xa hơn bất cứ hành tinh nào khác trong thái dương hệ, thiên thể vừa phát hiện có đường kính có thể lớn hơn cả của sao Diêm Vương (2.500 km), và được gọi là Sedna, theo tên nữ thần biển Inuit. Phát hiện rất có thể lại làm dấy lên một cuộc tranh cãi về việc có nên xếp nó là một hành tinh thực sự hay không, bởi nếu đúng, người ta sẽ phải định nghĩa lại về hệ mặt trời. Sedna là vật thể lớn nhất được tìm thấy bay quanh mặt trời kể từ sau phát hiện ra sao Diêm Vương năm 1930. Tuy nhiên, các nhà quan sát vẫn không chắc lắm về kích cỡ của nó. Một nhà thiên văn cho biết nó thậm chí có thể còn "bự" hơn cả Diêm Vương tinh - vốn đã được liệt vào diện hành tinh. Thiên thể này được tìm thấy trong một cuộc khảo sát do tiến sĩ Michael Brown, thuộc Viện công nghệ California, đứng đầu tiến hành. Những tính toán sơ bộ cho thấy nó nằm cách trái đất khoảng 10 tỷ km, trong vành đai Kuiper (vùng biên hệ mặt trời, phía ngoài sao Hải Vương, có dạng đĩa với vô số thiên thể băng). Điều quan trọng của Sedna là ở chỗ nó là vật thể đầu tiên được tìm thấy bay trên một quỹ đạo thường gặp, trong khi các thiên thể khá lớn khác như Quaoar và Vanura cũng xuất phát từ vành đai Kuiper, nhưng lại đi lạc sang các quỹ đạo khác nhau. Một nhóm các nhà thiên văn tin rằng sao Diêm Vương cũng không phải là một hành tinh thực sự, mà chỉ là một vật thể lớn nhất trong vô số các vật thể tí hon ở vùng ngoài của hệ mặt trời mà thôi. Chi tiết về phát hiện này sẽ được Cơ quan vũ trụ Mỹ NASA công bố chiều nay. B.H. (theo BBC) 'Tiểu hành tinh' thứ 10 lạnh lẽo và xa xôi nhất Phác thảo về tiểu hành tinh Sedna, phía xa là mặt trời. Thông báo chính thức chiều qua của Cơ quan Vũ trụ Mỹ (NASA) cho biết, thiên thể mới được tìm thấy là thế giới tối tăm và băng giá nhất trong thái dương hệ. Nó nhỏ hơn Diêm Vương tinh chút xíu và ở khoảng cách xa gấp đôi. "Tiểu hành tinh" mới (được đặt tên là Sedna, theo tên nữ thần Inuit, người đã tạo ra các sinh vật trên biển Bắc cực) nằm cách mặt trời hơn 13 tỷ km và nhiệt độ của nó chưa bao giờ vượt quá âm 240 độ C. Vị trí của Sedna trong hệ mặt trời: Từ trong ra lần lượt là mặt trời và các hành tinh bên trong, sao Mộc (Jupiter), sao Thổ (Saturn), sao Thiên Vương (Uranus), sao Hải Vương (Neptune), sao Diêm Vương (Pluto) và Sedna. Con số đi kèm với mỗi hành tinh là khoảng cách từ đó đến mặt trời, tính theo đơn vị AU. "Mặt trời nhìn từ khoảng cách này nhỏ đến mức bạn có thể nhầm nó với đầu một cái đinh ghim", Mike Brown, một nhà thiên văn tại Viện Công nghệ California, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết. Sedna đồng thời cũng là một trong những vật thể đỏ nhất trong thái dương hệ, chỉ thua kém Hoả tinh. Phải mất 10.500 năm trái đất nó mới chạy hết một vòng quỹ đạo hình elip xung quanh mặt trời. Brown và các nhà thiên văn khác đã phát hiện ra Sedna hôm 14/11 năm ngoái, trong một cuộc điều tra vùng ngoài hệ mặt trời. Khi quan sát sâu vào không gian, họ nhận thấy các ngôi sao và các vật thể vũ trụ đứng yên khác, cùng với một vật thể chuyển động rất chậm mà về sau được gọi là Sedna. Các ngôi sao và vật thể ngoài hệ mặt trời thường ở quá xa, nên với người quan sát trên trái đất chúng gần như bất động. Vì thế, chúng được các nhà thiên văn sử dụng làm nền để quan sát chuyển động của các vật thể gần hơn trong hệ mặt trời - ND. "Bất cứ thứ gì chuyển động rất chậm băng ngang qua bầu trời, chúng tôi biết rằng đó phải là một thành phần của hệ mặt trời: một vệ tinh, một hành tinh hay một tiểu hành tinh", Brown cho biết. "Nhưng đây là vật thể chuyển động chậm nhất từng được nhìn thấy trong không gian, và chúng tôi biết nó phải nằm ở rất xa". Sedna tự quay quanh mình một vòng hết 40 ngày - một chuyển động chậm đến mức các nhà thiên văn dự đoán có một mặt trăng đang kìm hãm tốc độ quay của nó. Để kiểm nghiệm điều này, Brown và cộng sự đã sử dụng Đài thiên văn vũ trụ Hubble để quan sát. Tiểu hành tinh, không phải là hành tinhBrian Marsden, giám đốc trung tâm Tiểu hành tinh thuộc Hiệp hội Thiên văn Quốc tế, nhận xét Sedna là một phần của hệ mặt trời, nhưng không có nghĩa là một hành tinh. "Tôi cho rằng sẽ là sai lầm nếu gọi nó là hành tinh thứ 10. Giống như thể lầm lẫn trong việc gọi sao Diêm Vương là hành tinh thứ 9 vậy", Marsden nói. Kích cỡ của Sedna so với trái đất, mặt trăng, sao Thuỷ và sao Diêm Vương. Để được xếp vào dạng hành tinh, các vật thể vũ trụ phải đạt đến một kích cỡ nào đó, và Diêm Vương tinh ở giới hạn dưới của kích cỡ này, Marsden nhận xét. Ông cảm thấy sao Diêm Vương không đạt tiêu chuẩn - quỹ đạo của nó không tròn mà cũng chẳng thuộc cùng một mặt phẳng với quỹ đạo của các hành tinh khác trong hệ. Vì Sedna nhỏ hơn (bằng 3/4) và lệch tâm hơn so với sao Diêm Vương, Marsden nghi ngờ về thứ hạng hành tinh của nó. Brown đồng ý với đánh giá này, và thậm chí cả với quan điểm của Marsden cho rằng Diêm Vương tinh không phải là hành tinh. B.H. (theo Reuters)
|
|
|
Post by Robot on Mar 23, 2004 11:30:17 GMT -5
Thần Vệ nữ và chị Hằng hội ngộ 14:36' 23/03/2004 (GMT+7) Vào chập tối ngày mai 24/3, hai biểu tượng về vẻ đẹp của vũ trụ sẽ đồng chiếu sáng, tạo ra cảnh ngoạn mục cho người dân trên thế giới: Sao Kim, đại diện cho "nữ thần tình yêu và sắc đẹp", sẽ ở rất gần Mặt trăng lưỡi liềm và cùng toả sáng. Sao Kim. Theo Alan MacRobert, biên tập của tạp chí Bầu trời và kính thiên văn, mọi người sẽ nhìn thấy hai thiên thể sáng chói này bằng mắt thường và sẽ đẹp hơn nhiều nếu sử dụng ống nhòm hoặc kính thiên văn. Sao Kim (Venus) được coi là hành tinh chị em của Trái đất bởi nó có kích cỡ tương đối nhỏ. Tuy nhiên, nhiệt độ của bề mặt xấp xỉ 700 độ C và áp suất khí quyển tương đương với áp suất ở độ sâu 610m dưới biển. Theo thuật ngữ thiên văn, hiện tượng "cặp đôi" trên bầu trời vào ngày 24/3 được gọi là sự giao hội. Giao hội xảy ra bởi các hành tinh trong Thái dương hệ (ngoại trừ Sao Diêm vương) và Mặt trăng của Trái đất nằm trong cùng một mặt phẳng. Các thiên thể này cùng nằm trên một mặt phẳng do chúng hình thành từ một quầng bụi mỏng quay theo quỹ đạo quanh Mặt trời vào thời điểm Thái dương hệ phát triển. Sự giao hội độc nhất vô nhị giữa Sao Kim và Mặt trời sẽ xảy ra vào ngày 8/6 năm nay. Sự kiện này liên quan tới việc Sao Kim đi ngang qua phía trước Mặt trời. Mọi người có thể chiêm ngưỡng với điều kiện sử dụng các bộ lọc đặc biệt để bảo vệ mắt. Lần giao ngộ cuối cùng giữa Mặt trời với Sao Kim xảy ra vào năm 1882. Mặc dù là một hành tinh song Sao Kim thường được gọi là Sao Mai hoặc Sao Hôm. Do nằm ở vị trí thứ hai từ Mặt trời nên có thể nhìn thấy Sao Kim như một điểm cực sáng ở phía Đông trước lúc bình minh hoặc ở phía Tây sau hoàng hôn. Hoàn toàn sai về thuật ngữ khi gọi Sao Kim là Sao Mai và Sao Hôm. Tuy nhiên, thật dễ hiểu tại sao các nhà thiên văn đầu tiên lại mắc phải sai lầm này. Cách nôm na phân biệt sự khác biệt giữa sao và hành tinh là liệu điểm sáng có... rung rinh hay không. Nguyên nhân của ảo giác trên là do lượng ánh sáng phản xạ từ một hành tinh và tới dược mắt người quan sát không đứt quãng lớn hơn so với lượng ánh sáng của một ngôi sao. Ngôi sao ở xa hơn và dường như rung rinh. Sao Kim không chỉ là hành tinh duy nhất giao hội với Mặt trăng vào tháng 3 năm nay. Đối với các nhà quan sát ở Bắc bán cầu, Sao Thuỷ ở gần Mặt trăng vào khoảng các ngày 21-22/3. Mặt trăng và Sao Hoả mờ nhạt sẽ giao hội vào ngày 25/3, tiếp theo là Mặt trăng với Sao Thổ vào ngày 28/3. Sự kiện giao hội cuối cùng này sẽ rất khó quan sát vào lúc hoàng hôn. Sự giao ngộ giữa Sao Kim với Mặt trăng vào ngày 24/3 là một đặc ân mà thiên nhiên dành cho con người bởi bầu trời lúc đó rất tối. Các thiên thể trong bầu trời đêm thường bị các nguồn sáng trên bề mặt Trái đất làm mờ đi. Năm hành tinh được nhìn thấy ở Bắc bán cầu. Vào chạng vạng tối từ nay cho tới cuối tháng 3, mọi người cũng sẽ nhìn thấy năm hành tinh: Sao Thuỷ, Sao Kim, Sao Hoả, Sao Thổ và sao Mộc cùng một lúc bằng mắt thường bởi chúng nằm ở cùng một phía của Mặt trời. Mặc dù các nền văn minh cổ đại có lẽ đã sử dụng những cuộc hội ngộ này để xác định điềm báo song giới thiên văn hiện đại không có những ảo tưởng như vậy. MacRobert nói: ''Chúng ta biết các hành tinh không phải là thần. Chúng không nhìn xuống chúng ta và phân phát sự may rủi... Chúng ta đã đưa các robot thăm dò lên Sao Hoả và những robot này không hạ cánh trên bộ ngực đầy lông của một vị thần nào mà hạ cánh xuống một quả cầu đá''. Tuy nhiên, thật là khó khi ngước nhìn bầu trời đêm mà không thắc mắc. Nhà thiên văn Nissen nhận xét: ''Tôi không nghĩ là lại có một người đang sống không bị quyến rũ bởi bầu trời đêm. Chúng ta sống bên dưới nó song nhiều người lại thờ ơ''. Đối với những người như vậy, Nissen có vài lời khuyên: ''Dành một vài giờ, ngồi trên một chiếc ghế vừa uống vừa theo dõi Mặt trăng. Mặt trăng là một thiên thể tuyệt đẹp''. MacRobert cũng có quan điểm tương tự: ''Ngước nhìn bầu trời giúp chúng ta thoát khỏi cuộc sống nhỏ bé, vặt vãnh thường ngày trên Trái đất này và làm chúng ta nhận ra chúng ta có một chỗ trong một vũ trụ rộng lớn hơn nhiều''. Minh Sơn (theo National Graphics)
|
|
|
Post by Robot on Mar 24, 2004 10:25:48 GMT -5
Cuộc hội ngộ hiếm có của 5 hành tinh trên bầu trờiTrong hai tuần tới, sao Thuỷ, Kim, Hoả, Mộc, Thổ - 5 hành tinh gần trái đất nhất - sẽ xếp hàng với nhau trên bầu trời, trong một buổi trình diễn tuyệt diệu không có lần hai trong 3 thập kỷ. Cùng tham dự cảnh ngoạn mục đó sẽ là chị Hằng."Đó là một hiện tượng vô cùng độc đáo. Chúng đều ở cùng một phía của mặt trời và trải dài trên bầu trời. Cảnh tượng đó chắc hẳn sẽ rất đẹp", nhà thiên văn học Myles Standish tại phòng thí nghiệm Jet Propulsion tại California, Mỹ, nói. Vị trí của các hành tinh trên bầu trời. Từ nay tới đầu tháng 4, tại mọi nơi trên thế giới, ai cũng có thể nhìn thấy bằng mắt thường dãy hàng 5 hành tinh vào lúc mặt trời lặn. Hiện tượng sẽ kéo dài trong khoảng 1 giờ mỗi tối. Đến cuối năm, cả 5 hành tinh sẽ tái ngộ trong vài tuần, nhưng vào những giờ trước bình minh. Hiện tượng hội tụ của các hành tinh này sẽ mang tới một đêm thần tiên mà không lặp lại cho tới năm 2036. Cứ sau vài năm, quỹ đạo của 5 hành tinh sẽ đưa chúng tới cùng một phía của mặt trời. Chúng cần điều kiện đủ để cả 5 hành tinh hiện rõ trên bầu trời vào lúc hoàng hôn hoặc bình minh. Thường khó có thể nhìn thấy sao Thuỷ. Hiện tượng các hành tinh xếp thẳng hàng còn hiếm có hơn. Những người quan tâm nên nhìn về phía bầu trời tây sau khi mặt trời lặn. Sao Thuỷ, Kim, Hoả và Thổ sẽ xếp thẳng hàng cùng với sao Mộc nằm gần đường chân trời. Chúng sẽ trải dài trên 135 độ. Sao Thổ gần như thẳng ngay trên đầu. Để nhìn thấy 3 hành tinh khác trong hệ mặt trời - sao Diêm Vương, Hải Vương, Thiên Vương - cần có kính viễn vọng. Minh Thi (theo AP)
|
|
|
Post by Robot on Mar 26, 2004 8:26:48 GMT -5
40 năm thuyết Big Bang về sự tạo thành và giãn nở của vũ trụ Georges Lemaitre. Năm 1925, Georges Lemaitre, một nhà vật lý Bỉ, đã phát hiện ra rằng thuyết tương đối tổng quát của Albert Einstein dẫn đến hệ quả: Vũ trụ không phải là tĩnh, mà đang giãn nở, hoặc nói cho đúng, đang nằm trong quá trình giãn nở một cách không đổi. Một tà thuyết của dị giáo? Chính Einstein cũng thấy được sự giãn nở đó qua các phương trình, và điều đó lúc đầu cũng làm ông ngạc nhiên. Nhà thiên văn Edwin Hubble (ngày nay tên ông được đặt cho tên kính viễn vọng lớn nhất thế giới) đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu hiện tượng này. Năm 1929, ông công bố định luật mô tả sự biến mất của những thiên hà mà ông quan sát qua kính viễn vọng. Định luật Hubble là định luật đầu tiên khẳng định trực tiếp sự giãn nở của vũ trụ mà Lemaitre đã nói từ trước. Nhưng không phải tất cả mọi người đều đồng tình với nhận xét đó. Vũ trụ có lẽ được tạo ra từ rất lâu, từ một vụ nổ của một nguyên tử tiên khởi rất cô đặc. Nhà vật lý Fred Hoyle, một người nổi tiếng là hay nghi ngờ, đã sáng tác ra thuật ngữ big-bang để giễu cợt ý tưởng về “vụ nổ tiên khởi”. Nửa thế kỷ sau, tuy Hoyle cũng chưa đồng tình lắm về ý tưởng đó, nhưng thuật ngữ “big bang” do ông đề xuất đã phổ biến. Vào cuối những năm 40, Georges Gamow hiểu rằng chính trong quả cầu lửa tiên khởi mà những nguyên tố hóa học đầu tiên được tạo ra: deuterium, helium và lithium… Nhưng ông cũng nói trước: từ sức nóng tiên khởi đặc biệt đó, phải xuất hiện một cái gì khác nữa! Tình cờ năm 1964, với những ăngten bắt sóng những buổi phát của Telstar, vệ tinh đầu tiên của viễn thông, hai nhà khoa học của phòng thí nghiệm Bell phát hiện một âm nhiễu nguồn gốc không rõ từ đâu. Arn Penzias và Robert Wilson trong năm 1965 đã công bố những kết quả kỳ lạ, và người ta hiểu ngay rằng đó là bức xạ gốc mà Garmow đã nói từ trước. Lemaitre gọi bức xạ gốc đó là “tia sáng đã mất từ nguồn gốc của thế giới”. Sự phát hiện ra bức xạ đó là một lợi thế rõ ràng của thuyết Einstein. Về sau, năm 1990, vệ tinh của Mỹ COBE đánh giá nhiệt độ của bức xạ đó khuếch tán ở nhiệt độ không đổi là 2,7 độ K trong khắp bầu trời. Nhiệt độ của bức xạ chênh nhau với một sự dao động rất nhỏ (trong khoảng 30 phần nghìn độ ). Những sự dao động đó cho biết tính không đồng nhất của tỷ trọng, và đó là nguồn gốc của những cấu trúc lớn của vũ trụ, như là những quần thể thiên hà. Những nhận xét đó phù hợp với tiên đoán của lý thuyết với độ chính xác tuyệt vời. "Nếu không có thuyết Big-Bang thì sự tồn tại của bức xạ gốc và sự tổng hợp những nguyên tố hóa học nhẹ là những bí ẩn không thể giải thích nổi”, James Peebles đã nói như vậy. Hơn nữa, vẻ sáng màu đỏ của những thiên hà là kết quả tự nhiên của sự giãn nở vũ trụ. “Có một số sự kiện được xác nhận một cách chắc chắn, không có một chút nghi ngờ. Các ý tưởng mới, ít hay nhiều xa lạ, được thu hút xung quanh các ý tưởng đó. Một số ý tưởng nào đó được chấp nhận một cách tình cờ, vì chúng giải đáp được một hay nhiều bài toán hiện hữu của thuyết Big-Bang”, James Peeble lý giải như vậy về ý tưởng “big-bang”. Ngày nay thuật ngữ Big-Bang được dùng để chỉ những hiện tượng thiên nhiên cũng như xã hội bùng lên bất ngờ, dữ dội, đánh dấu sự bắt đầu một quá trình chuyển động của thực thể vật chất hay tinh thần. Kiến thức Ngày nay (theo Science Québec)
|
|
|
Post by Robot on Apr 9, 2004 9:32:23 GMT -5
Từ trường trái đất bị đảo cực Cực từ trường của Trái đất TTO - Cực Nam trở thành cực Bắc và ngược lại, đây là một sự kiện đáng sợ vì nó có thể gây ra nhiều thảm hoạ cho các loài sinh vật trên trái đất, Bradford Clement, giáo sư tại Đại học Quốc tế Florida ở Miami, vừa đưa ra dự báo. Tình trạng đảo cực từ trường xảy ra khi dòng sắt nóng chảy di chuyển quanh lớp nhân ngoài của Trái đất thay đổi quá trình tuần hoàn. Và khi đó, cường độ của từ trường giảm xuống trước khi nhịp điệu tuần hoàn được thiết lập lại và tình trạng phân cực mới bắt đầu. Tuy nhiên, cho đến nay, giới khoa học vẫn chỉ mới dự đoán thời gian kéo dài của mỗi lần đảo chiều là từ vài ngàn năm đến 28.000 năm. Braford Clement đã tiến hành phân tích dữ liệu từ 30 mẫu trầm tích được khoan từ đáy hồ hoặc đáy biển ở nhiều kinh độ và vĩ độ trên thế giới. Các mẫu vật này lắng đọng trong 4 thời kỳ khác nhau và ghi lại dấu vết của từ trường ở những giai đoạn đó. Kết quả phân tích cho thấy phải mất trung bình khoảng 7.000 năm hai cực từ mới được thiết lập trở lại.L Và lần đảo cực gần đây nhất diễn ra cách đây khoảng 790.000 năm và nếu quá trình này tiếp tục, thì lần tới, kim la bàn sẽ chỉ về hướng nam, thay vì hướng bắc như hiện nay. Clement cũng cho biết thêm là sự đảo chiều này không diễn ra đột ngột, nó diễn ra sớm hơn ở xích đạo (khoảng 2.000 năm) nhưng lại chậm hơn ở các vĩ độ cao, gần về phía hai cực (khoảng 10.000 năm). Nguyên nhân của tình trạng này là khi không có từ trường bắc - nam, nhân trái đất đã tạo ra một trường từ thứ hai yếu hơn, có rất nhiều cực mini tại bề mặt của nó. Cuối cùng khi hai cực chính được thiết lập lại, từ trường thứ cấp biến mất. Không ai biết được hậu quả của hiện tượng này nhưng nhiều chuyên gia cho rằng hậu quả của sự đảo cực từ trường là đời sống sẽ bị đảo lộn, mọi người phải đi lại bằng la bàn. Từ trường còn là lá chắn bảo vệ Trái đất khỏi các vụ nổ bức xạ nguy hiểm từ mặt trời, nếu mất đi lá chắn này thì con người phải tiếp xúc nhiều hơn với bức xạ, các hạt từ mặt trời sẽ lao vào thượng tầng khí quyển, làm ấm nó và có thể làm thay đổi khí hậu. Hiện tượng đảo ngược cực từ trường như diễn ra ngẫu nhiên về thời gian và không thể dự đoán được, có thể 20.000 - 30.000 năm và cũng có thể lên tới 50 triệu năm. T.L (Theo Discovery, AFP)
|
|
|
Post by Robot on Apr 9, 2004 9:34:18 GMT -5
Thiên niên kỷ sau, một số vùng sẽ chìm sâu dưới biển Greenland nhìn từ không gian Đến cuối thế kỷ này, thảm băng ở Greenland (kích thước chỉ thua Nam Cực) sẽ bắt đầu tan dưới tác động của khí nhà kính. Như vậy trong khoảng 1.000 năm nữa, mực nước biển sẽ dâng lên 7m, đồng nghĩa với một số vùng trên thế giới sẽ chìm sâu dưới đáy biển. Điều quan trọng hơn nữa là một khi hiện tượng này đã xảy ra, không một ai có đủ quyền năng để đảo ngược tình thế. Các nhà khoa học đã sử dụng mô hình máy tính tinh vi để dự báo xem những gì sẽ xảy ra đối với thảm băng tại các mức thải CO2 khác nhau. CO2 là sản phẩm thoát ra từ việc đốt các loại năng lượng hóa thạch, một trong những nhân tố khiến cho khí hậu toàn cầu ấm lên. Jonathan Gregory, trưởng nhóm nghiên cứu, nhà khí tượng học thuộc ĐH Reading (Anh), cho biết: "Chúng tôi có đủ bằng chứng trực quan cho thấy thảm băng đã bắt đầu tan ra. Không còn nghi ngờ gì nữa, băng ở Greenland đủ để khiến cho mực nước biển tăng lên". Kết quả nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí khoa học danh tiếng Nature số ra hôm nay 8/4, Trước khi thế giới bước vào công cuộc công nghiệp hóa, khí quyển chứa 280 phần triệu CO2. Hiện nay, con số này đã lên tới 370. Mô hình máy tính được thử nghiệm với các bối cảnh khác nhau, trong đó mức CO2 cũng biến động theo các mức 450, 550, 650, 750 và 1.000. Kết quả thu được không lấy gì làm sáng sủa: Chúng ta đang phải đối mặt với nguy cơ mang tên Albedo - khả năng phản chiếu ánh sáng mặt trời. Chúng ta ai cũng biết rằng, băng và tuyết phản chiếu ánh sáng mặt trời, từ đó tạo ra nhiệt. Một vùng đất càng tiếp xúc nhiều với ánh nắng, càng thẩm thấu nhiều nhiệt độ, do vậy khiến cho băng càng tan nhiều hơn - hiện tượng này liên tục tiếp diễn, tạo thành một cái vòng lẩn quẩn. Theo phần lớn các "phương trình" mà máy tính thực hiện, đến năm 2100, Greenland sẽ ấm lên khoảng 3 độC, khiến cho lượng băng tan ra nhiều hơn lượng tuyết rơi xuống. Trong nhiều trường hợp, đến năm 2350, nhiệt độ sẽ tăng khoảng 8oC - một viễn cảnh được coi là ngày tận thế của Trái đất. Cuộc nghiên cứu còn cho thấy rằng, chỉ đến năm 2050 thôi, mức CO2 trong khí quyển cũng sẽ cao hơn mức thấp nhất thử nghiệm trên mô hình máy tính (450), và CO2 có tên trong sáu loại khí nhà kính chủ yếu. Ngay cả khi mức CO2 và nhiệt độ toàn cầu được đưa trở lại ngang bằng với thời điểm trước khi xảy ra công nghiệp hóa, thảm băng cũng không thể nào khôi phục được nữa, bởi vì đất đai Greenland đã ấm lên dưới tác động của Albedo! Hiện nay, Nghị định thư Kyoto của Liên Hiiệp Quốc là thoả ước duy nhất trên thế giới về cắt giảm khí nhà kính, yêu cầu các nước công nghiệp phải tham gia cắt giảm thải khí nhà kính trong khung thời gian 2008-2012. Tuy nhiên, Nghị định thư này không được sự đồng thuận của cả thế giới, bởi Nga vẫn chưa đặt bút ký, và Mỹ, quốc gia thải nhiều CO2 nhất trên thế giới thì đã chủ động rút lui! Theo AFP, Nature
|
|
|
Post by Robot on May 28, 2004 17:32:09 GMT -5
Vũ trụ có đường kính 156 tỉ năm ánh sáng
TTO - Theo một số nhà thiên văn học, vũ trụ có đường kính trên 156 tỉ năm ánh sáng. Đó là kết quả từ những nghiên cứu mới nhất về "Bức xạ nền của vũ trụ" (thường được gọi là "Âm vang của Big Bang" )
Theo nguyên lí cơ bản, ta có thể xác định đường kính của vũ trụ bằng cách tính đường đi của 1 lượng tử ánh sáng (photon) từ đầu này đến đầu kia của vũ trụ.
Nhưng vì vũ trụ luôn giản nỡ nên các phép tính sẽ phức tạp hơn nhiều.
Dựa vào tuổi của sao và sự giãn nở của vũ trụ, các nhà khoa học xác định được tuổi của vũ trụ là 13,7 tỉ năm (các lý thuyết mới nhất nói rằng vũ trụ đã 14,7 tỉ tuổi).
Điều đó nghĩa là một bức xạ phát ra từ "vũ trụ sơ khai" (lúc mới hình thành) đã đi được 13,7 tỉ năm.
Theo tính toán, với tốc độ giãn nỡ của vũ trụ, 1 photon di chuyển 13,7 tỉ năm đang cách vị trí xuất phát của nó 78 tỉ năm ánh sáng. (1/2 đường kính của vũ trụ ).
ANH QUÝ (Theo BBCNews)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 7:12:38 GMT -5
Sao Hỏa chứa ðầy hidro Lần ðầu tiên, những nhà nghiên cứu của cơ quan Hàng không và Không gian (NASA) của Mỹ ðã khu trú những nơi tập trung lớn hidro quanh cực nam của Sao Hỏa. Ðó là dấu hiệu cho thấy có khả nãng về sự có mặt của nước, bãng giá bên dưới bề mặt không ðầy một mét. Tấm bản ðồ trên ðược lập nên nhờ con tàu thám không không người lái của Mỹ mang tên Mác Oðixay bay quanh hành tinh Ðỏ này từ tháng 10/2001. Quả thế, những nhà khoa học ðã biết từ lâu rằng tầng ðất cát của Sao Hỏa có chứa bãng, nhưng họ chỉ không rõ là bao nhiêu thôi. Rõ ràng là những dự trữ bãng này lan rộng tới tận 60 ðộ vĩ nam, tại những miền ít lạnh hơn ở hai cực, chúng có thể chứa nước lỏng trong một quá khứ xa xôi có nhiệt ðộ ôn hòa hơn. Nhóm cộng tác của B.Phendơman, chỉ ðạo những sự phân tích từ nay trở ði sẽ thử ước tính khối lượng bãng hiện diện và dự ðịnh theo dõi sự tiến hóa hàng mùa của những dự trữ ðó tính theo nãm Sao Hỏa, tức là 687 ngày trên Trái ðất chúng ta. Dung Nguyên Vũ trụ ðựơc tạo dựng như thế nào? Thuyết nhân quả có phải là một ðặc tính vốn có và thiết yếu của vũ trụ hay không? Hay ðó chỉ là ảo tưởng do con người tự dựng ra về thế giới này? Ðó là sự thật - các nhà vật lý ngày nay tin như thế. Họ ðã tiến hành nghiên cứu ðể tìm ra cách thức vũ trụ ðược xây dựng nên từ những khối không-thời gian nhỏ nhất. Nghiên cứu của họ còn giúp phát triển thuyết lượng tử, từ ðó liên kết 2 học thuyết về vũ trụ không có liên hệ gì với nhau: thuyết lượng tử và thuyết tương ðối. Thuyết lượng tử mô tả vũ trụ ở một cán cân siêu nhỏ - khoảng 10-35 m (nhỏ hơn ðường kính proton 1.020 lần). Ở kích thước nhỏ như vậy, người ta dự ðoán rằng cấu trúc bên ngoài của không gian và thời gian phải chuyển sang dạng bọt, khi ðó sự liên kết giữa các ðiểm khác nhau luôn luôn hiện diện và biến mất. Các nhà vật lý từ rất lâu ðã muốn xác ðịnh bản chất của không-thời gian ở mức ðộ kích thước siêu nhỏ và hy vọng có thể phát triển hệ vũ trụ 4 chiều như thuyết tương ðối của Einstein mô tả. Các nhà khoa học khi nghiên cứu vấn ðề này cho rằng mỗi phần nhỏ của cấu trúc bọt này là 1 tam giác 4 chiều. Trong ðó 3 chiều của không gian và 1 chiều của thời gian. Cấu trúc không-thời gian có thể ðược hình thành từ việc nối các ðỉnh tam giác này lại với nhau, giống như việc có thể dựng nên 1 mặt phẳng cong từ mặt phẳng 2 chiều. Vì cấu trúc bọt lượng tử này lại dao ðộng không ngừng, biến chuyển không ngừng thành các dạng hình thể khác nhau, xây dựng nên 1 vũ trụ vật lý nối kết từ các ðỉnh tam giác. Có thể bạn sẽ nghĩ như thế chắc hẳn sẽ tạo nên 1 vũ trụ 4 chiều, nhưng nó lại không như thế. Các nhà nghiên cứu ðã phát hiện rằng theo cách này, họ tìm thấy cấu trúc không-thời gian với con số chiều không hạn ðịnh, hoặc có thể chỉ là 2 chiều. Và như vậy thì lại không phù hợp với vũ trụ thực tế của chúng ta. Ðến nay, Renate Loll của ðại học Utrecht, Netherlands ðã tìm ra con ðường ðể tập hợp tất cả những mảnh nhỏ lại ðể xây dựng nên 1 vũ trụ 4 chiều chắc chắn. Nhưng chúng ta buộc phải chấp nhận 2 việc. Thứ nhất, thuyết tương ðối phải áp dụng với mỗi vật thể riêng biệt rằng không có vật gì có thể chuyển ðộng xuyên qua vật thể nhanh hơn ánh sáng. Thứ hai, quá trình phải bao hàm cả thuyết nhân quả. Ðiều này có nghĩa là mỗi mảnh của không-thời gian không thể ðược xây dựng theo con ðường mà một “sự kiện” - một sự thay ðổi nào ðó trong vũ trụ - ðến trước nguyên nhân của nó. Càng chấp hành ðúng theo những tiêu chuẩn trong việc tính toán, các chuyên gia ðã ði ðến kết luận cuối cùng rằng vũ trụ có 3 chiều không gian và 1 chiều thời gian. Ngạc nhiên hơn, họ còn tìm ra vũ trụ ðiển hình phát sinh theo cách thức này ban ðầu nhỏ, nhưng càng ngày càng phát triển lớn ra, nói một cách ðơn giản là chúng giãn nở ra. Ðiều tương tự cũng ðã xảy ra với vũ trụ sau vụ nổ Big Bang. Làm ðược việc này hoàn toàn ngoài mong ðợi của các nhà khoa học. Dường như chỉ có một cách thức duy nhất phù hợp với việc tạo thành vũ trụ, ðó là lượng tử không-thời gian phải tuân theo thuyết nhân quả. Lãm Du (Theo Nature)
|
|
|
Post by Robot on Oct 13, 2004 8:29:47 GMT -5
Phát hiện cánh đồng thiên thạch lớn nhất thế giới
TTO - Một nhóm nhà khoa học Pháp và Ai Cập cho biết đã phát hiện cánh đồng thiên thạch lớn nhất thế giới nằm ở biên giới Ai Cập-Lebanon với hơn 100 dấu vết thiên thạch rơi xuống.
Những mảnh còn lại của trận mưa sao băng đã rớt xuống trái đất cách đây khỏang 50 triệu năm và bao trùm một khu vực 5.000 km2. Các hố có đường kính từ 20 m đến 1 km đã được tạo ra do va chạm. Những tảng thiên thạch còn lại bị chôn vùi sâu 80 m. Cho tới gần đây, một cánh đồng thiên thạch rộng 60 km2 ở Argentine đã được cho là lớn nhất thế giới.
Q.HƯƠNG-Xinhuanet
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 6:39:32 GMT -5
Lỗ đen vũ trụ và thuyết những hạt ma www.thanhnien.com.vn/TinTuc/KhoaHoc/2004/10/13/31764/lo-den_A2.jpg[/img] Thuyết những hạt ma được đưa ra nhằm giải quyết một trong những bí ẩn lớn nhất của vũ trụ. Theo thuyết này, những khoảng không trống rỗng phải được lấp đầy với những hạt ma. Nhưng theo những tính toán gần đây nhất, các nhà khoa học lại cho rằng những lỗ đen vũ trụ sẽ nuốt chửng tất cả các hạt này, có vẻ như họ đã đánh đổ thuyết những hạt ma. Thuyết những hạt ma được đưa ra vào năm ngoái, bổ sung cho thuyết tương đối của Einstein. Thuyết cho rằng những hạt ma có tính kháng lại trọng lực khiến chúng trở thành 1 khối đàn hồi ngày càng giãn nở rộng ra và tích tụ ngày càng nhiều năng lượng hơn. Thuyết này hấp dẫn rất nhiều nhà vũ trụ học vì nó hứa hẹn mở ra lời đáp cho 3 vấn đề cấp thiết: bản chất của nguồn năng lựơng bí mật đã chia tách vũ trụ, bản chất của thế lực bí mật đã giữ những dãy thiên hà lại với nhau, và nguyên nhân làm cho vũ trụ giãn nở nhanh chóng sau vụ nổ Big Bang. Nhưng Andrei Frolov của đại học Stanford, California đã tự hỏi liệu điều gì sẽ xảy ra nếu những hạt ma này tiếp xúc với lỗ đen vũ trụ; việc này hiển nhiên đã, đang và vẫn sẽ xảy ra vì tất cả chúng đều tràn ngập trong vũ trụ. Chính thắc mắc này đã thúc ép ông tìm tòi giải đáp. Thật trớ trêu, những tính toán của ông cho thấy tính kháng trọng lực của những hạt ma đã từng quyến rũ bao vũ trụ gia cũng đồng thời làm cho chúng không có khả năng chống lại sức hút của lỗ đen vũ trụ. Frolov nói: “Nó sẽ rơi giống như bụi sẽ phải rơi xuống 1 lỗ đen”. Ông phát hiện ra rằng 1 lỗ đen với khối lượng bằng mặt trời của chúng ta sẽ tác dụng lực vào hạt ma với tỉ lệ 1/10 trọng lượng mặt trời mỗi giây. Với tỉ lệ này, lỗ đen siêu khối lượng ở trung tâm những thiên hà, chẳng hạn như Milky Way, sẽ lớn gấp 2 lần bình thường. Và như vậy, Frolov phản đối thuyết những hạt ma: “Nó rõ ràng rằng không thể xảy ra”. Nhưng dù thế, những người theo thuyết hạt ma, bao gồm cả Markus Luty của đại học Maryland ở Baltimore, thì không dễ dàng bị thuyết phục. Họ nói những hạt ma này phản ứng rất chậm với những hiện tượng vũ trụ khác, chẳng hạn như sự tồn tại của lỗ đen. Trong khi Frolov khẳng định những hạt ma ở khắp nơi sẽ chịu tác động của lực hấp dẫn. Frolov sẽ tiến hành nhiều tính toán hơn nữa để có thể giải quyết các thắc mắc. Lãm Du (Theo New Scientist)
|
|
|
Post by Robot on Jan 15, 2005 8:08:42 GMT -5
Huygens đã đáp xuống Titan
Bầu khí quyển của Titan TTO - Tàu thăm dò không gian Huygens đã vượt qua 2,1 tỷ km trước khi đáp xuống mặt trăng Titan của sao Thổ và bắt đầu gửi về những tín hiệu đầu tiên, bắt đầu vén bức màn bí mật của một trong những bí ẩn lớn nhất trong hệ mặt trời của chúng ta.
Trong quá trình đáp xuống bề mặt Titan kéo dài hơn 2 giờ, Huygens đã gửi về trái đất rất nhiều dữ liệu. Hiện nay những dữ liệu này vẫn chưa về đến trái đất nhưng kính thiên văn radio tại Green Bank, Virginia, Mỹ đã phát hiện được các tín hiệu này.
Green Bank đã phát hiện được những thông tin đầu tiên gửi từ Huygens vào khoảng từ 10:20-10:25 GMT ngày thứ sáu 14-1. Những thông tin này sẽ được Trung tâm không gian châu Âu tại Darmstadt, Đức nhận vào khoảng 16:15 GMT.
Những thông tin từ Huygens gửi từ thế giới bí ẩn này có thể giúp các nhà khoa học hiểu được cơ chế phát sinh sự sống đầu tiên trên trái đất (những điều kiện hiện nay trên Titan rất giống với trái đất cách đây 4,6 tỷ năm).
Trong quá trình ở lại bề mặt trong vòng 2 tiếng rưỡi, Huygens sẽ chụp tổng cộng 750 bức ảnh. Những âm thanh của bầu khí quyển bão táp tại Titan (dày hơn 1,5 lần so với bầu khí quyển của trái đất) cũng sẽ được thu âm và người ta hy vọng sẽ nghe được cả những tiếng sấm. Ngoài ra dữ liệu cũng sẽ cung cấp những thông tin chi tiết về khí hậu và hóa học tại đây.
Hiện nay toàn bộ những thông tin các nhà khoa học có được là Huygens vẫn hoạt động tốt và sự thành công của sứ mệnh quan trọng này vẫn còn phụ thuộc vào những thông tin do Huygens gửi về trái đất thông qua tàu mẹ Cassini.
Titan được bao phủ bởi một làn sương màu cam do đó người ta không biết chính xác bề mặt mà Huygens sẽ đáp xuống, có thể là mặt băng và đá hoặc một bề mặt có chất sệt như hắc ín hoặc một biển dầu.
Vào ngày 24-12, Huygens đã được thả ra khỏi Cassini và bắt đầu rơi tự do xuống Titan, đây là vệ tinh thứ hai của các hành tinh trong thái dương hệ (sau mặt trăng của chúng ta) và cũng là địa điểm xa nhất được các nhà khoa học gửi tàu thăm dò đến. Kể từ khi bắt đầu đi vào bầu khí quyển của Titan (dày 1.270 km), Huygens đã bay với vận tốc gấp 20 lần âm thanh.
KINH LUÂN (Theo BBC NEWS, AFP & AP)
|
|
|
Post by Robot on Jan 28, 2005 8:45:14 GMT -5
Lỗ đen siêu lớn của Ngân hà sắp phát sáng trở lạiCách đây 350 năm, lỗ đen khổng lồ ở tâm Ngân hà đã bùng nổ năng lượng cao gấp 1 triệu lần so với ngày nay và có thể bùng nổ trở lại trong tương lai. Lỗ đen siêu lớn ở tâm Ngân hà do kính thiên văn Chandra chụp. Giống như phần lớn các thiên hà khổng lồ, Ngân hà của chúng ta có một lỗ đen cực lớn ở trung tâm. Không một thứ gì, kể cả ánh sáng, có thể thoát khỏi sức hút mạnh mẽ của nó. Tuy nhiên, cách vài triệu kilomet, vật chất bị hút về phía lỗ đen có thể trở nên cực nóng và phát ra bức xạ mạnh. Đây chính là nguồn năng lượng của một loạt các thiên hà siêu sáng. Lỗ đen Sagittarius A ở tâm Ngân hà lớn gấp 3 triệu lần khối lượng mặt trời và có nhiều vật liệu ở vùng lân cận để "đánh chén". Tuy nhiên, khu vực xung quanh nó lại khá tối vì toả ra năng lượng không nhiều hơn một ngôi sao bình thường như mặt trời. Trong khi đó, chúng ta có thể tìm thấy các lỗ đen sáng gấp 100 triệu lần ở các thiên hà khác. Gần đây, Mikhail Revnivtsev thuộc Viện Nghiên cứu Vũ trụ Nga cùng đồng nghiệp đã chỉ ra rằng, sự tối tăm hiện nay của Sagittarius A chỉ là tạm thời. Cách đây chừng 350 năm, nếu nhìn từ trái đất, nó sáng gấp 1 triệu lần so với ngày nay. Nhóm nghiên cứu đưa ra kết luận trên sau khi phân tích dữ liệu từ vệ tinh quan sát tia X Integral của ESA. Họ phát hiện các tia X cực mạnh toả ra từ Sagittarius B2-đám mây hyđrô này nằm ở một bên của lỗ đen Sagittarius A, cách 350 năm ánh sáng. Lời giải thích hợp lý duy nhất là Sagittarius A phát ra các tia gamma mạnh cách đây 350 năm và giờ đây chúng đã tới được đám mây B2. B2 đang hấp thụ bức xạ đó và phát ra tia X. Để phát ra các tia gamma mạnh như thế, lượng vật chất rơi vào lỗ đen Sagittarius A phải cao hơn nhiều so với hiện nay. Revnivtsve ước tính cách đây 350 năm, mỗi giây lỗ đen nuốt 10.000 tỷ tấn khí và bụi. Tuy nhiên, khoa học vẫn chưa rõ tại sao nguồn ''thực phẩm'' này lại bị giảm mạnh và khi nào lỗ đen Sagittarius A sẽ bùng nổ mạnh mẽ trở lại. Nếu có thì cũng không nguy hiểm tới trái đất, bởi vì bầu khí quyển có thể cản mọi loại tia gamma. * Minh Sơn (Theo NewScientist)
|
|
|
Post by Robot on Jan 30, 2005 13:15:28 GMT -5
Sao từ: con đẻ của các ngôi sao cực nặngMột khám phá quan trọng của giới thiên văn: sự nổ tung của các ngôi sao cực nặng đã sinh ra những ngôi sao từ hiếm hoi - thiên thể có từ tính mạnh nhất trong vũ trụ. Một ngôi sao từ trong Ngân hà. Kể từ khi ngôi sao từ đầu tiên được phát hiện vào năm 1998 cho tới nay, các nhà thiên văn mới chỉ khẳng định được sự tồn tại của 11 sao từ. Phần lớn chúng nằm trong Ngân hà của chúng ta. Họ nghi ngờ các vụ nổ siêu tân tinh đã sinh ra sao từ. Tuy nhiên, khi một ngôi sao lớn nổ tung, sản phẩm thường là sao neutron. Một số sao neutron quay với tốc độ 600 vòng/giây và phát ra sóng radio. Chúng ta gọi những sao neuron đó là pulsar. Siêu tân tinh là một trong những vụ nổ mạnh nhất trong tự nhiên, với sức công phá tương đương một quả bom 1028 megaton (khoảng 1.000.000 tấn thuốc nổ TNT). Đấy là khi một ngôi sao khổng lồ, có khối lượng gấp 5 lần Mặt trời hoặc lớn hơn, bùng nổ. Nó đột ngột vụt sáng rồi tối dần đi. Khi sáng nhất, siêu tân tinh có thể rọi sáng cả một thiên hà. Các nhà khoa học thường dựa vào siêu tân tinh để nghiên cứu về hiện tượng giãn nở của vũ trụ. Sao từ quay nhanh hơn nhiều, lên tới 1.000 vòng/giây và phát ra tia gamma. Chính sự quay nhanh này đã làm cho từ trường của nó cực mạnh, gấp một triệu tỷ lần từ trường trái đất. Nghiên cứu mới do Bryan Gaensler thuộc Trung tâm vật lý thiên thể Harvard-Smithsonian (Mỹ ) tiết lộ sao từ được sinh ra từ các vụ nổ siêu tân tinh. Tuy nhiên, trong trường hợp này, ngôi sao nổ tung có khối lượng cực lớn, gấp hàng chục lần khối lượng Mặt trời. Gaensler đã kiểm tra một bong bóng khí bao quanh ngôi sao từ 1E 1048.1-5937. Ngôi sao này cách trái đất khoảng 9.000 năm ánh sáng, trong chòm sao Carina. Điều đáng ngạc nhiên là đường kính của bong bóng này dài hàng chục năm ánh sáng. Bong bóng khí của Mặt trời chỉ bằng một phần nhỏ của một năm ánh sáng. Từ kích cỡ của bóng bóng này, Gaensler và đồng nghiệp đã xác định được khối lượng của sao mẹ phải gấp 40 lần khối lượng Mặt trời. Họ cũng tính toán rằng cứ 10 pulsar do siêu tân tinh tạo ra thì trong đó có 1 sao từ. Sao từ nói trên tương đối dễ quan sát vì có ít thiên thể lớn gần kề. Việc quan sát các ngôi sao từ khác có thể khó hơn so chúng nằm trong các nhóm lớn. Sao từ 1E 1048.1-5937 có thẻ là một bộ phận của hệ sao kép. Tuy nhiên, khi ngôi sao kia nổ tung, nó có lẽ đã đẩy sao từ vào không gian. * Minh Sơn (Theo NewScientist)
|
|
|
Post by Robot on Feb 2, 2005 9:36:02 GMT -5
Lên sao Hỏa trong một tháng bằng buồm mặt trời
Trong tương lai, nhờ có buồm mặt trời, phi thuyền từ trái đất lên sao Hỏa sẽ chỉ còn mất đúng một tháng, nhanh gấp 7 lần so với phi thuyền chở robot thăm dò Spirit và Opportunity.
Buồm mặt trời thực chất chỉ là những tấm gương lớn.
Nhóm nghiên cứu, bao gồm Gregory Benford thuộc ĐH California và người anh trai James Benford, đã sử dụng năng lượng vi sóng từ trái đất để đun nóng các phân tử dễ bay hơi của lớp sơn đặc biệt trên tấm buồm mặt trời của phi thuyền. Lực đẩy tạo ra khi các phân tử tách khỏi buồm sẽ giúp nâng tốc độ bay của phi thuyền lên nhiều lần.
Về bản chất, buồm mặt trời chính là những tấm gương khổng lồ. Photon ánh sáng mặt trời nẩy ra khỏi bề mặt, tạo ra một lực đẩy nhẹ trên tấm buồm. Khi chế tạo một tấm buồm mặt trời cách đây 5 năm, hai anh em nhà Benford đã hình thành ý tưởng tăng cường hiệu ứng này.
Hai người thử nghiệm bằng cách bắn vi sóng vào một tấm buồm cực mỏng làm từ lưới carbon. Họ ngạc nhiên khi thấy tấm buồm phải chịu một lực mạnh gấp vài lần so với dự kiến. Hóa ra nhiệt độ từ tia vi sóng đã khiến cho khí carbon monoxit thoát ra từ bề mặt buồm, và sức nẩy từ các phân tử khí tạo thêm lực đẩy cho tấm buồm.
Theo giải thích của hai anh em Benford, tên lửa sẽ đưa phi thuyền lên quỹ đạo thấp của trái đất, ở độ cao khoảng 300km. Sau đó, phi thuyền giương tấm buồm mặt trời rộng 100m ra, và thiết bị truyền sóng mặt đất sẽ bắn tia vi sóng để làm nóng nó lên. Họ tính toán rằng một giờ bắn tia vi sóng có thể giúp phi thuyền tăng vận tốc lên tới 60 km/giờ, nhanh hơn bất cứ phi thuyền nào từ trước đến nay. Nhờ vậy, phi thuyền sẽ chỉ mất một tháng để lên sao Hỏa, so với 7 tháng như trước đây.
*
Khánh Hà (Theo Newscientist)
|
|