|
Post by Oshin on Jul 15, 2004 3:47:48 GMT -5
Cú nhảy cuối cùng của loài ếch Corroboree Sâu trong vùng núi cao mát mẻ quanh năm tuyết phủ của Australia, đầm lầy vẫn chìm trong yên ắng. Nhưng chỉ mới cách đây vài thập kỷ, nơi đây suốt ngày ồn ã những âm thanh lạ tai: "Ah-rurkk... urkk... urkk". Cư dân địa phương thả gia súc tại vùng cao nguyên đầm lầy trụi bóng cây của núi tuyết vẫn thường kể chuyện về loài ếch nhỏ màu đen với vô số những sọc vàng sống động. Trước đây, chỉ cần nhìn vào bất cứ khóm rêu, bụi cỏ nào bạn cũng có thể nhìn thấy một vài chú ngồi chồm hỗm trong đấy. Nhưng giờ đây, phải mất vài ngày, có khi vài tuần, David Hunter, chuyên gia lưỡng cư thuộc ĐH Canberra, mới tìm thấy một chú ếch Corroboree miền Nam (Pseudophryne corroboree) trong môi trường tự nhiên. Sụt giảm nhanh chóng Với vóc dáng chưa bằng đầu ngón tay, ếch Corroboree rất khó thấy trong tự nhiên. Không giống như nhiều loài động vật khác ở Australia, sự sụt giảm dân số loài ếch Corroboree không phải là hiện tượng "từ từ đi vào quên lãng." Ngược lại, cho đến cuối những năm 1970, chúng vẫn còn sinh sôi nảy nở rất đông trong "lãnh địa" chỉ rộng 400km2 của mình. Nhưng rồi chỉ trong vòng năm năm, dân số loài ếch Corroboree chỉ còn lại khoảng 1/10, và từ đấy trở đi không ngừng sụt giảm. Trong cuộc khảo sát năm 1999, các nhà khoa học đếm được 218 con trên khắp môi trường sống. Vậy mà đến năm nay, chúng chỉ còn lại 64 con. Theo ước tính của Hunter, có lẽ dân số loài ếch Corroboree chỉ còn lại một phần nghìn so với ba thập kỷ trước. Tìm hiểu xem điều gì xảy ra, đồng thời vạch được phương án cứu loài ếch cực kỳ lạ thường này khỏi thảm họa tuyệt chủng là một cuộc chạy đua với thời gian của một số ít các nhà sinh học. Trông giống như một quả thông màu vàng đen nhỏ xíu, ếch Corroboree miền Nam là một trong những loài lưỡng cư dị thường nhất. Các nhà sinh học tin rằng da của chúng cực độc vì có chứa chất alkaloid tích luỹ từ nguồn thức ăn (chủ yếu là kiến). Mặc dù mang một ngoại hình lạ mắt như thế, ếch Corroboree chỉ mới bắt đầu được khoa học biết đến vào năm 1953. Với vóc dáng chưa bằng một ngón tay, rõ ràng là người ta chỉ nghe đến chúng nhiều hơn là thấy. Mỗi khi xuất hiện để di chuyển từ vùng rừng về chốn hồ ao trú đông và đẻ trứng, chúng lại chạy thật nhanh, giống... thằn lằn hơn là ếch. Hơn nữa, cả ếch đực lẫn ếch cái đều không có chân màng.
|
|
|
Post by Oshin on Jul 15, 2004 3:49:03 GMT -5
Vòng đời bí mật Ông bố đảm đang. Mãi đến tận vài năm gần đây, khoa học mới có được đôi chút manh mối về đời sống riêng tư của loài ếch Corroboree. Ít nhất phải được ba tuổi chúng mới bắt đầu sinh sản, và chu kỳ sinh sản của lũ ếch vàng đen này hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết khắc nghiệt của vùng núi tuyết. Vào mùa hè, chúng phải chịu đựng cái gió và cái nóng của môi trường núi cao. Vào mùa đông, chúng phải tìm cách để sống sót dưới hàng mét tuyết. Ngoài ra, chúng còn phụ thuộc vào nhiều biến đổi theo mùa của thời tiết và môi trường để có thể hoàn tất được vòng đời kỳ lạ của mình. Không giống như phần lớn họ hàng của mình, ếch Corroboree không đẻ trứng dưới nước mà vào một cái tổ dệt bằng rêu, cao khoảng 30cm so với bờ đầm lầy. Với vóc dáng nhỏ hơn ếch cái, ếch đực chịu trách nhiệm xây tổ vào thời gian giữa mùa hè. Bắt đầu từ đây, nó cất lên bài tình ca "ộp oạp" của mình để thu hút hàng đàn ếch cái, mỗi con lại đẻ khoảng 30 quả trứng bằng hạt đỗ vào lưới cho nó. Sau khi các "tình nương" ra đi, ếch đực chịu trách nhiệm canh gác cho khoảng 13 ổ trứng cho đến khi những cơn mưa thu đổ xuống. Mực nước trong đầm lầy dâng cao làm ngập tổ, báo hiệu cho lũ nòng nọc biết đã đến lúc chào đời và gia nhập vào cộng đồng dân cư trong đầm. Dưới làn nước, lũ nòng nọc nấp vào trong đám tảo và coi đây là nguồn thức ăn cho chúng. Khi thời tiết bắt đầu trở nên lạnh hơn, mặt đầm lầy có thể bị đóng băng rồi nằm khuất dưới vài mét tuyết. Mặc dù nhiệt độ không khí có thể xuống dưới 0oC, tấm chăn tuyết sẽ giữ cho đầm lầy khỏi bị đông cứng hoàn toàn, đồng thời cho phép lũ nòng nọc vẫn tự do bơi lội. Tuy không bị đông cứng nhưng thân nhiệt của nòng nọc Corroboree có thể chỉ còn 1oC-2oC, thấp hơn nhiều so với thân nhiệt của ếch trưởng thành (khoảng 32oC). Khi mùa đông trôi qua, tiết xuân ấm áp khiến cho lũ nòng nọc phát triển nhanh hơn, và đến đầu mùa hè chúng rụng đuôi để trở thành ếch. Các "cư dân" ếch mới rời khỏi đầm lầy, chuyển đến khu rừng bên cạnh cách 300m để ẩn mình dưới những súc gỗ và vỏ cây trong suốt mùa hè.
|
|
|
Post by Oshin on Jul 15, 2004 3:50:14 GMT -5
Nguyên nhân vì đâu? Chất độc trên da cóc không giúp được nó sống sót trước loài nấm độc. Mặc dù cuộc sống ếch Corroboree tương đối bấp bênh, chúng không có nhiều kẻ thù lắm bởi rất ít loài chim nước hay cá chịu nổi cái lạnh ghê người của dòng nước vùng núi cao. Hơn nữa, chúng lại đẻ trứng trên mặt đất nên trứng của chúng không bị làm mồi cho các loài động vật ăn thịt không xương sống dưới nước. Vậy thì điều gì khiến cho dân số loài ếch vàng đen này sụt giảm mạnh đến thế? Đầu những năm 1980, nhà sinh học người Australia Will Osborne đã tiến hành khảo sát loài ếch Corroboree quanh các khu lều trượt tuyết để xem con người có gây tác động gì đối với đời sống của chúng hay không. Đến tận cuối thập kỷ 1990, Osborne mới phát hiện ra chytrid, một loại nấm cực độc, trên mình một loài ếch khác ở Vườn Quốc gia Kosciuszko - khi thử nghiệm với ếch Corroboree, ông thấy chúng cũng bị ngộ độc. Đây là lần đầu tiên nấm chytrid được tìm thấy trên cơ thể lũ ếch Corroboree, mặc dù nó đã từng là thủ phạm hạ sát khá nhiều loài ếch ở Australia. Vô tình "lọt" vào "Đất nước Kangaroo" vào cuối những năm 1970, nấm chytrid gây nên một loại bệnh âm thầm và thường khiến cho nạn nhân phải tử vong. Loại nấm này rất thích ăn keratin, protein chủ yếu trong da ếch. Trong khi đó, ếch lại cần phải có da, không phải chỉ để bảo vệ mà còn để thở, và thậm chí còn để "uống" nước nữa. Ếch nhiễm nấm thường chết vì ngạt thở. Tuy nhiên, trứng ếch Corroboree lại miễn nhiễm đối với nấm chytrid bởi lớp vỏ trong suốt bên ngoài bảo vệ phôi rất chắc chắn. Như vậy, chắc hẳn phải có một nguyên do gì khác. Hunter và cộng sự đã tìm ra một dấu vết đáng ngờ: Thời tiết hanh khô bất thường và hạn hán kéo dài trên khắp đất nước Australia kể từ giữa thập niên 1980. Trứng ếch có thể an toàn trước nấm chytrid nhưng lại không thể sống nổi trước lượng mưa đột ngột gia tăng. Ếch Corroboree phụ thuộc vào những cơn mưa thu xuất hiện đúng lúc, dâng đầy đầm lầy và làm ngập tổ ếch, giúp nòng nọc nở ra và bơi vào đầm lầy. Nếu cơn mưa đến muộn, nòng nọc sẽ phải nở muộn. Điều này có nghĩa là khi mùa xuân tới, lũ nòng nọc sẽ phải chờ đợi lâu hơn mới có thể rụng đuôi để thành ếch, bởi vì dù muốn hay không thì chúng vẫn phải ở trong lớp vỏ nòng nọc một thời gian nhất định. Nhưng khi mùa hè đến, đầm lầy bắt đầu khô đi, và nếu mực nước xuống quá thấp trước khi "nòng nọc đứt đuôi", chúng sẽ chết khô. Vậy hiện tượng ấm lên toàn cầu có phải là thủ phạm "diệt chủng" loài ếch Corroboree? Vẫn còn quá sớm để khẳng định điều này, nhưng rõ ràng là những năm tháng khô hạn kéo dài trong vài thập kỷ qua đã tác động rất nhiều đến sự sinh tồn của nòng nọc và trứng ếch.
|
|
|
Post by Oshin on Jul 15, 2004 3:54:30 GMT -5
Nhiệm vụ khôi phục Đường vào đời còn nhiều gian nan. Khi những hồi chuông đầu tiên được gióng lên về tình cảnh của loài ếch Corroboree miền Nam từ năm 1995, một nhóm khôi phục đã được thành lập, đồng thời một kế hoạch mang tên "Khôi phục" cũng được xây dựng vào năm 2001. Kế hoạch này chính là cơ sở cho chương trình nghiên cứu và sinh sản nhằm cứu vãn dân số loài ếch trước khi quá muộn. Nhưng với số lượng ếch sống sót quá ít ỏi, dường như các nhà nghiên cứu không còn đủ thời gian cần thiết. Trong mấy năm qua, nhóm khôi phục đã nỗ lực rất nhiều để thu thập trứng ếch trong tự nhiên và nuôi dưỡng chúng trong phòng thí nghiệm. Trung tâm Nghiên cứu Lưỡng cư tại Melbourne (Australia) xây dựng một chương trình nuôi dưỡng do nhà sinh học Gerry Marantelli phụ trách - lũ ếch thích cái lạnh đã được cho vào... tủ lạnh cho "nguôi ngoai cảm giác... nhớ nhà". Gần đây, Gerry đã thành công trong việc nuôi dưỡng ếch Corroboree, và hy vọng sẽ sớm tạo được nhiều cá thể trưởng thành để thả chúng trở lại môi trường tự nhiên. Khó khăn chồng chất khó khăn Cú nhảy cuối cùng: Tiếp tục sống hay tuyệt chủng? Dù sao, nấm chytrid và hạn hán vẫn không chịu "buông tha" chúng. Nếu ếch trưởng thành được đưa trở lại tự nhiên, nhiều con sẽ có nguy cơ bị nhiễm nấm và chết. Còn nếu đưa trứng hay nòng nọc ra tự nhiên, chưa chắc chúng đã có đủ mưa (và nếu đủ thì cũng chưa chắc đã đúng thời điểm) để sống sót và phát triển. Theo Hunter, chúng ta không thể làm được gì nhiều để khắc phục nấm bởi chúng đã tồn tại rất nhiều trong tự nhiên. Nhưng các nhà nghiên cứu đang hết sức cố gắng làm một điều gì đấy để chống lại hạn hán, như tạo lụt nhân tạo cho những vùng đầm lầy có ếch sinh sống, giúp trứng nở và nòng nọc sống được đến ngày rụng đuôi. Nhưng nếu ếch trưởng thành cứ bị chết vì nấm thì thả trứng ếch liệu có ích gì? Hunter cho biết: Nếu sống được trong thiên nhiên, ếch sẽ phải phơi nhiễm với nấm. Hy vọng rằng sau nhiều thế hệ, chúng sẽ dần hình thành khả năng đề kháng đối với loài nấm độc. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một số ếch khỏe mạnh trong tự nhiên, trên mình vẫn mang theo cả vết tích của nấm, chứng tỏ có thể chúng đang hình thành sức kháng độc. Tuy vậy, điều mọi người quan tâm nhất, và cũng là tâm điểm của hầu hết các cuộc nghiên cứu, là cần phải thả thứ gì vào tự nhiên: trứng, nòng nọc, hay ếch? Giai đoạn nào trong vòng đời sẽ khiến cho ếch có cơ hội phục hồi cao nhất? Câu trả lời sẽ hết sức quan trọng đối với các tổ chức đang tham gia thực hiện chương trình nuôi dưỡng ếch Corroboree, từ đấy xây dựng cơ sở phát triển trứng, nòng nọc, hay ếch trưởng thành. Qua thời gian, chắc chắn các nhà nghiên cứu sẽ tìm ra câu trả lời. Nhưng nếu chậm trễ, loài ếch Corroboree sẽ bị tuyệt chủng! Khánh Hà (Theo ABC)
|
|