|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:16:11 GMT -5
Loài kiếnKiến là một trong ba loài côn trùng có tính xã hội cao nhất trên thế giới động vật (bên cạnh mối và ong). Dân số của loài kiến cực kì đông đúc, đông hơn bất kì dân số của một loài động vật bậc cao nào. Trong một tổ kiến, các thành viên được phân công một công việc cụ thể tuỳ theo “đẳng cấp” của mình. Tuổi thọ của kiến thợ khoảng 7 năm, kiến chúa đến 20 năm, chỉ có kiến đực là chết ngay sau khi giao phối. Kiến là loài côn trùng thích sống tập trung, một con kiến tách đàn riêng lẻ chỉ sống được vài ngày. Kiến còn có khả năng dự báo thời tiết nữa đấy các em ạ. Thử quan sát những chú kiến quanh nhà, các em sẽ phát hiện ra điều thú vị này đấy. Kiến thường đi lẻ một mình để tìm mồi. Trên đường đi trinh sát nếu gặp một con sâu chết, một mẩu thịt mà nó không thể khiêng nổi, kiến sẽ chạy về tổ thông báo cho đồng loại biết cùng tới đó khiêng hoặc kéo mồi về tổ. Vậy kiến thông báo tin cho nhau bằng cách nào nhỉ? Mối liên hệ giữa loài kiến với nhau chính là nhờ đôi râu xúc giác của chúng. Nếu các em quan sát tỉ mỉ sẽ thấy khi một con kiến phát hiện ra mồi, nó sẽ hối hả chạy về tổ, lúc gặp một con kiến khác, nó sẽ dùng 2 chiếc râu xúc giác chạm vào râu con kia kích thích bạn cùng đi tha mồi. Nếu con kiến đang đói phát hiện ra mồi, nó sẽ khua râu rất mạnh, phạm vi báo tin cũng rộng hơn nhằm kích thích nhiều con kiến khác cùng đi tha mồi. Phạm vi kiếm ăn của kiến thường rất rộng, khoảng trong vòng vài chục mét. Tuy đi xa tổ vậy nhưng các chú kiến vẫn không hề lạc đường vì các chú có đôi mắt rất tinh và khả năng nhận mùi rất tốt. Các chú kiến ngộ nghĩnh cũng rất hăng máu đánh nhau. Nếu các em quan sát sẽ thấy, về mùa hè, dưới các gốc cây, chân tường xuất hiện nhiều kiến lớn, kiến nhỏ tất bật bò đi bò lại khiêng con sâu chết, hạt ngô, mẩu thịt, ... Đôi khi chúng gặp nhau rồi kéo đàn đánh nhau rất quyết liệt. Các nhà khoa học cho rằng kiến đánh nhau là do phản ứng với mùi vị trên thân chúng. Khi nhốt hai con kiến khác tổ với nhau, vừa chạm râu vào nhau liền ẩu đả ngay; ngược lại, khi nhốt hai chú cùng tổ thì sau khi chạm râu không những chúng không đánh nhau mà còn mớm mồi cho nhau nữa. Điều đặc biệt là nếu tách hai chú kiến đang đánh nhau ra, dội nước cho chúng sạch mùi sau đó lại cho chúng gặp nhau, chúng không đánh nhau nữa và mỗi con đi một đường. Nếu ta bôi lên mình con kiến nào đó một chút dầu thơm, nó sẽ không thể về tổ vì đàn kiến trong tổ ngửi thấy mùi khác lạ sẽ tưởng lầm nó là kẻ địch và đánh đuổi ngay. Thường thì hai đàn kiến lạ gặp nhau sẽ lao vào cắn xé nhau tơi bời cho đến khi đàn kiến ít quân hơn phải bỏ chạy. Còn những con kiến đi lẻ gặp kiến đàn, chúng thường ít khi đánh nhau mà thường né tránh, ai đi đường nấy. Nhiều khi kiến cũng làm chúng ta khó chịu. Nhưng chúng cũng rất ngộ nghĩnh, đúng không các em. Đặc biệt, kiến giúp chúng ta thu dọn nhà cửa gọn gàng bằng cách thu gom thức ăn thừa, xác ruồi muỗi, ... Ngoài ra, kiến lửa còn là một loài thiên địch giúp nhà nông tiêu diệt rầy nâu hại mía nữa đấy. Nếu vườn cam nhà mình có đàn kiến lửa ở thì hãy yên tâm là chẳng có tên sâu đáng ghét nào dám bén mảng tới. Các em thử rủ nhau ra góc vườn quan sát cuộc sống của những chú kiến đáng yêu xem nhé!
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:20:44 GMT -5
Cơ chế phát sáng của đom đóm có thể áp dụng lên thực vật. Đèn đường thường tiêu tốn rất nhiều năng lượng và cần nhiều chi phí để bảo dưỡng. Với kỹ thuật chuyển gene, người ta có thể tạo ra cây phát sáng để chúng có thể quang hợp vào ban ngày làm sạch không khí, còn ban đêm thì phát sáng như những cây đèn đường. Chúng ta biết có một số vi khuẩn, côn trùng, động vật... có lớp vỏ cứng có thể phát sáng, nổi bật là loài đom đóm. Cơ chế phát quang của đom đóm là do gene quy định, như vậy, nếu đem gene đó chuyển cho thực vật thì có thể khiến thực vật cũng phát sáng. Làm thế nào để có thể tạo ra loại cây phát sáng đó? Ở dưới kính hiển vi, người ta dùng một bơm tiêm rất nhỏ (có ống thuỷ tinh đường kính chỉ vài micromet) trực tiếp đưa phân tử ADN trong gene phát sáng của đom đóm tiêm vào tế bào cây. Ngoài ra, họ còn có thể dùng một đoạn ngắn ADN của gene phát sáng, phủ hạt bột vàng hoặc bột vonfram có độ dày 1-3 micromet, rồi dùng súng đặc biệt bắn vào trong tế bào, thực hiện chuyển hoá. Hiện nay, Đại học Edington (Anh) đã đưa gene phát sáng chuyển vào bông, khoai tây... tạo ra các thực vật phát sáng. Nhật Bản cũng đã tạo ra thuốc lá có thể phát quang. KH & ĐS (Theo Science et Vie) Tại sao con đom đóm lại phát sáng?Khi mùa hè đến, vào độ chập tối, từng đàn đom đóm lập loè khắp đường làng ngõ xóm trông thật vui mắt. Đom đóm "thắp đèn" để làm gì nhỉ? Để thấy đường chăng? Không, đây chính là cách đom đóm "đánh tín hiệu" để tìm bạn tình. Một mục đích nữa là nhằm làm các loài chim ăn đêm không ăn chúng. Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn chưa biết chắc là ánh sáng này có cần thiết cho đom đóm hay không bởi những mục đích trên vẫn chưa thuyết phục. Ánh sáng đom đóm có từ đâu? Thử di nát trên đất một con đom đóm phát sáng, bạn sẽ thấy để lại trên mặt đất là một vệt dài, vẫn tiếp tục nhấp nháy, sau đó mới mờ dần rồi mất hẳn. Như vậy, ánh sáng do đom đóm phát ra là sản phẩm của một quá trình hoá học, chứ không phải là quá trình sinh học. Bởi vì, sau khi côn trùng đã chết mà ánh sáng vẫn còn, thì rõ ràng con vật chỉ làm nhiệm vụ liên tục sinh ra loại chất phát sáng mà thôi. Đom đóm có hai nhóm là đom đóm bay và đom đóm bò dưới đất. Cả hai nhóm này đều có thể phát ra cùng một thứ ánh sáng lạnh đặc biệt, không toả nhiệt như ánh sáng nhân tạo. Đó là vì trong quá trình phát sáng, hầu như toàn bộ năng lượng được sinh vật chuyển thành quang năng, chứ không tiêu hao thành nhiệt như ở những nguồn sáng nhân tạo khác. Ánh sáng của đom đóm được phát ra từ một vài đốt cuối bụng. Ban ngày, các đốt này chỉ có màu trắng xám, về đêm mới phát ra ánh sáng huyền ảo qua lớp da trong suốt. Bên trong lớp da bụng là dãy các tế bào phát quang, trong cùng là lớp tế bào phản quang, có chức năng như mặt gương giúp phản chiếu ánh sáng ra ngoài. Các tế bào phát quang có chứa hai loại chất là luciferin và luciferaza. Khi tách rời nhau, chúng chỉ là những hoá chất bình thường, không có khả năng phát sáng. Nhưng khi ở cạnh nhau, men luciferaza sẽ xúc tác, thúc đẩy quá trình oxy hoá luciferin (quá trình dùng ôxy đốt cháy luciferin). Quá trình oxy hoá này tạo ra quang năng. Đom đóm chỉ có thể phát sáng lập loè mà không liên tục, bởi vì chúng tự khống chế việc cung cấp ôxy, sao cho phản ứng phát sáng thực hiện được lâu dài. (Theo Thế Giới Mới)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:25:37 GMT -5
Quyền lực của ong chúa nằm ở đâu? Ong chúa đang đẻ. Khi xem xét đặc điểm xã hội của loài ong, các nhà khoa học đã ngỡ ngàng về vai trò tuyệt đối của ong chúa đối với vài chục vạn thần dân của mình. Nhưng, khi người ta làm cho tuyến nước bọt của ong chúa ngừng hoạt động, mọi quyền hành của nó cũng biến mất… Thì ra, “vũ khí bí mật” khiến ong chúa có uy lực rất mạnh để không chế và điều khiển thần dân chính là… nước bọt của nàng ! Các nhà côn trùng học ở Viện Bảo tàng tự nhiên Paris đã phát hiện ra điều này từ những 1960. Họ cho biết tuyến nước bọt của ong chứa chứa đựng một kho các chất hóa học. Khi được “bức xạ” vào không gian của loài ong, các chất này sẽ truyền tải thông tin đến từng con ong và mệnh lệnh sẽ được chấp hành triệt để. Thành phần của các hóa chất nước bọt vô cùng phức tạp. Người ta mới chỉ phân tích và biệt lập được trên 30 trong số hàng trăm chất khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã thử tước bỏ vũ khí bí mật của ong chúa, bằng cách làm ngừng trệ sự hoạt động của tuyến nước bọt. Kết quả là mọi quyền hành của nữ chúa biến mất, và lũ ong thợ cũng lập tức làm ngơ vị chúa tể của mình. Nhưng làm thế nào mà loại vũ khí ghê gớm kia tác động vào đàn ong? Điều này vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Những năm 1990, một nhóm các nhà khoa học Mỹ và Australia đã đặt nghi vấn về một thứ “vũ khí hóa học bí mật” đang ẩn giấu ở cơ thể con người. Khi nghiên cứu các đoàn thám hiểm sống lâu trên Bắc cực, những nhà khoa học thấy họ không thể ngủ được vào ban đêm, đầu óc thiếu sáng suốt, bị phân tán vào ban ngày và hiệu quả công việc rất thấp. Tuy nhiên, mọi biểu hiện trên sẽ được khắc phục nếu trong đoàn thám hiểm có vài thành viên là phụ nữ! Nhiều thử nghiệm được tiến hành, và kết luận được rút ra, là nếu toàn bộ cộng đồng nào đó đều có cùng giới tính, nghĩa là thiếu hẳn “bức xạ của các phức hợp hóa chất khác giới”, cộng đồng ấy sẽ rơi vào trạng thái lao đao không kiểm soát nổi chính mình. Các chuyến bay vũ trụ dài ngày của những nhóm nam phi hành gia cũng gặp phải tình trạng y như ở đoàn thám hiểm. Và khi được bổ sung nữ phi hành gia, thì những “chứng bệnh vũ trụ” của các nam đồng nghiệp đều biến mất. Như vậy, thứ “vũ khí hóa học” tương tự của nữ ong chúa có lẽ cũng đã tồn tại cả ở cơ thể người. Một khi khoa học giải mã được những bí mật của thứ vũ khí tuyệt vời đó, chúng ta sẽ có cơ hội cải thiện đời sống của loài người theo hướng có lợi nhất cho cộng đồng. Ví như, hướng mọi hoạt động của từng cá thể theo một chiều nhân văn nào đó, hay thu hút đám đông hành động vì lợi ích chung… Tài Hoa Trẻ (theo Naukai Linznhi)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:30:56 GMT -5
Mối không chỉ là loài ăn hại Tổ mối có cấu trúc thông khí rất tốt. Không khí bên ngoài luồn vào tổ qua các lỗ trên mặt đất. Ban đầu không khí sẽ lạnh lại, sau đó tiếp xúc với bầy mối ở sâu bên trong nên nóng dần lên, nhẹ hơn và thoát ra ngoài. Chính vì vậy tại Mali, các đền thờ Hồi giáo được xây dựng theo thiết kế rất giống với tổ mối. Để xây tổ, mối có thể đùn đất lên từ dưới độ sâu 20 mét, nên cứ quan sát tổ mối người ta có thể tìm thấy dấu vết các khoáng chất và kim loại quý. Tại bờ biển Ngà, đất tổ mối gồm hỗn hợp đất, nước bọt và phân của mối được dùng làm bột chỉnh hình chữa sai khớp. Người dân ở đây cũng sử dụng hỗn hợp này làm thuốc chữa bệnh thuỷ đậu và bệnh quai bị. Ngoài ra, ở đây cũng như ở Benin, mối còn là món ăn rất được trẻ em ưa chuộng. Tại Trung Phi, bộ tộc Zakara xem thông điệp của mối như những lời sấm truyền. Để giải đáp một vấn đề gây nhiều tranh cãi, họ để một cây gậy suốt cả ngày trên miệng tổ mối. Tuỳ theo mối ăn gậy đến mức nào mà họ sẽ có câu trả lời. Ở Burkina Faso, khi đất nông nghiệp đã bạc màu trơ cứng ra như đá, người dân trộn mối với phân hữu cơ và nhồi vào các lỗ đào trên mặt đất. Mối sẽ tạo ra vô số hầm hào dưới lòng đất giúp đất dẫn nước tốt hơn trong mùa mưa. Bộ máy tiêu hoá của mối (chiếm 70% trọng lượng cơ thể ) hoạt động giống như nhà máy hoá chất. Khi làm tổ, mối đã giữ lại vật chất hữu cơ khiến quá trình khoáng hoá chậm lại và các hợp chất khó phân huỷ sẽ phân huỷ dễ dàng hơn, giúp cho cây trồng tốt hơn. Cấu trúc tổ mối cũng giúp giữ cho đất đai ít bào mòn và rửa trôi. Trong số 2.666 loài mối trên thế giới, thật ra chỉ có 6 loài phá hoại nhà cửa. Kiến thức Ngày nay (theo Science et Vie)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:32:24 GMT -5
Sức mạnh vô địch của côn trùng Trong thế giới côn trùng, nhiều động vật có khả năng khó tưởng tượng. Chẳng hạn, một con bọ nhảy có thể bật cao vượt gấp 200 lần chiều cao của nó, con kiến có thể vác được vật tương đương với 52 lần trọng lượng bản thân. Ngay cả nhiều loài bướm yếu ớt cũng có thể bay xa liên tục mấy trăm nghìn mét. Sở dĩ côn trùng có sức mạnh đáng kinh ngạc đến vậy là vì chúng có tổ chức cơ thịt rất phát triển, không chỉ đặc biệt về kết cấu mà còn có số lượng rất lớn. Nếu như loài người có hơn 600 cơ thịt, thì côn trùng lại có đến hơn 2.000 cơ. Cơ thịt của côn trùng ngoài việc giúp chúng nhảy cao nhảy xa, còn có thể giúp chúng bay lượn đường trường. Chuồn chuồn, bướm, ong, thiêu thân… có thể bay được rất xa chính là dựa vào phần cơ thịt nối liền giữa ngực và lưng của chúng. Đặc biệt, với cơ thịt phát triển, loài bướm có thể vỗ cánh lên xuống, kéo cả cơ thể tiến lên phía trước, lùi về phía sau hoặc bay vòng quanh. Khi chúng nghỉ không bay nữa, cánh vẫn vỗ không ngừng, đó là chúng lợi dụng cơ thịt vận động làm cho nhiệt độ cơ thể tăng cao, để lúc nào cũng có thể sẵn sàng bay được. Điều này cũng giống như máy bay trước khi cất cánh, cần phải khởi động động cơ vậy. Côn trùng có mũi và tai hay không? Côn trùng thực sự có mũi. Nếu bạn bắt được các loại côn trùng, quan sát tỉ mỉ một chút thì sẽ phát hiện ra trên đầu chúng đều có một đôi xúc tu. Tuy những đôi xúc tu của các loại côn trùng không giống nhau, nhưng đều đóng vai trò làm cơ quan khứu giác. Ngoài ra, phía dưới miệng của côn trùng còn có hai đôi râu ngắn nhỏ. Tuy bề ngoài của xúc tu và râu hoàn toàn khác so với mũi của động vật bậc cao, nhưng chúng lại giống mũi ở chỗ có thể ngửi mùi. Mặt ngoài của xúc tu và râu có rất nhiều lỗ thủng nhỏ, trong mỗi lỗ thủng đó có một số tế bào có thể cảm thụ mùi trong không khí. Đối với nhiều côn trùng, chiếc “mũi” đặc biệt này rất quan trọng. Ngoài ong và bướm, còn có không ít côn trùng khác cũng lợi dụng cơ quan khứu giác đó để tìm thức ăn hoặc tìm bạn đời, chẳng hạn loài kiến. Nếu thả vài con kiến ở tổ kiến này vào trong một tổ kiến khác, do mùi của chúng không giống nhau nên những con kiến ngoại lai này sẽ lập tức bị cắn chết. Côn trùng không những có thể ngửi mùi, mà còn có thể phân biệt được âm thanh. Bởi vì trên cơ thể của chúng có một số bộ phận có tác dụng như đôi tai. Kiểu "tai" này rất kỳ lạ và cũng mọc ở những chỗ rất khác thường. Tai của muỗi mọc ở trên hai xúc tu của phần đầu, trong đoạn thứ hai của mỗi xúc tu ẩn giấu một cơ quan nghe âm thanh. Tai của dế lại mọc ở trên đoạn thứ hai của một đôi chi trước. Còn tai của thiêu thân, với con cái thì ở phần ngực, còn với con đực thì mọc ở phần bụng. Khả năng thính giác của côn trùng rất đặc biệt. Chúng có thể phân biệt được nhịp điệu và quy luật của âm thanh cực kỳ hiệu quả. Nếu như số lần đứt nối của âm thanh trong mỗi giây đồng hồ tương đối nhiều, thì tai người nghe không ra chỗ đứt nối, chỉ cảm nhận được là một vùng âm thanh liên tục. Nhưng với nhiều côn trùng, chúng có thể nhận rõ sự ngắt quãng này. Không những vậy, nhiều loài còn có thể nghe được siêu âm, thậm chí là siêu âm dao động 200.000 lần mỗi giây. “Tai” của côn trùng chủ yếu là dùng để tìm “bạn đời”. Tai cũng phát huy tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ an toàn. Chẳng hạn nhiều con thiêu thân có thể nghe được âm thanh của dơi (loại sóng siêu âm tai người không nghe được), nhờ đó chúng có thể nhanh chóng rời khỏi khu vực nguy hiểm mà không rơi vào miệng của kẻ thù. Theo sách 10 vạn câu hỏi vì sao
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:34:17 GMT -5
Vì sao ve hút máu? Các con ve cái hút máu dữ dội sao khi giao phối
TTO - Những con ve cái chưa làm mẹ thì rất hiền, nhưng những con ve cái mang bầu thì hút máu rất dữ, tại sao vậy?
Theo nghiên cứu mới nhất của 2 nhà khoa học tại đại học Alberta (Canada), sở dĩ con ve cái sau khi giao phối trở nên khát máu dữ dội, là do sự kích thích từ hai loại protein trong tinh trùng của con ve đực. Nguyên nhân là nếu thiếu máu, trứng ve không thể phát triển.
Dĩ độc trị độc, hai nhà khoa học Canada đã lợi dụng 2 protein này để khoá luôn khả năng hút máu của ve. Họ phát hiện, khi tiêm các protein này vào cơ thể một con thỏ đầy ve, các con ve trên cơ thể nó bỗng "trở lại thời thiếu nữ". Thì ra chất hoá học do cơ thể thỏ sinh ra khi tiếp xúc với 2 protein trên đã đánh lừa cơ thể ve, làm chúng tưởng mình chưa giao phối.
Dù kết quả rất hứu hẹn, nhưng chuyện 2 loại protein này có thể trở thành một vaccine hữu hiệu để chống ve hay không thì vẫn còn mù mờ. Các tác giả cho biết , thí nghiệm chỉ mới tiến hành trên một loại ve mà thôi.
Tuy nhiên, hiệu quả đầy kinh ngạc, tiêu diệt 75% ve cái khát máu, của loại vaccine trên cũng mang hi vọng mới cho các nhà nông, vì 2 loại vaccine phòng ve đang lưu hành chỉ tiêu diệt được trên dưới 37,5% ve hút máu.
ANH QUÝ (Theo Canadian Press)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:44:49 GMT -5
Tại sao ốc sên vừa bò vừa để lại vệt nước dãi? Trên chân của ốc sên có một loại thể tuyến gọi là túc tuyến. Túc tuyến có thể tiết ra một loại thể dịch rất dính để giúp ốc sên bò, do vậy chỗ nó vừa bò qua đều để lại vết dịch dính từ túc tuyến tiết ra. Sau khi vết dịch dính này khô đã hình thành một vệt nước sáng lấp lánh. Ốc sên là một thành viên trong đại gia tộc động vật nhuyễn thể, khi bò thường dùng chân dán chặt trên vật thể khác, thông qua bắp thịt ở phần chân làm thành những làn sóng ngoằn ngèo để có thể chuyển động chậm rãi về phía trước. Khi ngủ đông hoặc ngủ hè, loại dịch dính mà túc tuyến tiết ra sau khi khô ở miệng vỏ hình thành một lớp màng mỏng bịt kín cơ thể lại, đợi khi môi trường bên ngoài thích hợp thì phá màng chui ra. Do được lớp màng mỏng này bảo vệ, ốc sên có thể sống nhiều năm không chết. Ngoài ra, có một loại sên giống như ốc sên nhưng không có vỏ, gọi là con diên du (thereuonema tuberculata). Nơi nó bò qua cũng để lại một vệt nước dãi màu trắng sáng. Dịch dính mà con diên du tiết ra có một số điểm khác so với dịch dính của ốc sên. Theo sách Động vật
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:52:10 GMT -5
Bí quyết bám dính của côn trùngKhi quan sát tập tính của một số loài bướm ở Costa Rica và một loài giun biển sống ký sinh, hai nhà nghiên cứu Anh đã phát hiện ra những cách thức mới để tạo sự bám dính giữa hai vật thể, mà không cần đến một loại keo dán hay dây buộc nào. Thế giới tự nhiên luôn tiềm ẩn những bí quyết đôi khi rất giản đơn nhưng lại rất hiệu quả của các loài sinh vật nhằm thích nghi với điều kiện môi trường sống. Đối với một số loài không thể tự đảm bảo cho mình một cuộc sống độc lập hoàn toàn, chúng luôn biết tìm cách "nương nhờ" vào một đối tượng khác bằng những thủ thuật hết sức độc đáo. Trong quá trình nghiên cứu tập tính của một số loài bướm ở Costa Rica và một loài giun biển sống ký sinh, Andrew Parker và Abigail Ingram thuộc Khoa Động vật học, Đại học Oxford (Anh) đã tìm thấy cách thức mới cực kỳ hiệu quả để chúng bám dính vào con mồi. vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/05/3B9D2EF8/h2.jpg[/img]Bướm Greta oto với đôi cánh gần như trong suốt. Đối tượng đầu tiên là loài bướm với đôi cánh gần như trong suốt ở Costa Rica có tên khoa học là Greta oto. Phần lớn thời gian trong chu kỳ sinh trưởng, loài bướm này sống trong một cái kén treo lơ lửng bên dưới các phiến lá. Ngay từ giai đoạn còn là sâu, Greta oto luôn tìm một phiến lá rộng rồi tiến hành dệt một cái tổ kén dính ở mặt dưới lá để làm nơi trú ngụ. Đến thời điểm lột xác, lớp da của nó tách làm hai rồi nó chui ra khỏi kén và phát triển thành bướm. Nghiên cứu cấu trúc tổ kén, Parker và Ingram nhận thấy ở phần đầu của cái kén này có vô số những cái móc nhỏ xíu có khả năng bám chặt vào phiến lá. Độ bám dính của những cái móc chắc đến mức các nhà khoa học không thể tách được cái kén ra khỏi phiến lá trừ trường hợp xé rách phần phiến lá có đính tổ kén. Con sâu Greta oto khi hóa bướm và chiếc tổ kén của nó cùng với những móc nhỏ phía trên. Để tìm hiểu bí quyết của Greta oto, nhóm khoa học đã dùng một máy ảnh kỹ thuật số ghi lại từng hoạt động của con sâu trong giai đoạn bắt đầu tạo ra những cái móc ở đầu kén để treo lên phiến lá. Khi phóng to từng chi tiết trong mỗi bức ảnh, họ nhận ra phần chóp phía trên của các kén không phải có dạng thon nhọn mà là hình bán cầu và những cái móc nhỏ xíu phủ bên trên phần chóp đó chĩa ra nhiều hướng khác nhau. Phần gốc của những cái móc này sau khi xuyên qua lớp vỏ kén lại đan xen với nhau tạo thành một cấu trúc vững chắc mà theo tính toán của các nhà khoa học thì có thể đảm bảo đỡ được một trọng lượng nặng gấp 40 lần cái kén. Đây có thể là một bí quyết giúp lý giải tại sao những cái kén của loài bướm này chỉ treo lơ lửng trên phiến lá mà có thể chịu được những trận bão cực mạnh của vùng Trung Mỹ. Khám phá này của Parker và Ingram ngay lập tức đã được một đơn vị nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Anh chú ý với mong muốn tìm ra một dạng vật liệu có độ bám dính cao và có thể sử dụng được dưới nước. Loại vật liệu đó sẽ được dùng để gắn nhiều loại thiết bị nghiên cứu hải dương học ở dưới gầm những con tàu và chịu được tác động của những dòng hải lưu. Đối tượng thứ 2 có bí quyết bám dính tuyệt vời mà Parker và Ingram phát hiện ra là một loài ký sinh trùng thuộc lớp thân giáp hình sợi. Với hình dáng tương tự như một con sâu và có thể dài tới hơn một mét, loài vật ký sinh này có tên khoa học là Pennella instructa và thường sống nhờ trên cơ thể của một số loài cá biển. Sau khi chui được qua da của vật chủ, Pennella instructa bám một đầu vào đó thật chắc, phần còn lại của cơ thể vẫn thả tự do trong nước. Nghiên cứu dưới kính hiển vi, Abigail Ingram phát hiện ra rằng những con giun Pennella instructa có một cơ chế đeo bám vô cùng đặc biệt. Khi chui qua lớp da của cá, loài giun này chỉ tạo ra một lỗ thủng nhỏ đảm bảo cho da cá không bị tổn hại quá nhiều và không thể có nguy cơ bị rách hẳn. Nhưng sau khi đã chui qua lớp da đó, phần đầu của giun lập tức phình to ra khiến nó không thể chui ra ngoài qua cái lỗ thủng mà nó đã vào ban đầu. Như vậy, con giun sẽ bám chặt vào cơ thể con cá giống như một chiếc đinh đóng vào tường nhưng phần nằm trong tường lại là cái đầu đinh chứ không phải phần đuôi. Từ phát hiện này, Ingram dự kiến sẽ ứng dụng để chế tạo một loại ghim đánh dấu thường dùng để theo dõi quá trình di trú của nhiều loài động vật hoang dã. Trước nay, các nhà khoa học thường gặp không ít khó khăn trong việc gắn ghim đánh dấu cho các loài chim hay cá di trú bởi nếu dùng ghim to để đảm bảo gắn chặt được thì lại dễ gây rách da của chúng, còn nếu ghim chỉ gắn vừa phải tránh tổn thương da thì lại dễ rơi khi chúng hoạt động mạnh. Ngoài ra, trước đây, nếu chỉ dùng những loại ghim đánh dấu thông thường thì việc bị rơi ghim cũng chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát. Nhưng ngày nay, nhờ sự phát triển của hệ thống định vị toàn cầu qua vệ tinh (GPS), các nhà khoa học có thể sử dụng những ghim đánh dấu có gắn chip để thông qua mạng GPS giám sát được liên tục sự di chuyển của chúng. Tuy nhiên, việc sản xuất những chiếc ghim công nghệ cao này khá tốn kém, khoảng 2000-3000 USD/chiếc. Vì vậy, nếu con vật đánh rơi ghim sẽ gây tổn thất rất lớn. Điều này sẽ sớm được khắc phục khi Ingram ứng dụng cơ chế bám dính của loài giun Pennella instruta để tạo ra những chiếc ghim đánh dấu mới. Loại ghim này sẽ xuyên qua da con vật qua một châm nhỏ, rồi sau đó mới xoè rộng đầu đinh ghim nằm trong da, đảm bảo không làm tổn thương lớp ngoài con vật mà thiết bị vẫn được gắn chặt trong mọi điều kiện hoạt động của con vật đó. Khoa học và Đời sống (theo Le Courrier Int)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 8:53:51 GMT -5
Nhện thả rác để nhử mồiMột số con nhện chăng tơ không chỉ ngồi không chờ mồi mà còn rải thêm vào chiếc lưới những mẩu rác thối rữa, như lá cây và xác côn trùng, để dụ dỗ con mồi, các nhà nghiên cứu Australia cho biết. "Hầu hết mọi người cho rằng nhện chăng tơ là những kẻ thụ động. Nghiên cứu này cho thấy chúng đã biết bổ sung một đặc tính vào chiếc mạng của nó để gia tăng cơ hội bắt mồi", tiến sĩ Mark Elgar tại Đại học Melbourne nói. Các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu loài nhện Australia Nephila edulis. "Bình thường những loài nhện khác chỉ chộp lấy 3-4 con ruồi trên mạng rồi bỏ cuộc. Nhưng loài nhện này vẫn tiếp tục bọc mồi. Điều này khiến chúng tôi nghĩ rằng chúng đang tạo ra một kho thức ăn dự trữ để dử mồi. Nhưng nó vẫn chưa thể giải thích vì sao có cả xác thực vật trong đó", Elgar nói. Nhện Nephila edulis đã thu lượm lá và cành cây bị mắc vào mạng và bổ sung vào đường dẫn mồi của nó. Để tìm hiểu lý do, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm loài ruồi giấm và ruồi xanh phản ứng với những mẩu thực vật này như thế nào. Họ tìm thấy trong khi ruồi giấm không có phản ứng gì trước rác thực vật, thì những con ruồi xanh lại nhanh chóng bay tới những mẩu lá cây. Elgar tin rằng loài ruồi xanh đã bị hấp dẫn bởi thứ mùi do vi khuẩn tạo ra khi chúng phân hủy thực vật. Các nhà nghiên cứu cũng cho biết nhện Argiope thì sử dụng một kỹ thuật khác để dụ mồi. Chúng dệt một chiếc lưới có hình chữ thập từ một loại tơ đặc biệt có thể phản chiếu nhiều tia tử ngoại hơn. Những con ong ưa ánh sáng tử ngoại sẽ là mục tiêu chính của chiếc lưới này. Minh Thi (theo ABC Online)
|
|
|
Post by Robot on Jul 27, 2004 11:26:12 GMT -5
Trung Quốc: Tìm thấy một loài bướm quý Bướm Agehana maraho. Agehana maraho là một loài bướm ít gặp, lần đầu tiên được tìm thấy ở tỉnh Guizhou, Tây Nam Trung Quốc bởi Trung tâm Bảo tồn thiên nhiên quốc gia Xishui. Loài bướm này có tên tiếng Anh là Broad tailed Swallowtail, đã xuất hiện từ kỷ băng hà trên trái đất và đang là một trong các loài quý hiếm được cả thế giới bảo vệ. Chúng có chiều dài thân khoảng 38 mm, sải cánh rộng 108 mm, mặt sau cánh có nhiều đốm đỏ hình trăng lưỡi liềm. Loài bướm này rất nhạy cảm với môi trường sống, chúng thường chỉ sống tại các khu rừng cao hơn mặt biển khoảng 1.000 đến 2.000 m. Li Chongqing, nhà nghiên cứu đời sống hoang dã, đã tình cờ bắt gặp loài bướm này ở Xishui, là một trong những khu rừng rụng lá cận nhiệt lớn nhất thế giới và nơi bảo tồn rất nhiều loài động vật hoang dã, trong chuyến đi nghiên cứu khoa học của mình. Lãm Du
|
|