|
Post by Oshin on May 27, 2004 7:16:12 GMT -5
Mục lục
Trang 1
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 7:18:15 GMT -5
Vì sao chim cánh cụt có thể sống ở Nam cực? Cánh cụt Hoàng đế chỉ sống trên lục địa Nam cực. Môi trường cực kỳ khắc nghiệt ở Nam cực đã buộc các sinh vật bậc cao rút lui khỏi lãnh địa của nó. Ngay cả các động vật lớn có thể chịu được cái rét - 80 độ C của Bắc cực như gấu trắng, voi biển... cũng không hề có mặt ở cực Nam. Vậy mà chim cánh cụt lại có thể làm được điều đó. Để hiểu vì sao, chúng ta phải xem lại “gia phả” của chúng. Trước hết, cánh cụt là một loài chim bơi ở dưới nước cổ xưa nhất. Có thể nó đã đến đây định cư từ trước khi châu Nam cực mặc "áo giáp băng". Do diện tích đất liền hẹp, mặt biển rộng, nên nơi đây có thể coi là khu vực phồn thịnh nhất trong các thủy vực, với nguồn thức ăn phong phú, trở thành vùng đất tốt cho cánh cụt trú ngụ. Sau nữa, do kết quả tôi luyện trong gió và bão tuyết qua hàng ngàn vạn năm, lông trên toàn thân của cánh cụt đã biến thành lớp lớp dạng vảy gắn chặt. Với loại “chăn lông” đặc biệt này, nước biển không những khó thẩm thấu, mà dù cho nhiệt độ có xuống tới -100 độ C, chim cũng không hề hấn gì. Đồng thời, lớp mỡ dưới da của nó rất dày, nên càng đảm bảo giữ nhiệt cho cơ thể. Thêm nữa, châu Nam cực không có thú ăn thịt, thế là cánh cụt đã có được một mảnh đất khá an toàn. Chẳng thế mà khi các nhà nghiên cứu đặt chân lên mảnh đất tận cùng thế giới này, chim cánh cụt không những không bỏ chạy, mà còn đón tiếp họ với thái độ rất thân mật (và tò mò). (Theo 10 vạn câu hỏi vì sao)
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 7:19:46 GMT -5
Cò thìa mặt đenHàng năm có rất nhiều các loài chim di cư bay đến Việt Nam, trong số đó có loài Cò thìa mặt đen (tên khoa học là Platalea minor). Loài này có kích thước lớn hơn nhiều so với các loài cò khác. Chúng có tên là "cò thìa" vì mặt và mỏ của chúng có màu đen và mỏ giống hệt như một cái thìa. Nơi cu trú và làm tổ chính của loài cò thìa mặt đen khu vực bán đảo Triều Tiên. Hàng năm cứ vào tháng 8 và tháng 9, cò thìa mặt đen lại bay quãng đường hàng ngàn cây số để đến các vùng ấm áp hơn như Việt Nam để trú đông và đến tháng 4 tháng 5 năm sau lại bay trở về bán đảo Triều Tiên để làm tổ. Các vùng trú đông chủ yếu của loài này là Trung Quốc, Hồng Kông, Macao, Đài Loan và Việt Nam. Ở Việt Nam có nhiều vùng trú đông cho cò thìa như Xuân Thuỷ (Nam Định), Thái Thuỵ, Nghĩa Hưng (Thái Bình) ... nhưng vài năm gần đây do hoạt động quá mức của con người đã gây nhiễu loạn ở khắp các vùng ven biển Việt Nam nên vùng trú đông đã bị giảm đi. Trong các chuyến bay di cư, cò thìa rất cần phải kiếm ăn và nghỉ ngơi, vì vậy chúng dừng lại ở hàng loạt các điểm khác nhau trên tuyến đường di cư. Từ năm 1993 đến nay, hàng năm, các nhà bảo tồn ở vùng Đông Á đã tổ chức "điều tra dân số" gia đình Cò thìa mặt đen. Các thành viên tình nguyện từ Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, Macao, Đài Loan và Việt Nam đã tham gia vào hoạt động này.
|
|
|
Post by Oshin on May 27, 2004 7:23:44 GMT -5
Chim di cư chỉnh lại 'la bàn' khi mặt trời lặn Chim hét. Bằng cách nào mà chim di trú tìm đến chính xác một điểm mỗi năm qua hành trình cả nghìn km? Trước kia người ta phỏng đoán chúng dùng một số mốc như mặt trời, sao và từ trường trái đất. Song phát hiện mới đây cho thấy mỗi yếu tố này đơn độc lại không tạo nên khả năng đó. Một nhóm nhà khoa học quốc tế đã thiết kế một thí nghiệm cho phép họ lần đầu tiên quan sát thấy phản ứng của chim di cư trong tự nhiên. Martin Wikelski, giáo sư sinh học tiến hoá và sinh thái tại Đại học Princeton ở New Jersey (Mỹ ), và cộng sự đã bắt một số con chim hét khi chúng đang di cư về phương bắc. Đêm xuống, họ thả chúng ra sau khi gắn những thiết bị truyền radio nhỏ xíu. Tuy nhiên, lúc hoàng hôn, trước khi cất cánh, bầy chim được tiếp xúc với một từ trường nhân tạo chỉ về hướng đông (thay vì hướng bắc như thông thường). Tiếp đó, các nhà nghiên cứu theo dõi hành trình của chúng trong 6 ngày trên một chiếc xe 1982 Oldsmobile với một chiếc ăngten gắn trên đỉnh. Đêm đầu tiên, lũ chim bay lạc về phía đông. Nhưng những đêm sau đó chúng đã sửa sai và tiếp tục quay đầu về phía bắc hướng tới đích. Điều này dẫn các nhà nghiên cứu đến kết luận rằng, chim hét đã sử dụng phương mặt trời lặn để "hiệu chỉnh" la bàn nội tại của mình và trở lại đúng hành trình. Phát hiện đã bác bỏ giả thuyết cho rằng chim chỉ cần bay theo la bàn từ trường trái đất là đủ. Có hai yếu tố ủng hộ nhận định này: Thứ nhất, vị trí của cực từ Bắc di chuyển đáng kể mỗi năm, vì thế chỉ riêng các dấu hiệu từ trường thôi là không đủ tin cậy, đặc biệt trên những vĩ độ cao. Thêm nữa, la bàn của chim không thể phân biệt được cực bắc và nam, vì thế đáng lý chúng phải nhầm lẫn khi băng qua xích đạo, song thực tế chuyện này không xảy ra. Rõ ràng, mặt trời - luôn lặn về phía tây - đã giúp chúng điều chỉnh lại hướng của la bàn từ trường này. Trong điều kiện tự nhiên, "chim sử dụng mặt trời lặn làm hướng tây chuẩn, và quyết định bay chếch 90 độ theo chiều kim đồng hồ so với hướng này - thông thường hướng được xác định sẽ trùng với cực từ bắc", Wikelski nói. B.H. (theo BBC)
|
|
|
Post by Robot on Jul 27, 2004 11:16:25 GMT -5
Hồng hạc Trên thế giới có sáu loài hồng hạc. Loài lớn nhất cao ngang bằng một người trưởng thành, trong khi loài bé hơn chỉ cao bằng một học sinh lớp Một. Đó là các loài: hồng hạc Caribbean, hồng hạc lớn/châu Âu (phân bố ở châu Âu, châu Á, châu Phi), hồng hạc Chile (Nam Mỹ ôn đới), hồng hạc bé (châu Phi và Ấn Độ ), hồng hạc Andean (dãy núi Andes ở Nam Mỹ ), và hồng hạc James ở Nam Mỹ (các nhà khoa học tin rằng chúng đã tuyệt chủng năm 1924, song lại tái phát hiện chúng vào năm 1957).
Màu lông của hồng hạc thay đổi tuỳ theo loài, từ hồng phai cho tới đỏ thẫm hoặc đỏ son. Hồng hạc Caribbean có màu sáng nhất (đỏ son) trong khi hồng hạc Chile có màu hồng nhạt. Màu lông hồng hoặc hơi đỏ bắt nguồn từ chế độ ăn của chúng, nhiều alpha và beta caroten. (Con người hấp thụ beta caroten khi ăn cà rốt.)
Hồng hạc sống trong các phá hoặc hồ, nơi có nhiều bùn và nước. Chiều sâu của nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ đối với việc hồng hạc kiếm ăn mà còn làm tổ. Các vùng hồ có thể nằm sâu trong đất liền hoặc gần biển.
Hồng hạc chủ yếu ăn tảo cát, hạt, tảo lục, giáp xác, động vật thân mềm lọc được từ nước. Sử dụng đôi chân dài và bàn chân có màng, hồng hạc bước trên đáy bùn để trộn các hạt thức ăn với nước. Các loài hồng hạc khác nhau có mỏ khác biệt. Hình dạng khác biệt giúp chúng lấy được những loại thức ăn hơi khác. Hồng hạc uống nước ngọt. Chúng sử dụng chiếc mỏ lớn để lọc thức ăn nhỏ từ nước. Khi một con hồng hạc chúi đầu xuống nước, chiếc lưỡi có ngạnh, giống xy-lanh, bơm hỗn hợp nước qua các gờ bên ngoài mỏ và phần nhô ra giống ngón tay bên trong mỏ. Phần nhô ra loại thức ăn khỏi nước.
Hồng hạc sống theo các nhóm lớn quanh năm, gọi là tập đoàn. Hàng chục nghìn con có thể sống trong cùng một tập đoàn. Trong một tập đoàn, hồng hạc kiếm ăn theo cặp. Hồng hạc có thể sinh sản khi được sáu tuổi. Không có mùa sinh sản xác định song dường như có liên quan tới mưa. Việc xây tổ có thể phụ thuộc vào lượng mưa và tác động của mưa tới nguồn thức ăn. Khi sẵn sàng đẻ trứng, hồng hạc hình thành các cặp. Chúng thường đẻ một quả trứng lớn màu trắng. Tổ hình núi lửa được làm từ bùn, các viên đá nhỏ và lông vũ trên mặt đất. Tổ có thể cao tới 30cm và một cặp hồng hạc phải mất tới sáu tuần mới hoàn tất. Tuy nhiên, chim bố mẹ sẽ thay phiên nhau ấp trứng trong thời gian 26-31 ngày.
Hồng hạc mới nở có lông vũ xám hoặc trắng, mỏ đỏ, chân mập cùng màu. Trong các tập đoàn, chim bố mẹ có thể nhận ra con của chúng bằng tiếng kêu. Chim bố mẹ sẽ chỉ chăm sóc con của chúng. Khi được bốn-bảy ngày tuổi, hồng hạc con rời tổ. Trong vòng ba năm, chúng sẽ có màu lông xám hoặc hồng. Chim bố mẹ không nôn thức ăn cho con của chúng như các loài chim khác. Chúng nuôi con bằng một chất lỏng được tiết ra từ tuyến tiêu hoá trên. Loại sữa này có màu đỏ sẫm và rất giàu chất béo cũng như protein. Điều đặc biệt là cả chim bố và mẹ đều có thể tạo ra loại thức ăn này. Minh Sơn (Theo AP)
|
|
|
Post by Robot on Nov 22, 2004 14:06:20 GMT -5
Phát hiện loài chim quý hiếm tại U Minh Thượng Già Sói, tên khoa học là Leptoptilos Javanicus. Lần đầu tiên, các nhà khoa học đã phát hiện ra giống chim quý hiếm có tên gọi Già Sói (Leptoptilos Javanicus) tại Vườn quốc gia U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang. Theo tài liệu của một số chuyên gia thuộc tổ chức CARE Quốc tế tại Việt Nam, Già Sói là giống chim đang có nguy cơ tuyệt chủng trên phạm vi toàn cầu. Tại vùng Đông Nam Á chỉ có hai nơi tìm thấy loài chim này, trong đó có Vườn quốc gia U Minh Thượng. Loài Già Sói có thân màu đen, phía trên đôi cánh có một băng màu xám kéo dài từ sát nách cho đến tận chót cánh. Đây là loài chim có tầm di trú rộng theo mùa, chiều cao trung bình từ chân đến mỏ khoảng 1,2 mét, sải cánh rộng từ 0,8 đến 1 mét, trọng lượng trung bình 4 - 5 kg. Cũng tại U Minh Thượng, Ban quản lý Vườn quốc gia cho biết năm nay số lượng chim về trú ngụ tăng đột biến, đông nhất vẫn là họ cò, kế đến là vịt trời, trích và các loại diệc. Ngoài những loài chim thông thường, vườn bước đầu quy tụ trở lại những loài chim di trú xa, trong đó có những loài khoang cổ trắng, bồ nông, giang sen kéo về thành bầy lên đến cả nghìn con. Các loài chim về làm tổ, sinh sản không chỉ trong phạm vi vườn, mà còn lan sang diện tích rừng tái sinh, rừng trồng của nhân dân quanh vùng đệm. Năm nay là năm thứ 3 liên tiếp Vườn quốc gia U Minh Thượng giữ được nguồn nước ngọt, kể cả ngay trong những tháng mùa khô, giúp duy trì phát triển quanh năm thảm thực vật rừng ngập nước, cung cấp nguồn thức ăn phong phú cho các loài chim và động vật. (Theo TTXVN)
|
|
|
Post by Robot on Nov 27, 2004 11:13:11 GMT -5
Bồ câu xác định phương hướng bằng từ trường Bồ câu có thể cảm nhận được từ trường trái đất. Một nghiên cứu cho thấy bồ câu có khả năng phát hiện các từ trường khác nhau dựa vào các vi hạt từ tính trên mỏ của chúng. Phát hiện này giải thích vì sao bồ câu có khả năng xác định phương hướng tốt như vậy. Trước đây, một số chuyên gia cho rằng bồ câu dựa vào các mùi vị khác nhau trong không khí để xác định vị trí của chúng ở đâu. Nhưng nghiên cứu mới nhất chứng tỏ rằng chúng sử dụng tín hiệu từ trường. Cordula Mora và các cộng sự tại ĐH Auckland đã nhốt bồ câu trong một đường hầm bằng gỗ với các vòng dây điện cuộn quanh bên ngoài nhằm tạo ra từ trường. Bồ câu sẽ bay đến đầu đường hầm này nếu cuộn dây được cấp điện, từ trường xuất hiện. Khi cuộn dây bị ngắt điện, chỉ còn lại từ trường trái đất, chúng sẽ bay đến đầu kia. “Thật ngạc nhiên, chúng học nhận biết (sự thay đổi của từ trường) rất nhanh”, bà Mora nói. Khi các nhà khoa học gắn lên mỏ chúng một thanh nam châm hoặc khi mỏ của chúng bị tê liệt, khả năng phát hiện từ trường của bồ câu bị suy giảm rất nhiều. Sau đó, nhóm khoa học gia tìm hiểu xem các tín hiệu từ được truyền đến bộ não như thế nào. Khi họ cắt đi dây thần kinh sinh ba, nằm phía trên mỏ có chức năng mang tín hiệu thị giác và các tín hiệu khác đến bộ não, bồ câu không còn phân biệt được từ trường tự nhiên hay từ trường do cuộn dây sinh ra. Nhưng khi dây thần kinh khứu giác bị cắt, chúng vẫn phân biệt tốt. Điều này chứng tỏ bồ câu định hướng không phải bằng khứu giác (tức bằng mùi vị ). Nguyễn Văn Tiến (Theo Nature&BBC)
|
|