Post by Oshin on Jun 3, 2004 14:46:27 GMT -5
Lần tìm fossa - thú săn mồi kỳ lạ của châu Phi
Nhờ sự rủi ro khi một con vượn cáo được gắn vòng radio theo dõi bị ăn thịt mà nhà sinh thái bảo tồn Luke Dollar có cơ hội khám phá một loài động vật săn mồi kỳ lạ nhất và ít được biết đến nhất trên thế giới: fossa.
Giống mèo, hoá ra lại có họ với... cầy
Dollar đang đặt bẫy.
Fossa (tên khoa học là Cryptoprocta ferox) là loài động vật săn mồi, reo rắc sự sợ hãi cho những người mê tín tại đảo Madagascar của châu Phi. Cũng như phần lớn các chuyên gia động vật hoang dã khác, Dollar chưa bao giờ nghe nói tới cái tên fossa. Hai năm sau khi người dẫn đường cho ông tin rằng con vượn cáo có vòng radion theo dõi bị fossa ăn thịt, để lại một đống xương và lông, Dollar đã quay trở lại Madagascar, bắt đầu một dự án tìm hiểu cuộc sống bí mật của fossa lần đầu tiên.
Fossa không nguy hiểm đối với con người như người như trong chuyện kể dân gian. Cho tới gần đây người ta vẫn nhầm lẫn loài động vật đặc biệt, giống báo sư tử này (puma), với một loại mèo nguyên thuỷ. Dollar nói: ''Bạn có thể hình dung fossa giống như một con sử tử núi, thấp và mập mạp. Nó có những nét giống mèo bao gồm vuốt có thể thụt vào và hai hàm răng đáng sợ. Không chỉ săn vượn cáo, fossa là một kẻ săn mồi cơ hội, ăn rất nhiều loài động vật từ chuột tới lợn rừng''.
Tuy nhiên, các đặc trưng khác của fossa gợi ý bản chất không giống mèo của nó: một chiếc mõm giống mõm chó, chiếc đuôi dài mà nó sử dụng giống như chiếc sào của vận động viên thể dục dụng cụ và khả năng bay từ cây này sang cây khác nhanh như một con sóc mặc dù nặng hơn nhiều. Kiểm tra di truyền cho thấy fossa là một họ hàng thân thuộc của cầy mangut và là một thành viên của họ viverrid bao gồm cầy hương, cầy genet và meerkat. Theo Dollar, "tính khí tự phụ" của fossa là một trong những đặc trưng chỉ ra lịch sử dòng họ của nó.
Các nhà thám hiểm đã mô tả fossa vào những năm 1800, song có rất ít thông tin. Có thể là do fossa có khả năng tự dấu mình. Cho tới gần đây, các nhà khoa học nghĩ rằng fossa là động vật hoạt động về đêm song qua nghiên cứu của Dollar, hoá ra nó hoạt động cả ngày lẫn đêm. Một trong những đồng nghiệp của Dollar chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy loài động vật này mặc dù họ đã nghiên cứu vượn cáo trên mười năm trong môi trường sống của fossa. Do vậy, nhiệm vụ đầu tiên của Dollar là khẳng định sự tồn tại của loài động vật này trong rừng ở Madagascar.
Kể từ năm 1996, Dollar đã chạm trán nhiều lần với fossa trong Vườn quốc gia Ankarafantsika của Madagascar. Trong tám năm qua, với dự giúp đỡ của các nghiên cứu sinh và tình nguyện viên, ông đã hoàn thiện phương pháp tóm loài động vật này bằng camera tự động cũng như lồng dây. Bẫy fossa tạo cơ hội cho nhóm cân và xác định giới tính, đồng thời kiểm tra chớp nhoáng sức khoẻ của chúng. Các căn bệnh như bệnh dại, được du nhập tới đảo cùng với chó nhà và mèo hoang, hiện đe doạ fossa.
Vòng cổ gắn radio cho thấy fossa di chuyển 25km/ngày. Phân tích phân và di truyền cung cấp nhiều dữ liệu hơn về thành phần bữa ăn của fossa. Kết quả nghiên cứu fossa đang được sử dụng để hiểu rõ hơn cũng như bảo tồn loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng này. Chỉ có 8% rừng nguyên sinh còn lại trên đảo Madagascar ngày nay. Theo ước tính của Dollar, chưa tới 3.000 fossa hiện sống trong những môi trường còn nguyên vẹn này. Hiện ông đang tập trung nghiên cứu mối đe doạ mà hai loài động vật săn mồi được du nhập - mèo hoang và cầy hương Ấn Độ - gây ra đối với fossa cũng như các loài ăn thịt bản địa khác.