|
Tin tức
May 14, 2004 15:35:24 GMT -5
Post by Robot on May 14, 2004 15:35:24 GMT -5
Philippines phóng thích ðại bàng nuôi nhốtKabayan trở lại với tự do. Con ðại bàng ðầu tiên sinh ra trong trại nuôi của Philippines ðã ði vào lịch sử bảo tồn loài hôm qua, khi ðýợc trả về với thiên nhiên. Hành ðộng này mở ra hy vọng sáng sủa cho týõng lai của một trong những loài chim nguy cấp nhất thế giới. Con ðại bàng trống 15 tháng tuổi có tên gọi Kabayan, ðýợc thả tại tự do Khu bảo tồn thiên nhiên núi Apo, trên ðảo Mindanao, phía nam Philippines. Kabayan nhanh chóng bay lên một ngọn cây gần ðó và thý thái phóng tầm mắt quan sát nõi ở mới. Chú là một trong số 14 con ðại bàng Philippines ra ðời trong ðiều kiện nuôi nhốt tại Trung tâm Ðại bàng ngay bên ngoài thành phố Davao của ðảo. Tuy nhiên, Kabayan không hoàn toàn "tự do", chú sẽ phải làm nhiệm vụ bất ðắc dĩ là khảo sát cuộc sống của loài, qua một con chíp và thiết bị truyền vệ tinh ðể gửi dữ liệu về cho các nhà quan sát. Ðại bàng Philippines là một trong số những loài chim lớn nhất thế giới, với sải cánh dài tới 2,4 mét và mất 6-7 nãm ðể trýởng thành. Mindanao ðýợc xem là một trong 3 hòn ðảo duy nhất có loài ðộng vật này sinh sống. Hầu hết lãnh thổ tự nhiên của chúng ðã bị phá huỷ bởi chiến tranh, nạn phá rừng và nông nghiệp. Giống nhý ðại bàng ðầu hói Mỹ, ðại bàng Philippines ðã trở thành biểu týợng của quốc gia này. Ngýời ta không rõ chính xác còn bao nhiêu con tồn tại. "Ýớc tính khoảng 500 cặp, nhýng mỗi ngày nõi cý trú tự nhiên của chúng lại nhỏ lại, nhỏ lại", Dennis Salvador, giám ðốc Tổ chức ðại bàng Philippin, tác giả của chýõng trình này, nhận ðịnh. B.H. (theo Discovery) Cá tuyết có thể bị tuyệt chủng trong 15 nãm tới Cá tuyết ở biển Barents bị giảm ðáng kể TTO - Một nhóm các nhà nghiên cứu về môi trýờng (thuộc Quĩ ðộng vật hoang dã ) cảnh báo, cá tuyết có thể bị tuyệt chủng trong vòng 15 nãm nữa nếu các nýớc không có những biện pháp kiểm soát chặt chẽ tình trạng ðánh bắt loài cá này. "Trên toàn thế giới cá tuyết ðã bị ðánh bắt hõn 70% trong hõn 30 nãm qua, và nếu tình trạng này còn tiếp diễn, thì nguồn cá tuyết trên thế giới sẽ biến mất trong vòng 15 nãm nữa", nhóm này ðã phát biểu. Kết luận này còn dựa vào số lýợng ðánh bắt toàn cầu ngày càng giảm sút, từ 3.1 triệu tấn vào nãm 1970 ðến 950.000 tấn vào nãm 2000 và sau ðó giảm xuống 890.000 tấn vào nãm 2002. Việc ðánh bắt ở Bắc Mỹ cũng giảm khoảng 90% từ ðầu nãm 1980, trong khi ở Biển Bắc ðánh bắt cũng bị giảm 25%. Trong một báo cáo về "cá tuyết ở biển Barent" nhóm các nhà nghiên cứu cho biết chỉ tiêu ðánh bắt cá trong vùng Bắc Cực cho nãm 2004 là 100.000 tấn, ðây ðýợc xem là mức có thể chấp nhận ðýợc và nếu hõn mức 100.000 tấn thì bị xem là ðánh bắt bất hợp pháp. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng kêu gọi Nga và Na Uy cũng nên ðýợc quản lý chung với việc ðánh bắt ở biển Barents, cũng ðýợc giao chỉ tiêu ðánh bắt ðể thực hiện quản lý hoạt ðộng ðánh bắt tại ðây ðýợc chặt chẽ hõn. Ð.TÂM (Theo Reuters)
|
|
|
Tin tức
May 17, 2004 14:04:51 GMT -5
Post by Oshin on May 17, 2004 14:04:51 GMT -5
Nhật Bản vẫn cố sãn cá voi vì "khoa học" Chuyến sãn 260 cá voi vì ''mục ðích khoa học'' của Nhật Bản vào mùa hè hàng nãm ðã bắt ðầu. Ðoàn tàu ðánh bắt ðã tiến ra Bắc Thái Bình dýõng ðể "ãn" 150 cá voi minke, 50 cá voi sei, 50 cá voi Bryde và 10 cá voi sperm. Tàu ðánh bắt cá voi của Nhật Bản. Theo hiệp ýớc của Uỷ ban Ðánh bắt Cá voi quốc tế (IWC) mà Nhật Bản là một bên tham gia, hoạt ðộng ðánh bắt cá voi thýõng mại ðã bị cấm từ nãm 1986. Tuy nhiên, kể từ ðó, trên 20.000 con cá voi ðã bị giết. Hõn 1.400 cá voi sẽ bị giết trong nãm 2004 trong các cuộc ðánh bắt thýõng mại và khoa học của Na Uy, Nhật Bản và Iceland. Các nhà bảo tồn buộc tội Nhật Bản lợi dụng khe hở của hiệp ýớc này ðể ðáp ứng nhu cầu thịt cá voi thýõng mại song với danh nghĩa sãn cá voi vì mục ðích khoa học. Sue Fisher thuộc Hiệp hội Bảo tồn Cá voi và Cá heo Anh cho biết: ''Về bản chất, ðó là hoạt ðộng ðánh bắt cá voi thýõng mại''. Bà nói thêm rằng Nhật Bản cũng giết 20.000 cá heo không ðýợc quy ðịnh trong lệnh cấm của IWC. Ngay cả IWC cũng phản ðối hoạt ðộng ðánh bắt cá voi vì mục ðích khoa học của Nhật Bản trong nãm 2003, coi ðó là ''hành ðộng ði ngýợc lại tinh thần của lệnh cấm ðánh bắt cá voi thýõng mại và tinh thần của Uỷ ban này''. Theo bà Fisher, vấn ðề là các nghị quyết của IWC không ràng buộc về mặt pháp lý. Hiroshi Hatanaka, giám ðốc chýõng trình ðánh bắt cá voi tại Viện Nghiên cứu D8ộng vật biển có vú của Nhật Bản, ðã bảo vệ hoạt ðộng nghiên cứu này. Ông cho rằng nhiều khi dữ liệu ðýợc thu thập bằng các phýõng pháp không tổn hại tới cá voi, nhý quan sát hoặc bắn tên ðể lấy một chút da nhằm xác ðịnh ADN. "Tuy nhiên, cần giết hàng trãm cá voi ðể nghiên cứu thói quen ãn uống bằng cách kiểm tra dạ dày và lấy mô trong tai ðể xác ðịnh tuổi. Không thể có dữ liệu này chỉ bằng cách theo dõi một con cá voi sống.'' - ông Hatanaka nói. Nhiều nhóm bảo tồn khác cũng ðã chỉ trích hoạt ðộng sãn cá voi của Nhật Bản, trong ðó có Cõ quan Ðiều tra Môi trýờng và tổ chức Hoà Bình Xanh. Junko Sakurai, chuyên gia cá voi thuộc tổ chức Hoà Bình Xanh ở Nhật Bản, cho biết: ''Mặc dù có những loại nghiên cứu cần giết cá voi song các chuyên gia Nhật Bản sử dụng nó làm cái cớ ðể có thứ mà họ muốn: Thịt cá voi''. Hal Whitehead thuộc ÐH Dalhousie, Canada, nói: ''Ðánh bắt cá voi khoa học giống nhý sử dụng danh nghĩa của khoa học phục vụ một mục ðích hoàn toàn không thật''. Lao móc ðýợc bắn vào một con cá voi. Tổ chức Theo dõi Cá voi, ðại diện cho hõn 140 tổ chức phi chính phủ tại hõn 55 quốc gia, kêu gọi IWC ngãn chặn mọi hoạt ðộng ðánh bắt và tập trung vào vấn ðề tàn bạo của con ngýời ðối với loài ðộng vật này. Phýõng pháp chính ðể sãn cá voi là sử dụng lao móc có một ðầu mang thuốc lựu ðạn. Ban ðầu, lao móc cắm sâu vào thịt cá voi chừng 30cm trýớc khi lựu ðạn nổ. Mục ðích là sóng áp lực từ vụ nổ sẽ giết chết cá voi. Tuy nhiên, phýõng pháp này thýờng thất bại và thợ sãn phải sử dụng lao móc thứ hai hoặc súng trýờng ðể giết cá voi. Các phýõng pháp sãn hiện ðại không thể ðảm báo cá voi sẽ chết ngay tức thì. Cá voi mất trung bình 2 phút mới chết. Nhiều con hấp hối lâu hõn và giới khoa học vẫn chýa biết số phận của những con bị thýõng. Fisher cho biết: ''Những ðộng vật này nên ðýợc ðối xử giống nhý bò và cừu trong lò mổ bởi chúng là ðộng vật tiến hoá cao. Tuy nhiên, không có khả nãng ðể áp dụng phýõng pháp nhý vậy ðối với cá voi trên biển. Cá voi có những hành vi xã hội phức tạp và giết một cá thể có thể ảnh hýởng sâu sắc tới những con khác". Minh Sõn (Tổng hợp)
|
|
|
Tin tức
May 17, 2004 14:25:27 GMT -5
Post by Robot on May 17, 2004 14:25:27 GMT -5
Đại bàng đầu bạc ra khỏi sách đỏ Đại bàng đầu bạc TTO - Một quan chức cấp cao của chính quyền Mỹ cho biết, đại bàng đầu bạc, biểu tượng của nước Mỹ, sẽ ra khỏi sách đỏ trong năm nay. Craig Manson, người quản lý việc thi hành Đạo Luật bảo vệ những loài có nguy cơ tuyệt chủng cho biết loài vật nổi tiếng này vẫn cần được bảo vệ đặc biệt theo Đạo luật bảo vệ đại bàng đầu bạc soạn thảo năm 1940. Vào năm 1963, tại Hoa Kỳ chỉ còn 417 cặp đại bàng đầu bạc . Môi trường sống của chúng bị đe doạ nghiêm trọng vì đất nước phát triển, nông dân giết chúng vì sợ chúng ăn cừu, và việc sử dụng rộng rãi DDT sau chiến tranh thế giới thứ hai làm cho trứng chim bị mỏng đi, làm tỷ lệ chim non giảm đáng kể. Năm 1948 đại bàng trắng bị đe dạo tuyệt chủng ở 43 bang và bị nguy hiểm ở 5 bang khác. Nhưng hiện nay, số đại bàng đầu bạc tại Mỹ đã lên đến 7.678 cặp. ANH QUÝ (Theo AP)
|
|
|
Tin tức
May 26, 2004 15:11:56 GMT -5
Post by Oshin on May 26, 2004 15:11:56 GMT -5
Cái chết bí ẩn của "gã khổng lồ" baobab Nam Phi
Các nhà khoa học Nam Phi thừa nhận rằng họ đành phải bó tay trước căn bệnh bí hiểm đang giết chết các cây baobab khổng lồ trên đất nước này. Theo lời các chủ trang trại, đã vài năm nay, cây baobab liên tục bị nám đen và dần chết đi.
Cái chết bí ẩn
Theo GS Mike Wingfield, chuyên gia lâm nghiệp và công nghệ sinh học nông nghiệp thuộc ĐH Pretoria (Nam Phi), có thể thủ phạm là một loại nấm độc hại. Ông cho biết: "Các chủ trang trại tìm đến với chúng tôi và thông báo về hiện tượng cây baobab bị chết hàng loạt. Một năm trước, chúng tôi quyết định tiến hành khảo sát để tìm hiểu về những cây baobab bị chết. Sau khi trèo lên cây để lấy mẫu vật, chúng tôi tìm thấy một vài loài nấm, và thậm chí chúng tôi còn cấy loại nấm này lên cây để xem cây có bị chết hay không. Tuy nhiên, kết quả không phải như chúng tôi nghĩ, vì thế chưa thể kết luận được rằng nấm là thủ phạm giết chết baobab."
Một giả thuyết khác: Nấm chỉ bám vào thân cây khi cây đã mang bệnh từ trước, còn thủ phạm có thể là... sự phá hại của loài voi. Loài voi vặt lá cây làm thức ăn và làm tổn hại đến thân cây, sau đó các sinh vật thứ cấp bắt đầu tấn công cây. Baobab là một loại cây cực kỳ phi thường, giống như loài xương rồng vì có thể sống trong điều kiện khô hạn nhờ tích luỹ nước trong các cành cây khổng lồ của chúng. Ngoài ra, baobab còn nổi tiếng vì khả năng sống lâu tới hàng ngàn năm.
Từ quan điểm của một cuộc nghiên cứu, thật sự rất khó xử lý được vấn đề này. Wingfield cho biết: "Nhìn chung, những cây bị bệnh đều rất lớn, và baobab là giống cây mọng nước chứ không giống như một loại thực vật điển hình. Vì vậy, nếu như bạn dùng đến cưa xích, chúng sẽ phun ra hàng đống nước từ khối ruột mềm mọng nước của chúng. Cây baobab có giá trị rất lớn đối với nhiều cộng đồng dân cư ở châu Phi, và để tìm ra được nguyên nhân gây bệnh thì cần phải tiến hành những cuộc nghiên cứu khác có quy mô lớn hơn hiện nay."
|
|
|
Tin tức
May 26, 2004 15:34:58 GMT -5
Post by Oshin on May 26, 2004 15:34:58 GMT -5
Giữ mãi cánh cò trắng cho giấc mơ trẻ thơ Theo truyền thuyết của nhiều nước châu Âu, cò trắng là loài mang trẻ em đến cho từng gia đình và bảo vệ ngôi nhà khỏi bị cháy. Hầu như người dân phương Tây nào cũng yêu quý hình ảnh lũ cò và những chiếc tổ to sù của chúng - có chiếc sâu đến 3m và có hàng trăm năm tuổi - trên mái nhà, tháp chuông nhà thờ và cột điện thoại. Con cò bay lả, bay la... Cò được yêu quý trên khắp châu Âu. Từ tháng Chín đến tháng Ba năm sau, trên khắp khu vực Đông Âu và Trung Âu, hàng ngàn chiếc tổ cồng kềnh làm bằng cành cây, que, rác, giẻ rách và các thứ mảnh vụn khác nằm trống trơ trên mái nhà, tháp chuông, cột điện thoại và bất cứ vật gì mọc cao để có thể nhìn bao quát xuống đất. Chướng mắt ư? Không hề, rất nhiều người châu Âu bảo thế. Những chiếc tổ này thuộc về lũ cò trắng (Ciconia ciconia) yêu quý của họ, những chú chim cao đến cả mét, có cặp chân trần dài ngoẵng và đôi mỏ nhọn. Peter Lovaszi, người phụ trách Chương trình Bảo vệ Cò trắng của cơ quan Birdlife ở Budapest (Hungary), cho biết: "Tôi nghĩ rằng cò trắng là loài chim hoang được yêu thích nhất tại một vài quốc gia châu Âu." Những chiếc tổ cò cổ xưa nhất đã có hàng trăm năm tuổi. Chúng rộng hơn 2m và sâu 3m, là nơi sinh nở cho lũ cò khi bắt đầu trở về từ vùng đất di cư châu Phi xa xôi. Cò rất trung thành với chiếc tổ, vì thế mỗi năm chúng lại trở về đúng với "mái ấm" của mình. Cò trống thường trở về trước cò mái vài ngày để sửa sang lại tổ, sau đó chờ đợi "nàng" trở về. Làm tổ cho cò ngay trên mái nhà của mình. Thỉnh thoảng lại có một vụ "đánh lộn" diễn ra ngay trên tổ. Loài cò thậm chí còn trung thành với chiếc tổ của mình hơn là với "người tình". Lovaszi cho biết: "Đôi khi, một con trống đến sau sẽ đánh đuổi con trống đến trước ra khỏi tổ. Nhưng con mái mặc kệ - nó cứ nằm yên trong tổ và sẽ cặp đôi với kẻ chiến thắng." Nhiều người khi xây nhà đã tạo những khoảng không gian cần thiết trên mái nhà để tạo điều kiện cho đôi cò nào không có tổ đến xây dựng "mái ấm" ngay trên nhà mình. Theo Kai-Michael Thomsen, chuyên gia bảo tồn cò trắng thuộc Viện Michael-Otto (Birdlife Đức), người dân Đức rất thích có một chiếc tổ cò trắng ngay trên nóc nhà của mình. Theo truyền thuyết, cò trắng sẽ mang trẻ em đến cho gia đình và bảo vệ ngôi nhà khỏi bị cháy. Như vậy, khi trở về, cò trắng sẽ được đón chào với những vòng tay mở rộng, và nơi nào có mật độ tổ cò cao, nơi đấy sẽ thu hút được nhiều du khách!
|
|
|
Tin tức
May 26, 2004 15:36:05 GMT -5
Post by Oshin on May 26, 2004 15:36:05 GMT -5
Khi giấc mơ vắng bóng những cánh cò Tổ cò chễm chệ trên cột điện thoại. Thế nhưng trong thế kỷ vừa qua, số lượng cò trắng đã giảm đi nhiều. Cho đến cuối những năm 1980, dân số loài cò đã sụt giảm một cách nghiêm trọng tại hầu hết các khu vực làm tổ. Theo Lovaszi, cò trắng đã làm tổ tại các thị trấn và nông trại hàng thế kỷ nay, có lẽ vì chúng nghĩ rằng sống gần con người sẽ có lợi cho chúng. Tuy nhiên, ông không biết đích xác nguyên nhân vì sao lại thế. Một trong những lý do thuyết phục nhất là tại các trang trại và vùng nông thôn quanh đấy thường có nhiều chuột, rắn, thằn lằn, cóc, côn trùng và nhiều loại mồi làm thức ăn cho cò. Thomsen cho biết: "Cò trắng cần có các đồng cỏ mở (hoặc nửa mở ) để kiếm ăn. Tại Trung Âu, chúng chỉ tìm thấy những đồng cỏ nhân tạo mà thôi, vì vậy cò trắng chỉ sử dụng cảnh quan nhân tạo. Còn tại nhiều nơi trên đất nước Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ, cò vẫn làm tổ trên cây và vách đá." Ngày nay, số phận của lũ cò trắng trên thế giới đang trở nên bấp bênh hơn bao giờ hết vì bị mất môi trường sống, vì con người tăng cường hoạt động nông nghiệp và vì các thành phố đang phình ra. Nhiều gia đình nhà cò giờ đây phải làm tổ trên đỉnh cột điện và bị điện giật chết khi tổ rơi xuống dây điện. Theo Lovaszi, một trong những biến đổi quan trọng ở Hungary là sự sụt giảm nghề truyền thống nuôi cừu và gia súc, mặc dù rất nhiều đồng cỏ đã được tạo ra. Hoạt động chăn nuôi gia súc giờ đây không còn mang lại lợi nhuận nữa, vì thế không gây được sức hút đối với lớp trẻ. Vì không còn nhiều gia súc, cỏ mọc cao hơn và do vậy cò rất khó nhìn thấy con mồi. Lovaszi lưu ý rằng, nếu không có tác động bón của phân gia súc, hệ sinh thái sẽ không được cân bằng vì số lượng côn trùng ít đi, khiến cho cò thiếu hẳn nguồn thức ăn. Bảo vệ những cánh cò Thanh bình kiếm ăn. Để bảo vệ cò trắng và tạo điều kiện cho dân số loài cò phục hồi, giờ đây giới bảo tồn đang làm việc với các công ty điện để xây dựng chỗ đựng tổ nhằm neo chặt tổ cò vào cột điện. Bên cạnh đấy, họ còn cố gắng bảo vệ môi trường sống tự nhiên của cò, chẳng hạn như vùng đầm lầy. Karin Johst, nhà mô hình sinh thái thuộc Trung tâm Nghiên cứu Môi trường UFZ tại Leipzig (Đức), đang tìm cách nâng cao cơ hội kiếm săn của cò trắng trong các khu vực nông nghiệp. Cô cho biết: Thiếu thức ăn là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến chim non bị chết. Johst phát hiện rằng cò con có cơ hội sống cao hơn nếu bố mẹ chúng kiếm ăn trong những khu vực mà đồng cỏ được cắt xén theo nhiều mảng trong suốt mùa sinh sản, chứ không phải là cắt sạch một lần như nông dân thường làm. Johst giải thích: "Cắt cỏ làm nhiều lần sẽ tạo ra các mảng săn mồi chất lượng cao trong suốt mùa sinh sản chứ không phải chỉ trong những giai đoạn ngắn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là đối với nông dân, phương pháp cắt cỏ cũ lại hiệu quả hơn rất nhiều. Vì vậy, để nông dân chuyển sang cách cắt cỏ mới, chính phủ phải có chương trình trợ cấp nhằm phục vụ mục đích bảo tồn cò." Ngày nay, nhờ có nỗ lực của các nhà bảo tồn cò trắng trên khắp châu Âu, dân số loài cò đang ổn định dần và có dấu hiệu phục hồi tại một số vùng. Theo số liệu tổng điều tra dân số cò trắng năm 1994-1995, lũ cò đã tăng lên tới 166.000 đôi trong tuổi sinh sản, trong lúc năm 1984 chỉ có khoảng 135.000 đôi. Cuộc tổng điều tra năm 2004-2005 vẫn đang được tiến hành, hy vọng sẽ thu được con số tươi đẹp hơn. Khánh Hà (Theo National Geographic)
|
|
|
Tin tức
May 27, 2004 9:14:58 GMT -5
Post by Oshin on May 27, 2004 9:14:58 GMT -5
Tương lai ảm đạm của linh miêu Iberian Linh miêu Iberian. Trừ phi châu Âu thực hiện các biện pháp cứu hộ cấp bách, nếu không linh miêu Iberian sẽ trở thành loài mèo lớn đầu tiên trên thế giới biến mất hoàn toàn do bàn tay con người. Hiện chỉ còn khoảng 120 cá thể linh miêu Iberian (Lynx pardinus) trong tự nhiên, Dan Ward, một nhà tư vấn độc lập tại Anh, người đã dành 6 tháng qua để điều tra thực trạng này, vừa cảnh báo. Chúng gồm hai quần thể nhỏ ở vùng Andalusia, phía nam Tây Ban Nha. Ward tin rằng số phận linh miêu bi đát hơn nhiều so với các loài cùng họ thuộc diện nguy cấp khác, như hổ Siberia. "Đây là loài mèo nguy cấp nhất thế giới", ông nhận định. Từng phân bố rộng rãi ở hầu khắp Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và miền nam nước Pháp, linh miêu Iberian đã bị săn lùng ráo riết đến mức gần tuyệt chủng bởi các tay thợ săn, hoạt động nông nghiệp và giao thông. Quá trình suy thoái này còn được hỗ trợ bởi việc giảm dân số của thỏ, một món ăn ưa thích của chúng. Vấn đề thực sự là việc bảo tồn linh miêu không là ưu tiên của các chính trị gia địa phương, Ward nhấn mạnh. "Khi một cuộc xung đột diễn ra, thường thì bảo tồn sẽ được đặt xuống thứ yếu", ông nói. Tuy nhiên, lời kêu gọi thức tỉnh dường như đã đến tai những người có trách nhiệm. "Báo cáo này có thể là bước ngoặt với linh miêu Iberian", Caroline Lucas, một thành viên Anh trong Ủy ban châu Âu, cho biết. "Nếu lưu ý đến nó, chúng ta có thể vẫn còn thời gian để cứu vãn vật trang sức này của tự nhiên châu Âu". Tuy nhiên, khôi phục quần thể không phải là việc dễ dàng. Một trong hai nhóm còn lại tại Doñana, chỉ có chừng 35-40 con và nằm cách nhóm lớn hơn khoảng 200 km. Linh miêu Doñana có thể đã giao phối cận huyết khá lâu và quá cô lập để có thể phục hồi. B.H. (theo Nature)
|
|
|
Tin tức
May 27, 2004 9:40:32 GMT -5
Post by Oshin on May 27, 2004 9:40:32 GMT -5
Hổ Bengal Trong một cuộc khảo sát mới đây, các nhà khoa học đã tìm thấy 500 con hổ Bengal tại một khu rừng đước ở Bangladesh. Loài động vật này đang bị dồn tới bờ vực tuyệt chủng do nạn săn bắn trộm để lấy da và xương. Các chuyên gia ước tính hiện chỉ còn 5.000-6.000 con hổ loại này trên thế giới, so với 100.000 con vào năm 1900. Phần lớn chúng sống ở Ấn Độ và Bangladesh. Một số cũng được tìm thấy ở Nepal, Ấn Độ, Bhutan và Myanmar (Minh Sơn, Nguồn: AFP). Hổ Sumatra sắp tuyệt chủng vì nạn săn bắn Sumatra, giiống hổ còn sót lại duy nhất tại quần đảo Indonesia hiện đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng vì nạn săn bắn, làm ảnh hưởng đến sự cân bằng của nòi giống. Hai hòn đảo thuộc Indonesia là Bali và đảo Java đã mất đi những con hổ cuối cùng còn lại sống hoang dã. Báo cáo mới nhất cho biết ít nhất 50 con hổ bị giết trộm mỗi năm, và ước tính số lượng hổ còn sống sót trên đảo là chưa tới 500 con. Loài hổ này đang bị săn bắn trộm một cách có hệ thống tại các khu rừng ngày càng bị thu hẹp lại ở Sumatra để có thể đáp ứng nhu cầu mua bán các bộ phận cơ thể của hổ cho các loại thuốc truyền thống. Quỹ bảo vệ thiên nhiên thế giới đang kêu gọi phải tăng cường thực thi pháp luật tốt hơn tại Indonesia nhằm chống nạn săn bắn trộm và chấm dứt tình trạng khai hoang phá rừng trên hòn đảo Sumatra để cung cấp gỗ cho ngành sản xuất giấy với giá rẻ mạt cho thị trường thế giới, trong đó có cả Anh quốc. Tuổi Trẻ - Theo BBC
|
|
|
Tin tức
May 30, 2004 4:41:58 GMT -5
Post by Robot on May 30, 2004 4:41:58 GMT -5
Thế giới đang vắng dần loài ếch ộp... Răng sắc, màu sặc sỡ và chất độc trên da có thể không phải là những đặc tính mà mọi người nghĩ tới khi nói về ếch, song đó lại là các công cụ đảm bảo sự sống còn của chúng. Ếch núi ở Nam Mỹ chống mất nước bằng cách tiết ra một chất dịch trên khắp cơ thể. Các ngón tay của nghiên cứu sinh Jiulia Faivovich, người đồng tổ chức triển lãm ếch tại Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Mỹ trong tuần này, đã bị cắn nhiều lần trong khi anh thu thập mẫu của một loài ếch lớn màu xanh. Anh nói: ''Chúng cắn rất mạnh bằng hai răng sắc nhô ra từ hàm dưới. Nếu bị đe doạ, chúng đá chân lên trời để lộ ra chiếc bùng màu da cam tươi rói. Nếu điều đó chưa đủ để làm kẻ tấn công sợ hãi, lưng của chúng được phủ các chất độc chết người''. Cho tới nay, các nhà nghiên cứu mới ghi nhận được sự tồn tại của khoảng 4.900 loài ếch, bao gồm cả cóc - một loại ếch thường có màu nâu hơn, khô hơn và nhiều bướu nhỏ. Tuy nhiên, Raxworthy, một người đồng tổ chức nữa, cho rằng có lẽ có nhiều loài ếch hơn và hiểu biết của con người về loài sinh vật này là chưa đủ. Anh ước tính các nhà nghiên cứu sẽ xác định được gần 6.000 loài ếch trong vòng 50 năm nữa. Chỉ tính từ năm 1995 tới nay, đã có 990 loài ếch mới được mô tả. Có loài ễnh ương châu Phi tròn lẳn sống 11 tháng dưới mặt đất mỗi năm, chỉ chui lên để giao phối và ăn côn trùng, chim cũng như sinh vật gặm nhấm trong một tháng còn lại. Một số cóc miệng hẹp lại chỉ có thể ăn kiến và sên. Ếch vàng phi tiêu độc trông rất mảnh dẻ song lại chứa một loại chất độc mạnh khủng khiếp. Sinh vật bản địa ở Trung và Nam Mỹ này phóng một lượng chất độc trên lưng đủ để giết chết mười người. Một loài ếch ở Australia lại nổi tiếng về cách cá thể cái nuốt chửng trứng của chúng rồi ức chế các chất dịch dạ dày để trứng phát triển. Nhiều tuần sau đó, những cô cậu ếch con chui ra khỏi miệng ếch mẹ, từng con một. Ếch Darwin của Nam Mỹ có hành vi ấp trứng tương tự, ngoại trừ chính ếch đực nuốt nòng nọc đang phát triển và mang chúng trong các bao kêu. Ếch Darwin.
Song song với việc nghiên cứu những hành vi đa dạng của họ ếch, các nhà khoa học cũng đang chạy đua để hiểu cái gì đang giết chết loài lưỡng cư này. Cuộc khảo sát địa chất của Mỹ năm 2000 cho thấy có tới 2/3 tổng số các loài lưỡng thê ở quốc gia này đã biến mất khỏi môi trường sống bản địa của chúng. Ở các vùng cao Nam Mỹ và Australia, họ thông báo toàn bộ các loài ếch đã biến mất trong gần một thập kỷ qua. Một số nhà khoa học cho rằng sự biến mất này là do một sinh vật giống nấm xâm nhập vào da ếch và ức chế quá trình hô hấp. Những người khác lại nhận ra một loại virus có lẽ đang lây lan khắp các loài ếch. Số còn lại thì cho rằng các nhân tố môi trường - môi trường sống bị thu hẹp, tiếp xúc ngày càng nhiều với bức xạ tử ngoại do tầng ozone bị thủng - và hoá chất do con người thải ra là thủ phạm. Raxworthy cho rằng sự biến mất của ếch là do nhiều nhân tố kế hợp. Tuy nhiên, tìm ra tại sao những con ếch lại chết trong ao vẫn còn là thách thức. Trong khi đó, còn nhiều điều trong thế giới loài ếch mà con người cần tiếp tục khám phá. Minh Sơn (Theo ABCNews)
|
|
|
Tin tức
Jun 2, 2004 15:55:19 GMT -5
Post by Robot on Jun 2, 2004 15:55:19 GMT -5
Rùa biển: Bao giờ thoát kiếp nạn... lưỡi câu? Theo Quỹ Thiên nhiên Hoang dã (WWF), nếu thay đổi hình dáng của lưỡi câu truyền thống và sử dụng một loại mồi khác biệt, sẽ có thể giúp giảm 90% lượng rùa vô tình bị mắc hoặc bị giết do vướng phải lưới dây của ngư dân. Từ lưỡi J tới lưỡi tròn Rùa lưng da. Phối hợp với các nhà khoa học và ngành ngư nghiệp, gần đây Cục Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ đã thử nghiệm một loại lưỡi câu hình tròn tại Đại Tây dương. Kết quả cho thấy lượng rùa bị giết giảm mạnh. Lưỡi câu mới này tốt hơn lưỡi hình chữ J hiện nay. Rùa có thể nuốt phải lưỡi câu hình J, dẫn tới bị nghẹt thở hoặc chảy máu trong. Trái lại, rùa ít có khả năng nuốt phải lưỡi câu hình tròn và dễ dàng thoát ra hơn nếu bị vướng vào. WWF đang hỗ trợ cho việc sử dụng rộng rãi loại lưỡi câu hình tròn ở Đông Thái Bình dương, với hy vọng giải pháp này có thể được áp dụng trên toàn Thái Bình dương và được các đội tàu của châu Âu sử dụng trong tương lai. Theo WWF, lưỡi câu của lưới dây - dây đánh cá nặng, thường dài nhiều km và được gắn một loạt móc câu có mồi - là mối đe doạ lớn nhất đối với rùa biển. Mỗi năm có tới 200.000 rùa loggerhead và 50.000 rùa lưng da vô tình bị vướng vào lưới dây của các tàu đánh cá ngừ và cá kiếm thương mại. Tại Thái Bình dương, số lượng rùa lưng da cái, đang làm tổ, đã giảm từ 90.000 vào những năm 1980 xuống còn chừng 2.000 cá thể ngày nay. Trong nhiều trường hợp, lưỡi câu hình tròn còn làm tăng sản lượng cá kiếm đánh bắt được. Scott Burns, giám đốc Chương trình Biển của WWF tại Mỹ, cho biết: ''Giải pháp này mang lại nhiều ích lợi. Nếu ngư dân quyết định chuyển sang sử dụng loại lưỡi câu mới, họ sẽ góp phần bảo vệ các loài rùa biển đang có nguy cơ tuyệt chủng cũng như tăng thu nhập''. Lưỡi câu mới đã được đưa vào sử dụng tại một số vùng ở Ecuador, nước có đội tàu đánh bắt lớn nhất bằng lưới dây ở vùng Đông Thái Bình dương. Khoảng 15.000 tàu đánh bắt loại này hoạt động trong các vùng biển mà rùa có nguy cơ tuyệt chủng di cư qua đó. Đồi mồi. WWF đang phối hợp với các đối tác địa phương để thử nghiệm và đánh giá kết quả của các loại lưỡi câu tròn cũng như những kỹ thuật nhằm giảm nhẹ sinh vật biển vô tình bị mắc lưới. TS Susan Lieberman, giám đốc Chương trình Các Loài của WWF, nói: ''Nếu chúng ta muốn tiếp tục bảo đảm sự sống còn của rùa biển, chúng ta phải hành động để thay đổi tập quán đánh bắt, làm cho lưới dây ít gây hại hơn đối với rùa biển. Ở nơi nào có hoạt động đánh bắt, ở nơi đó có sinh vật biển khác bị mắc lưới. Đây là một trong những mối đe doạ lớn nhất và phổ biến nhất đối với môi trường biển nói chung và rùa biển nói riêng. Chúng ta phải hợp tác để giảm thiểu mối nguy này''. Để thúc đẩy hơn nữa nỗ lực giảm lượng sinh vật biển vô tình bị mắc lưới đánh cá, vào trung tuần tháng 5 vừa qua, WWF cùng với các ngư dân, nhà khoa học và thương gia đã phát động Cuộc thi quốc tế về thiết kế thiết bị đánh bắt cá thông minh ở Vancouver (Canada). Cuộc thi sẽ trao giải thưởng bằng tiền mặt cũng như trợ giúp về kỹ thuật để phổ biến công nghệ tiên tiến nhất giảm lượng sinh vật biển vô tình bị mắc lưới đánh cá. Long đong phận con rùaTất cả bảy loài rùa biển trên thế giới được liệt kê trong Phụ lục I của Công ước Buôn bán Quốc tế Các Loài Động, Thực vật Có Nguy cơ Tuyệt chủng (CITIES). Sáu loài trong số này (rùa lưng da, rùa loggerhead, rùa xanh, rùa Olive Ridley, rùa Kemp's Ridley và đồi mồi) được coi là có nguy cơ tuyệt chủng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng cao. Tương lai của chúng ngày càng ảm đạm. Tại Thái Bình dương, rùa lưng da đang tiến tới bờ vực tuyệt chủng nhanh; trong khi tại Địa Trung Hải, số lượng rùa xanh cũng giảm mạnh. Rùa loggerhead. Rùa biển có tiềm năng sinh sản cao. Rùa cái có thể đẻ hàng trăm trứng trong một mùa sinh sản. Tuy nhiên, ngay cả trong các điều kiện tự nhiên, tương đối ít rùa con sống sót qua năm thứ nhất của cuộc đời. Các động vật săn mồi như cua, cáo và chim thường giết rùa con vừa nở khi chúng tìm đường từ tổ ra biển. Khi đã xuống được vùng nước nông, nhiều rùa con tí hon lại bị cá ăn thịt. Số phận rùa càng long đong hơn khi con người thu nhặt trứng của chúng hoặc làm xáo trộn các bãi biển nơi rùa đẻ trứng. Phải mất hàng chục năm để rùa con sống sót trưởng thành và bắt đầu sinh sản. Do vậy, rùa trưởng thành phải sống nhiều năm nếu muốn duy trì số lượng. Tuy nhiên, tỷ lệ rùa chết tại các vùng biển sâu do vướng vào lưới đánh cá, ô nhiễm môi trường và bệnh tật có nghĩa là ngày càng ít rùa sống đủ lâu để sinh sản. Bảo vệ hiệu quả đồng nghĩa với bảo vệ rùa ở mọi giai đoạn của vòng đời - bảo vệ các bãi biển nơi rùa đẻ trứng cần sự hành động ở cấp địa phương và bảo vệ rùa con, rùa trưởng thành tại các vùng biển cần những thoả thuận quốc tế có thể thi hành. Minh Sơn (Tổng hợp)
|
|
|
Tin tức
Jul 3, 2004 10:51:48 GMT -5
Post by Robot on Jul 3, 2004 10:51:48 GMT -5
Bảo vệ nữa chăng, đại bàng trắng và gấu xám? Cách đây hơn 30 năm, đại bàng trắng - biểu tượng quốc gia về sức mạnh và tự do của nước Mỹ - đã gần như biến mất khỏi bầu trời. Vào thời điểm đó, các nhà sinh học tin rằng còn chưa tới 500 cặp trong độ tuổi sinh sản đang sống tại 48 bang. Ngày nay, điều này đã thay đổi. Từ đại bàng trắng... Đại bàng trắng. Sự bảo vệ của liên bang và lệnh cấm sử dụng thuốc trừ sâu DDT đã góp phần làm tăng số lượng đại bàng trắng lên hơn 7.600 cặp. Hiện chính phủ Mỹ đang lên kế hoạch loại chúng khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng tại Mỹ, có lẽ là trong năm tới. Gấu xám Bắc Mỹ, được coi là bị đe doạ kể từ năm 1975, cũng chịu số phận tương tự. Luật các loài có nguy cơ tuyệt chủng của Mỹ (ESA) được coi là luật bảo tồn thiên nhiên hiệu quả và mạnh nhất trên Trái đất. Hiện có 1.843 loài được bảo vệ theo luật này. Theo Luật ESA, động - thực vật có nguy cơ tuyệt chủng được gọi là ''bị nguy hiểm'' hoặc ''bị đe doạ''. ''Bị nguy hiểm'' nghĩa là một loài có nguy cơ tuyệt chủng toàn bộ hoặc một phần lớn. ''Bị đe doạ'' có nghĩa một loài có thể lâm nguy trong tương lai gần. Nhờ sự bảo vệ của liên bang, các loài đứng trên bờ vực tuyệt chủng có cơ hội phục hồi. Ngay khi phục hồi, loài đó bị loại khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Nhà sinh học Tim Male thuộc Nhóm Bảo vệ Môi trường ở New York cho biết sự phục hồi của đại bàng trắng là một câu chuyện thành công. Đã đến lúc kỷ niệm điều đó bằng cách loại chúng khỏi danh sách bảo vệ. Ông nói: ''Còn nhiều loài cần sự bảo vệ của chúng ta''. Tổ chức này đang kêu gọi chính phủ Mỹ đưa đại bàng trắng ra khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Đề nghị được đưa ra dưới thời ông Clinton còn là tổng thống năm 1999. Thường thì tiến trình trên phải mất một năm. Cindy Hoffman, người phát ngôn của Cục Động vật Hoang dã và Cá của Mỹ cho biết tiến trình chậm chạp là bởi đại bàng trắng phân bố rộng khắp trên toàn Bắc Mỹ. Bà nói: ''Chúng tôi phải chắc chắn rằng bất kỳ điều gì chúng tôi làm cho đại bàng trắng đều có ý nghĩa đối với chúng''. Cục Động vật Hoang dã và Cá hiện đang soạn thảo văn bản hướng dẫn quản lý loài chim săn mồi này theo Luật Bảo vệ Đại bàng trắng. Luật bảo vệ đó được thông qua vào năm 1990, ngăn cấm giết hoặc bán đại bàng. Việc thăm dò ý kiến của công chúng (kéo dài 60 ngày) về văn bản hướng dẫn cũng như kế hoạch loại đại bàng trắng khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng sẽ được tổ chức trong tương lai gần. Ngay khi ý kiến của công chúng được thu thập và phân tích, quyết định cuối cùng sẽ được đưa ra trong vòng một năm.
|
|
|
Tin tức
Jul 3, 2004 10:52:10 GMT -5
Post by Robot on Jul 3, 2004 10:52:10 GMT -5
... Tới gấu xámKhi Lewis và Clark thám hiểm miền Tây nước Mỹ vào đầu những năm 1800, có tới 100.000 con gấu xám lang thang khắp vùng đất hoang dã và rộng lớn này. Ngày nay, với hàng triệu người đang sinh sống trong khu vực, chỉ còn lại vài vùng nơi gấu xám có thể sống và phát triển. Các nhà khoa học tin rằng còn khoảng 1.000 cá thể gấu độc thân hiện cư trú tại một số vùng ít thực vật ở miền Tây nước Mỹ. Cộng đồng gấu xám lớn nhất, với chừng 550 con, tập trung trong hệ sinh thái Yellowstone rộng 36.000km2 tại bang Idaho, Montana và Wyoming. Gấu xám bắt cá. Đề nghị chính thức loại cá thể gấu ở Yellowstone khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng sẽ được đưa ra vào năm 2005. Theo Chris Servheen, điều phối viên phục hồi gấu xám tại Cục Động vật Hoang dã và Cá, gấu xám sống ở bốn hệ sinh thái khác - Northern Continental Divide, Cabinet-Yaak, North Cascades, và Selkirk - sẽ vẫn được coi là bị đe doạ. Nguyên nhân là các cộng đồng gấu tại đó có số lượng nhỏ và nguy cơ cao. Trên thực tế, các cá thể gấu tại ba trong bốn hệ sinh thái trên chắc chắn sẽ được liệt vào danh sách có nguy cơ tuyệt chủng trong tương lai. Nếu không còn được liên bang bảo vệ, công việc quản lý gấu ở Yellowstone sẽ được giao cho bang Idaho, Montana và Wyoming. Mỗi năm Mỹ 3,4 triệu USD từ ngân sách liên bang và bang sẽ được chi để giám sát và quản lý gấu. Nỗ lực cứu gấu ở Yellowstone đã diễn ra trong hơn 2 thập kỷ và chủ yếu tập trung vào việc làm cho công chúng chấp nhận chúng. Servheen nói: ''Về cơ bản cách mọi người sống, làm việc và giải trí trong khu vực này khác hơn so với cách đây hơn 20 năm. Tất cả những bước đi này đã góp phần làm số lượng gấu tăng nhanh với tốc độ 4% mỗi năm''. Môi trường sống của chúng cũng đang mở rộng. Để tránh quyết định vội vàng...Mặc dầu vậy, không phải tất cả mọi người đều ủng hộ loại gấu xám ra khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng. Nhiều nhóm môi trường phản đối đề nghị đó, bao gồm Liên minh Bảo tồn Yellowstone ở Bozeman, Montana. Tim Stevens cho biết bãi bỏ sự bảo vệ của liên bang là quá sớm bởi các nguồn thức ăn của gấu như hạt thông và cá hồi đang giảm mạnh. Nếu một cuộc khủng hoảng lương thực xảy ra, gấu xám có thể đi ra ngoài khu vực được bảo vệ để tìm kiếm thức ăn, làm tăng nguy cơ chạm trán với con người và tử vong. Mẹ con nhà gấu xám. Stevens nói: ''Cho tới khi có sự đảm bảo rằng cả nguồn thức ăn và môi trường sống được bảo vệ đầy đủ, không nên loại gấu xám khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng''. Chuyên gia gấu xám Louisa Willcox thuộc Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên ở Montana cũng cho rằng kế hoạch của chính phủ Mỹ là quá vội vàng. Theo bà, để gấu tồn tại lâu dài, môi trường sống của chúng cần được bảo vệ. Loài động vật này cực kỳ nhạy cảm với sự phát triển và cần các khu vực lớn, bị cô lập, để hoạt động. Lãnh thổ của gấu đực ở vào khoảng 2.300km2 trong khi gấu cái cần khoảng 50% con số đó. Chừng 30% gấu xám tại Yellowstone hiện sống ngoài vùng bảo vệ và vùng đất này đang bị đe doạ bởi sự mở rộng của nông nghiệp cũng như phát triển dầu khí. Nếu không bảo vệ nhu cầu môi trường hiện tại, tương lai của gấu xám cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi sự đa dạng di truyền. Nếu sự bảo vệ của liên bang bị dỡ bỏ, số gấu ở Yellowstone sẽ bị kẹt trên một hòn đảo, bị cô lập với đồng loại ở xa hơn về phía Bắc. Ngoài ra, các bang Idaho, Montana và Wyoming có thể cho phép săn gấu xám sau khi sự bảo vệ của liên bang bị bãi bỏ. Servheen thuộc Cục Động vật Hoang dã và Cá cho biết sự phục hồi và loại một loài động vật khỏi danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng không có nghĩa là mọi người có thể làm mọi điều họ muốn chống lại gấu xám. Minh Sơn (Theo National Geographic)
|
|
|
Tin tức
Jul 27, 2004 11:18:13 GMT -5
Post by Robot on Jul 27, 2004 11:18:13 GMT -5
Thảm kịch hồng hạc ở Tanzania: Hơn 10.000 con đột tử Hàng nghìn du khách tới hồ Manyara của Tanzania mỗi năm để ngắm chim hồng hạc. Tuy nhiên, tại đây đã xuất hiện một "thảm kịch hồng hạc" khi loài này chết hàng loạt. Gerald Bigurube, tổng giám đốc các Vườn Quốc gia Tanzania (TANAPA), cho biết: ''Cái chết của hơn 10.000 con hồng hạc tại hồ Manyara là một thảm kịch thực sự. Chúng tôi vẫn chưa biết nguyên nhân và bản chất của căn bệnh bí hiểm tiêu diệt loài sinh vật tuyệt đẹp này''. Điều đáng ngạc nhiên là các loài động vật khác trong Vườn này vẫn chưa bị ảnh hưởng. Chúng kiếm ăn tại cùng hồ nước song vẫn an toàn. Các chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu Động vật Hoang dã Tanzania (TAWIRI) và các viện liên quan đã ở Manyara trong năm tuần qua để nghiên cứu đất cũng như nước hồ nhằm xác định bản chất vấn đề. Người phát ngôn James Lembeli của TANAPA cho biết: Gần đây, TAWIRI đã gửi mẫu hồng hạc chết tới Viện Sinh thái Nước ngọt và Ngư nghiệp Nội địa Leibniz (Đức) để xét nghiệm. Ông nói: ''Chúng tôi hy vọng sớm nhận được thông báo kết luận''. Vườn Quốc gia Hồ Manyara nằm cách thành phố Arusha của Tanzania 125km về phía Tây, rộng 330km2 và trong số này có 230km2 mặt hồ. Hồng hạc thường làm hồ nhuốm màu hồng khi tập trung di cư thành nhiều đàn lớn tới đây, ăn các động thực vật tí hon như tảo. Ngoài hồng hạc, Vườn Quốc gia này còn nổi tiếng về sư tử leo cây. Sư tử ngủ trên cành cây để tránh cái nóng ban ngày chứ không phải nằm dưới bóng cây giống phần lớn các loài sư tử khác. Du khách cũng thường nhìn thấy các loài động vật khác như báo, ngựa vằn, linh dương, khỉ đầu chó, hươu cao cổ, trâu, hà mã và voi. Theo các nhà chức trách, chính hồ nước này đã thu hút nhiều loài chim tới Vườn Quốc gia. Thỉnh thoảng, họ ghi nhận trên 100 loài chim một ngày, phổ biến là diệc, cò trắng, nhiều loài hồng hạc, choi choi Caspian, chim cu châu Phi và bói cá. Lembeli nhớ lại những vụ tử vong tương tự của hồng hạc tại các hồ có nhiều kiềm tại Kenya và nhiều vùng khác ở Tanzania, dọc thung lũng Rift trong ba năm qua. Tuy nhiên, lượng hồng hạc chết tại hồ Manyara trong năm nay là quá lớn. Tuy nhiên, Bigurube bác bỏ tin đồn rằng số hồng hạc tại hồ Manyara có thể bị loại trừ bởi số lượng của chúng lên tới hàng triệu con, với khả năng sinh sản cao và sống lâu. Ông nói: ''Hồng hạc có thể sinh sản hai năm mỗi lần trong khi tuổi thọ của chúng là 20 năm. Đó là lý do tại sao số lượng của chúng lại đông đảo như vậy. Căn bệnh này chỉ là một hiện tượng không may, tạm thời. Chúng tôi đang tìm mọi cách để cứu chúng. Chưa có lý do để tin bệnh dịch có thể diệt trừ chúng''. Minh Sơn
|
|
|
Tin tức
Sept 28, 2004 17:06:41 GMT -5
Post by Robot on Sept 28, 2004 17:06:41 GMT -5
Hàng nghìn voi vẫn bị giết mỗi năm để lấy ngà
Khoảng 4.000 con voi đang bị giết bất hợp pháp mỗi năm để đáp ứng nhu cầu ngà voi trên thế giới. Đây là kết luận từ hai nghiên cứu mới được công bố trước một cuộc họp quốc tế lớn trong tháng 10.
Một kho ngà voi bất hợp pháp. Hai nghiên cứu này cũng cho biết: Lần đầu tiên, thị trường ngà voi lớn nhất nằm ở châu Phi chứ không phải châu Á. Trong khi đó, tại Thái Lan - nước chủ nhà của hội nghị Công ước về Buôn bán quốc tế các loài bị đe doạ (CITES), các nhà chức trách kiểm soát lỏng lẻo hoạt động buôn bán ngà voi quốc tế.
Trước đây, phần lớn ngà voi được vận chuyển tới Hong Kong, Nhật Bản và các nước vùng Vịnh để chế tác đồ trang trí. Hiện nay, đa phần hoạt động sản xuất được tiến hành tại những khu chợ nhỏ ở châu Phi. Theo Susan Lieberman thuộc Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên hoang dã (WWF), những khu chợ đó nằm tại Nigeria, Sudan và các nước khác, đang thúc đẩy hoạt động săn trộm hàng nghìn con voi mỗi năm.
Hai nghiên cứu do hai cơ quan trực thuộc CITES - Hệ thống Thông tin Buôn bán Voi (ETIS) và Hệ thống Giám sát Hoạt động Bất hợp pháp Giết Voi (MIKE) - tiến hành. Đây là nỗ lực đầu tiên nhằm làm rõ cung và cầu ngà voi. Lượng ngà voi do hải quan các nước thu giữ tăng nhẹ kể từ năm 1995. Tuy nhiên, xu hướng này là không chắc chắn. Dữ liệu năm 2003 cho thấy mức thu giữ thấp nhất kể từ năm 1989.
Có 75 quốc gia cung cấp dữ liệu song dữ liệu lại rất không đầy đủ. ETIS phàn nàn rằng nhiều nước là trung tâm của hoạt động buôn bán bất hợp pháp song lại không thông báo hoặc không có bất kỳ vụ bắt giữ sản phẩm nào làm từ ngà voi. Ngoài các nước châu Phi, thị trường tiêu thụ ngà voi là Italia, Đài Loan và Singapore. Trung Quốc đại lục là trung tâm sản xuất ngà voi chính của toàn châu Á, vượt qua Hong Kong và Nhật Bản.
Các điểm nóng săn trộm voi là Congo, Cameroon, Cộng hoà Trung Phi, Gabon và Chad. Tuy nhiên, Nigeria, nước có thị trường ngà voi nội địa khổng lồ, là điểm nóng tồi tệ nhất. Nước này bị cáo buộc tham gia thường xuyên và ngày càng tăng vào hoạt động buôn bán ngà voi trái phép, mức tham nhũng cao và nỗ lực kém nhất về thực thi luật pháp trong lĩnh vực này.
Buôn bán ngà voi quốc tế bị cấm vào năm 1989 nhằm chấm dứt hoạt động săn trộm tràn lan ở châu Phi. Một số quốc gia hiện muốn nối lại hoạt động này dưới dự bảo vệ của một hệ thống giám sát quốc tế chặt chẽ. Tuy nhiên, hai báo cáo trên đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về việc liệu có an toàn không khi tái khởi động hoạt động buôn bán ngà voi quốc tế.
Minh Sơn (Theo NewScientist
|
|
|
Tin tức
Sept 28, 2004 17:30:07 GMT -5
Post by Robot on Sept 28, 2004 17:30:07 GMT -5
Công bố các loài hoang dã bị săn lùng nhiều nhất
Quỹ Thú hoang Thế giới (WWF) hôm qua công bố một danh sách các loài động, thực vật thường xuyên bị mua, bán, trộm cắp, giết hoặc bắt giữ nhiều nhất phục vụ thị trường thế giới.
Tổ chức này cũng kêu gọi các chính phủ đồng ý hạn chế những hoạt động buôn bán liên quan đến những loài phổ thông, có giá trị thương mại cao như dùng làm món đặc sản, thuốc kích dục hoặc vật nuôi.
Dưới đây là danh sách các loài được "ưa chuộng nhất", không theo thứ tự đặc biệt nào:
- Hổ: Số lượng của chúng đã suy giảm khoảng 95% trong vòng thế kỷ qua, và có lẽ chỉ còn chưa đầy 5.000 con trong thiên nhiên. Mối đe dọa lớn nhất đối với chúng là việc săn bắt trộm để sử dụng trong các bài thuốc cổ truyền của Trung Quốc. Chẳng hạn xương hổ được dùng làm chất giảm đau. Da hổ cũng được đặt giá cao.
- Cá biển đầu bướu: Đôi môi lớn của nó được chào bán với giá hàng trăm đôla mỗi đĩa ở Đông Á, và nhu cầu về loài này tăng liên tục trong những năm gần đây. Cá biển đầu bướu hiếm có trong tự nhiên và sinh sản rất chậm, khiến số phận của chúng càng thêm mong manh.
- Cá mập trắng: Hàm, răng, da và vây cá mập trắng có giá cao trên thị trường. Mối đe dọa thứ hai với chúng là việc lọt vô tình vào các lưới đánh cá.
- Cây Ramin: phân bố ở Indonesia và Malaysia, loài cây gỗ cứng này được dùng để tạo gậy chơi bi-a, cửa và khung tranh. Chúng thường bị chặt phá bất hợp pháp.
- Rùa mũi lợn: Sống ở Papua New Guinea, Indonesia và Australia, loài rùa nước ngọt khổng lồ này trở thành vật nuôi được ưa thích. Không chỉ những con nhỏ bị bắt để bán thương mại, tổ của chúng còn thường bị trộm trứng để ăn.
- Vẹt mào vàng: Tìm thấy ở Indonesia, thường được bắt để cung cấp cho thị trường chim cảnh. Dân số của chúng hiện giảm xuống chưa đầy 10.000 con. Indonesia đang tìm kiếm một lệnh cấm tất cả các hoạt động buôn bán quốc tế liên quan đến loài chim này vì số phận chúng đang rất nguy cấp.
- Voi châu Á: Mất nơi cư trú và bị săn bắn để lấy ngà là vấn đề nghiêm trọng nhất với loài này ở nhiều quốc gia châu Á. Quần thể voi ở đây còn khoảng 35.000 đến 50.000 con trong tự nhiên, bằng khoảng một phần mười voi châu Phi.
- Cá heo Irrawaddy: Mối đe dọa lớn với loài vật cực kỳ hiếm hoi của Myanmar này là mắc vào lưới đánh cá và vướng mìn đánh cá. Ngay cả việc đưa chúng vào các vườn thú và hồ nuôi cũng làm giảm đáng kể số lượng cá thể trong thiên nhiên.
- Tắc kè đuôi lá: Chỉ tìm thấy ở Madagascar, những con tắc kè này bị bắt với tốc độ báo động cho mục đích thú chơi cảnh. Việc mất nơi cư trú cũng là hiểm họa đối với chúng.
- Cây thủy tùng châu Á: Chúng bị khai thác kiệt quệ vỏ và lá, bộ phận chứa một loại hóa chất dùng trong chữa bệnh ung thư.
WWF cho biết hổ, voi châu Á và một số ít loài khác đã kiên trì nằm trong danh sách "bị săn lùng nhất" trong hơn một thập kỷ qua. Các loài khác, như ramin và cá mập trắng lọt vào danh sách do nhu cầu về các sản phẩm của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới.
Thuận An (theo MSNBC)
|
|