|
Tin tức
Mar 20, 2004 7:13:38 GMT -5
Post by Robot on Mar 20, 2004 7:13:38 GMT -5
Trang web về những loài sinh vật có tên trong sách ðỏ thế giớiwww.arkive.org Nhóm chuyên gia sinh vật học ARKive thuộc Tổ chức từ thiện Wildscreen của Anh vừa khai trýõng website tại ðịa chỉ www.arkive.org với mục tiêu hệ thống hóa cõ sở dữ liệu khổng lồ về hàng ngàn loài sinh vật trên trái ðất ðang có nguy cõ tuyệt chủng mà nhóm này ðã bỏ rất nhiều thời gian nghiên cứu. Trýớc mắt, trang web của ARKive giới thiệu khoảng 11.000 loài ðộng thực vật hiện có tên trong sách ðỏ thế giới bằng cả âm thanh lẫn hình ảnh của chúng. Ðặc biệt, trong website có phần Planet ARKive giúp các em học sinh tự mình mở mang thêm kiến thức về thế giới sinh vật. (ST)
|
|
|
Tin tức
Mar 20, 2004 7:14:59 GMT -5
Post by Robot on Mar 20, 2004 7:14:59 GMT -5
Kiên Giang: chỉ còn 1/2 sếu đầu đỏ về Kiên Lương Sếu đầu đỏ về Kiên Giang hiện nay rất ít TT (Kiên Giang) - Những năm gần đây, nhất là từ năm 2001-2003, sếu đầu đỏ về đồng Kiên Lương (Kiên Giang) ngày càng đông, từ 200-300 con, có thời điểm lên đến 400 con. Thế nhưng hiện sếu đầu đỏ về rất ít, chỉ còn 100-150 con và chỉ ở được vài ngày rồi bay đi. Nguyên nhân theo các nhà khoa học, do cánh đồng cỏ năn (thức ăn của sếu) rộng lớn thuộc vùng Kiên Lương đã bị thu hẹp.Được biết, một dự án bảo vệ sếu đầu đỏ ở đồng Kiên Lương do Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TP.HCM) và Trường ĐH Cần Thơ phối hợp thực hiện đã bị phá sản, vì vùng đất này đã được tỉnh Kiên Giang qui hoạch nuôi trồng thủy sản. Hiện vùng đồng cỏ này đều đã có chủ và tốc độ chuyển đổi sang nuôi tôm diễn ra ồ ạt đã làm xáo trộn nghiêm trọng môi trường sống của sếu đầu đỏ. H.T.DŨNG- T.NHÃ
|
|
|
Tin tức
Mar 20, 2004 7:15:35 GMT -5
Post by Robot on Mar 20, 2004 7:15:35 GMT -5
Rùa biển ở Mariana đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng Rùa biển ở đảo bị người dân ở đảo Mariana bắt ăn thịt từ khi chúng còn rất nhỏ TTO - Những con rùa biển ở phía bắc đảo Mariana đang đối mặt với nguy cơ bị tuyệt chủng. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là người dân ở đây đã săn bắt chúng quá nhiều để chế biến các món ăn-mà trước đến nay mọi người vẫn coi nó như là một món đặc sản. "Số lượng rùa biển ở đây đang giảm một cách đáng kể, hiện tại còn chưa đến 200 con. Nhiều người dân ở đây rất thích ăn rùa biển. Đặc biệt người Chamorro và Carolinian còn cho rằng việc ăn rùa biển là một phần văn hóa của họ. Nhưng chúng ta cũng muốn nhấn mạnh với họ rằng những con rùa biển cần ít nhất 20 năm mới thực sự trưởng thành và mới có thể đẻ trứng. Nhưng những con rùa biển bị người dân ở bắt để ăn thịt thì còn quá nhỏ", Joe Ruak- nhân viên thuộc trung tâm nghiên cứu về cá và động vật hoang dã biển cho biết. Phía bắc của đảo Marianas (thuộc lãnh thổ Hoa Kỳ ) là một loạt gồm 17 hòn đảo khác có 45.000 người đang sinh sống. Và hầu hết mọi người dân ở đây đều thích ăn thịt rùa biển.
|
|
|
Tin tức
Mar 20, 2004 7:16:28 GMT -5
Post by Robot on Mar 20, 2004 7:16:28 GMT -5
Phát hiện chim khướu mun tại rừng Đăk Rông Khướu mun. Ngày 18/3, các nhà khoa học thuộc Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Thụy Điển, trong khi thám hiểm tại Khu bảo tồn thiên nhiên Đăk Rông - Quảng Trị, đã phát hiện tại đây một đàn khướu mun gồm 5 con, là loài chim quý có tên trong sách Đỏ thế giới. Khướu mun là loài chim đặc hữu của rừng Đông Dương, tên khoa học là Stachyris herberti, thường kiếm ăn ở các lèn đá hiểm trở trên núi đá vôi. Trên thế giới chúng lần đầu tiên được phát hiện tại Lào năm 1937, lần thứ hai tại Phong Nha - Kẻ Bàng (Việt Nam) năm 1996. Các nhà khoa học nhận định tình trạng sinh sống lưa thưa của khướu mun ở rừng miền trung Việt Nam cho thấy loài chim quý này đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. (Theo Lao Động) Đắk Nông: Chim phượng hoàng có nguy cơ bị tận diệt Trong các khu rừng, đặc biệt là rừng nguyên sinh trên địa bàn tỉnh hiện còn một số đàn chim phượng hoàng cư trú, rất cần được bảo vệ. Đây là loài chim quý hiếm, có bộ lông rất đẹp với nhiều màu rực rỡ, nặng từ 5 - 10 kg, chân cao, cánh dài từ 1,5-2m, mỏ to dài tới 50 cm... Chim phượng hoàng to lớn nhưng rất hiền, chỉ ăn trái cây rừng chín; trước đây rừng chưa bị khai thác kiệt thì số lượng chim rất nhiều, thậm chí còn đậu cả trên nóc nhà của người dân trong buôn làng. Hiện nay, do rừng ngày càng ít, đặc biệt là sự săn bắn bừa bãi chim phượng hoàng của người địa phương, ngoài việc lấy thịt bán cho các nhà hàng, thợ săn chủ yếu lấy mỏ và chân bán với giá từ 500.000-1.000.000 đồng/một bộ, nên số lượng loài chim này giảm rất nhanh. Những con chim sống sót chỉ có ở sâu trong rừng và đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Cần có ngay những biện pháp ngăn chặn tình trạng săn bắt bừa bãi để bảo vệ loài chim quý hiếm này. T.N (Theo Thanh Niên) Chuẩn bị công bố hai loài động vật mớiTT (Hà Nội) - Các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái & tài nguyên sinh vật đang chuẩn bị công bố với thế giới hai loài động vật mới được phát hiện tại VN là thằn lằn Ôrô Natalia (A cauthosauva nataliae) và nhái gai mắt (Philautus super cornatus). Các nhà khoa học của viện đã thu được mẫu thằn lằn lạ tại Lâm Đồng và mẫu nhái lạ tại Thừa Thiên - Huế và Kontum. Kết quả phân tích hình thái hai loài động vật này cho thấy chúng không giống với những loài thằn lằn, nhái hiện có ở VN cũng như trên thế giới và chưa từng được mô tả trong các sách về động vật. Theo đó, thằn lằn Ôrô Natalia có gai ở lưng, gai ở mắt và có số vảy trên cơ thể không giống với những loài thằn lằn khác; còn nhái gai mắt có một hàng gai ở trên mí mắt, một đặc điểm hoàn toàn không có ở những loài nhái khác. K.HƯNG
|
|
|
Tin tức
Apr 8, 2004 10:39:49 GMT -5
Post by Robot on Apr 8, 2004 10:39:49 GMT -5
Đồi mồi Việt Nam, Indonesia: Trước nguy cơ tuyệt chủng... (VietNamNet) - Mạng lưới giám sát hoạt động buôn bán động thực vật hoang dã TRAFFIC đã cảnh báo đồi mồi ở Indonesia và Việt Nam đang bị đe doạ tuyệt chủng nghiêm trọng nếu không có những nỗ lực quản lý hiệu quả và tăng cường thực thi pháp luật bảo vệ loài này. Tương lai của đồi mồi trong khu vực sẽ không được đảm bảo nếu tình trạng buôn bán trái phép các sản phẩm làm từ mai của chúng vẫn tiếp diễn. Đồi mồi giữa đại dương. Trong hai năm 2001 và 2002, các nhà điều tra thuộc TRAFFIC đã khảo sát nhiều địa điểm ở Indonesia và Việt Nam. Đó là những nơi đã từng xuất khẩu các sản phẩm làm từ mai đồi mồi sang Nhật Bản - thị trường nhập khẩu chính. Kết quả cho thấy: hoạt động buôn bán ngầm đang diễn ra ở Indonesia và công khai ở Việt Nam. Có khoảng 3.000 sản phẩm loại này đang được buôn bán vào thời điểm TRAFFIC tiến hành điều tra vào giữa năm 2002 ở nước ta. Quy mô này cho thấy các nhà buôn vẫn phớt lờ luật mới ngăn cấm khai thác và buôn bán rùa biển cùng các sản phẩm từ rùa biển. Hà Tiên, TP.HCM và Vũng Tàu nằm trong số các điểm nóng buôn bán rùa biển công khai. Hoạt động buôn bán các sản phẩm đồi mồi ở Indonesia có xu hướng giảm song điều quan trọng là các nhà chức trách cần thu giữ những kho hàng bất hợp pháp để ngăn chặn hoạt động xuất khẩu. Tình hình cấp bách hiện nay là Việt Nam và Indonesia cần tăng cường quản lý và thực thi pháp luật để ngăn chặn hoạt đông buôn bán bất hợp pháp trên. TRAFFIC mong đợi Indonesia sẽ trở thành một thành viên của Diễn đàn Bảo tồn Rùa biển khu vực (IOSEA) và trở thành nước ký Bản Ghi nhớ nhằm bảo vệ, khôi phục các quần thể rùa biển và môi trường sống của chúng trong và ngoài khu vực Đông Nam Á. Trong khi đó, Việt Nam đã là thành viên của IOSEA từ năm 2001. Một người đang làm các đồ lưu niệm từ mai đồi mồi tại miền Nam Việt Nam. Khuyến cáo trên được đưa ra một ngày trước khi Hội nghị các nước thành viên IOSEA khai mạc vào hôm nay 16/3 tại Bangkok (Thái Lan). Hội nghị sẽ nghe báo cáo về những tiến bộ mà các thành viên đã đạt được trong việc phát triển và thực hiện các kế hoạch quốc gia bảo tồn và quản lý rùa biển. Những kế hoạch này bao gồm ban hành luật pháp kiểm soát hoạt động buôn bán và khai thác trực tiếp rùa biển ở mỗi nước. Kế hoạch cũng nhằm quản lý, hợp tác, chia sẻ thông tin về vấn đề buôn bán cũng như chống buôn bán trái phép các sản phẩm rùa biển. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên tự nhiên Quốc tế đã xếp đồi mồi là loài bị đe doạ nghiêm trọng. Chúng sinh sống quanh các vùng đá ngầm nhiệt đới ở Đại Tây dưong, Thái Bình dương và Ấn Độ dương. Đồi mồi nổi tiếng về mai đẹp. Mặc dù màu mai thay đổi theo địa lý song chủ yếu vẫn là sắc tố nâu với các đốm và vệt sáng, tối. Mặt bên dưới có màu vàng nhạt hoặc trắng. Điều này giúp rùa nguỵ trang chống lại những kẻ săn mồi tiềm năng song cũng là bất lợi thế vì con người rất thích màu mai của chúng. Đồi mồi là loài rùa biển có kích cỡ trung bình, nặng chừng 120kg và mai dài khoảng 90cm. Đồi mồi con nặng chưa tới 14g với chiều dài mai là 1,5 -3cm. Vòng tay đồi mồi được bày bán ở TP.HCM. Đồi mồi là loài ăn tạp, thức ăn chủ yếu là hải miên ở nền cứng của các dải đá ngầm san hô. Thật không may là nhiều khi chúng nhầm lẫn và ăn cả các mẩu chất dẻo. Chiếc mỏ hẹp và nhọn là công cụ tuyệt với giúp đồi mồi len lỏi vào kẽ san hô. Có thể phân biệt con đực với con cái bằng chiếc đuôi dài và dày hơn. Hoạt động giao phối thường diễn ra ở bề mặt của các vùng nước nông gần bãi đẻ trứng. Tuổi thọ của đồi mồi ít nhất là 32 năm. Đồi mồi cái có thể để tới sáu ổ trứng trong một mùa sinh sản, mỗi ổ cách nhau 15-21 ngày. Mỗi ổ chứa một vài tới hàng trăm trứng. Rùa con chui ra khỏi vỏ sau 50-70 ngày. Minh Sơn
|
|
|
Tin tức
Apr 8, 2004 10:47:44 GMT -5
Post by Robot on Apr 8, 2004 10:47:44 GMT -5
Sao la vẫn bí hiểm! (VietNamNet) - Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) chỉ là một trong khoảng 4.500 loài thú hiện đang sinh sống trên Trái đất này. Vậy tại sao sao la lại được các nhà động vật học xem là một loài đặc biệt, trong khi những thợ săn Việt hay Lào vẫn có thể thẳng tay sát hại nếu tình cờ bắt gặp chúng giữa rừng núi Trường Sơn? Sao la: loài mới, chỉ có một đại diện Năm 1992, trong một cuộc khảo sát do Quỹ Thế giới Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) tài trợ, khi đi sâu vào những khu rừng của dãy Trường Sơn, nhà động vật học Đỗ Tước đã phát hiện một cặp sừng dài và nhọn trong một ngôi nhà gần Khu Bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang. Với cái nhìn của một chuyên gia, ông đã nhận ra ngay cặp sừng này không phải của một loài động vật nào mà khoa học đã từng biết tới. Người dân địa phương cho biết đó là "sừng của con sao la, một loài thú hiếm và nhút nhát, thường chỉ gặp ở những vùng rừng sâu nhất". Sau này, mọi người nhận thấy sao la cũng có thể được tìm thấy ở những nơi khác, nhưng tất cả đều nằm trong phạm vi khu vực rừng Trường Sơn. Cuối cùng, các nhà khoa học đã nhìn thấy loài thú này trong tự nhiên. Đến năm 1993, những mô tả khoa học đầu tiên về loài sao la đã được xuất bản. Loài thú lớn mới được phát hiện này được mang tên khoa học là Pseudoryx nghetinhensis bởi có hình dáng giống như loài linh dương (oryx) và có liên quan đến hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nơi các nhà khoa học lần đầu tiên đã phát hiện ra loài này. Thế giới đã vô cùng kinh ngạc khi biết tin sao la, loài thú lớn đầu tiên được phát hiện và mô tả sau một thời gian dài như vậy mà khoa học không hề biết cho đến tận cuối thế kỷ XX! Điều làm cho sự phát hiện ra loài sao la trở nên đáng chú ý chính là những nét đặc biệt của loài thú này. Hầu hết các loài mới phát hiện thường chỉ là những biến thể của một loài đã được biết đến. Trong khi đó, sao la không những chỉ là một loài mới, mà còn là một “loài chỉ có một đại diện” – đó là một đại diện duy nhất được biết đến của một nhánh cao hơn trong bậc phân loại. Các phân tích ban đầu về gien cho thấy sao la là một phụ loài của họ bò (bao gồm bò, trâu và dê). Sao la không thể sống trong cảnh bị nhốt giữ! Tuy vậy, do đến nay vẫn chưa có những phân tích sâu hơn nên có thể vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất ngờ nữa về loài sao la. Sao la được phân biệt bởi một cặp sừng dài thẳng vuốt, trông như... con suốt của một cái guồng xe sợi (mà một số người nói rằng đó chính là nguồn gốc của tên gọi loài sao la). Ngoài cặp sừng độc đáo này, trên mặt của sao la còn có những đốm trắng rất dễ nhận thấy. Một đặc điểm khác biệt nữa của loài sao la là hai tuyến xạ lớn nằm gần hai mắt, được che bởi một lớp cơ dầy và sao la chỉ nâng lên khi nó cần phóng chất xạ đó ra ngoài. Mặc dù sao la là một loài thú lớn có thể cân nặng tới 100kg và cao tới 90cm, nhưng vẫn rất ít khi trông thấy nó. Loài thú này được chụp ảnh trong tự nhiên lần đầu tiên vào tháng 10/1998, bằng máy bẫy ảnh của Dự án Lâm nghiệp Xã hội và Bảo tồn Thiên nhiên (viết tắt là SFNC) do Uỷ ban châu Âu tài trợ tại Vườn Quốc gia Pù Mát (Nghệ An). Kể từ đó, chỉ có vài cá thể sao la được quay phim. 16 con sao la bị người dân bắt giữ từ năm 1994 đều đã chết sau vài tuần, dẫn tới một nhận định: sao la không thể sống trong điều kiện bị nhốt giữ. Các cán bộ bảo tồn chuyên nghiệp chỉ nhìn thấy sao la trong môi trường tự nhiên duy nhất một lần. Tuy nhiên, người ta vẫn biết loài sao la sinh sống trên địa bàn sáu tỉnh ở Việt Nam và ba tỉnh ở Lào. Thực tế, loài sao la có thể có nguồn gốc ở những vùng rừng ẩm nhiệt đới đất thấp, nhưng do tình trạng phá rừng nghiêm trọng ở các vùng rừng đai thấp và do các áp lực từ việc săn bắn bừa bãi đã khiến cho loài vật này hiện nay chỉ còn tồn tại ở các vùng rừng trên núi cao dọc biên giới Việt Nam – Lào.
|
|
|
Tin tức
Apr 8, 2004 10:48:12 GMT -5
Post by Robot on Apr 8, 2004 10:48:12 GMT -5
Điều kỳ diệu của dãy Trường Sơn SFNC - Dự án Lâm nghiệp Xã hội và Bảo tồn Thiên nhiên tỉnh Nghệ An Sao la, biểu tượng của Vườn Quốc gia Pù Mát (thị xã Con Cuông, tỉnh Nghệ An) Dự án SFNC được Chính phủ Việt Nam và Uỷ ban châu Âu hỗ trợ, nhằm giảm sự tàn phá và suy thoái của tài nguyên rừng ở Vườn Quốc gia Pù Mát, tỉnh Nghệ An, và ở các vùng đệm.
Vườn Quốc gia Pù Mát là một phần của dãy núi Bắc Trường Sơn, bao gồm một khu vực rừng nhiệt đới thường xanh tự nhiên rộng lớn nhất còn lại ở Việt Nam. Các khảo sát đa dạng sinh học đã ghi chép được hệ thú đa dạng nhất trong số các khu bảo tồn của Việt Nam, gồm sáu loài thú lớn đặc hữu của vùng Đông Dương, (bốn loài trong số đó là đặc hữu của dãy Trường Sơn). Trong số những động vật quan trọng nhất này có sao la, được chọn làm biểu tượng của Vườn Quốc gia Pù Mát. Sao la không phải là loài thú kỳ diệu đầu tiên được tìm thấy ở dãy Trường Sơn. Điều gây chấn động trong giới nghiên cứu động vật quốc tế và những người có quan tâm: Trong tám loài thú lớn của Trái đất mới được tìm thấy từ đầu thế kỷ XX tới nay, riêng tại Việt Nam đã có ba loài là sao la (Pseudoryx nghetinhensis), mang lớn (Megamuntiacus vuquanggensis), và mang Trường Sơn (Muntiacus truongsonensis). Bên cạnh đó, có nhiều loài đặc biệt khác đặc hữu của khu vực này như voọc ngũ sắc (Pygathrix nemaeus) - một trong những loài linh trưởng đẹp nhất trên thế giới, và trĩ sao (Rheinardia ocellata) - loài có những chiếc lông đuôi dài nhất trong tất cả các loài chim trên thế giới. Trong khi các nhà khoa học vẫn đang tập hợp những kiến thức còn hạn chế của mình về sinh thái học của dãy Trường Sơn thì một số mô hình khác đã bắt đầu xuất hiện. Tính đa dạng sinh học đặc biệt của khu vực này là kết quả của những điều kiện khí hậu địa phương được tạo nên bởi những dãy núi kéo dài từ dãy Hy Mã Lạp Sơn (Hymalayas) về phía Nam. Do chặn lại những đợt gió mùa từ phía Đông và lưu lại lượng mưa tương đối lớn tích tụ từ biển Đông, nên dãy Trường Sơn đã tạo ra một kiểu khí hậu địa phương thuận lợi cho sự tiến hoá của những loài độc đáo. Trước những thay đổi đáng kể về nhiệt độ và lượng mưa trong nhiều thiên niên kỷ qua, địa hình đã biến đổi giữa các khu rừng mưa ẩm nhiệt đới thường xanh với những vùng rừng khô và thoáng hơn. Tuy vậy, do điều kiện ẩm ướt kéo dài trong suốt thời kỳ băng hà đã giúp cho những khu rừng mưa của dãy Trường Sơn được giữ nguyên vẹn, và các loài động thực vật nơi đây có thêm hàng nghìn năm được ẩn náu và tiến hoá. Loài sao la thật sự là một đại diện hoàn hảo của một khu vực tuy không lớn nhưng rất đặc biệt này. Tuy nhiên, do những áp lực của con người làm cho các vùng rừng ngày càng thu hẹp lại, nên quần thể sao la ngày một hiếm hơn. Bản đồ ước đoán vùng sinh sống của sao la tại 6 tỉnh ở Việt Nam và 3 tỉnh ở Lào, nằm hai bên khu vực Bắc Trường Sơn. Dự đoán quần thể sao la còn lại khoảng 70-1.000 con. Tuy nhiên, những con số dự đoán này không phải do nghiên cứu đầy đủ đưa ra, mà phần lớn là do người dân địa phương nêu lên, dựa trên những câu chuyện kể lại của những người thợ săn. Điều rõ ràng là loài sao la rất hiếm trong toàn bộ khu vực này. Điều may mắn là sao la không được coi là có giá trị cao về dược phẩm cũng như thực phẩm, và nó cũng không phải là mục tiêu chính của các thợ săn, như tê giác hay bò tót. Tuy vậy, sao la vẫn vô ý bị bắt do vướng vào bẫy của một số loài khác như lợn rừng và hươu, và nó cũng sẽ vẫn bị bắn nếu bị các thợ săn phát hiện. Các vật phẩm của sao la thu hút đôi chút hiếu kỳ nơi những người dân thành thị ở Việt Nam, thường được bán với giá khoảng 25-65 USD, tuỳ theo kích cỡ của vật phẩm đó. Bởi vì sao la rất hiếm, nên chỉ một cá thể sao la mất đi là đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến số lượng quần thể sao la trên toàn cầu. Hơn nữa, loài thú này còn bị đe doạ bởi sự phá huỷ sinh cảnh của nó, khi các khu rừng quý giá đang bị chặt phá để con người làm nơi sinh sống và làm nông nghiệp. Do số lượng còn rất ít và đặc tính khác biệt của loài sao la, cũng như do mức độ bị đe doạ cao, sao la đã trở thành một trong những ưu tiên cao nhất cho bảo tồn ở khu vực Đông Nam Á. Được xếp hạng ở mức Bị đe doạ tuyệt chủng (E) trong Danh sách Đỏ của Liên minh Bảo tồn Thế giới (IUCN), chỉ hơn một thập kỷ kể từ khi được phát hiện, sao la đang đứng bên bờ tuyệt chủng! Liệu có thể xem việc tuyệt diệt loài sao la trên núi rừng Trường Sơn cũng là một trong các... nỗi quốc nhục, để có những biện pháp thích đáng từ cấp quốc gia? Nguyễn Thị Đào
|
|
|
Tin tức
Apr 9, 2004 10:11:23 GMT -5
Post by Robot on Apr 9, 2004 10:11:23 GMT -5
300 loài quý hiếm "không chốn nương thân" Hơn 300 loài động vật trên Trái đất đang sống trong cảnh bị đe doạ tuyệt chủng ở mức nghiêm trọng. Đối mặt với hiểm nguy ngay trong vùng sinh tồn của mình, chúng đang ngày đêm rất cần đến sự bảo vệ của con người. Rùa cổ rắn, một đối tượng săn bắt của bọn buôn lậu thú hoang. Mặc dù số lượng khu bảo vệ trên toàn cầu đang ngày càng tăng lên, nhiều hệ sinh thái vẫn chưa được bảo vệ kỹ lưỡng để trở thành nơi ẩn náu an toàn của động vật hoang dã. Nguyên nhân chủ yếu là do mạng lưới khu bảo tồn chưa vươn rộng ra khắp thế giới để che chở cho các khu đa dạng sinh học hiện có trên Trái đất. Hiện nay, mới chỉ có 11.5% bề mặt Trái đất được bảo vệ, cao hơn 1,5% so với mục tiêu đặt ra tại Đại hội Caracas tổ chức năm 1992. Mặc dù mục tiêu bảo vệ thiên nhiên hoang dã đã được đưa vào các chương trình bảo tồn quy mô quốc gia cũng như quốc tế, các nhà nghiên cứu vẫn cho rằng cần phải có một cách tiếp cận mới, bao trùm được nhiều mô hình đa dạng sinh học. TS Ana Rodrigues, nhà khoa học thuộc Trung tâm Khoa học Đa dạng Sinh học Ứng dụng (CABS) tại Washington - Mỹ, đã cùng với các cộng sự quốc tế sử dụng kỹ thuật mới có tên "phân tích lỗ hổng" nhằm đánh giá mạng lưới bảo vệ hiện tại, từ đó tìm ra những lỗ hổng trên mạng lưới này. Nhóm nghiên cứu tiến hành so sánh bản đồ của trên 100.000 khu bảo vệ với bản đồ của 11.633 loài sinh vật thuộc bốn nhóm loài trên khắp thế giới. Họ nhận thấy: Mối quan hệ giữa các khu bảo vệ và mô hình đa dạng sinh học không hề giống nhau. TS Rodrigues cho biết: "Mỗi quốc gia cần một mức bảo vệ khác nhau. Nước nào có nhiều nguồn lực kinh tế còn có thể gánh chịu được chi phí bảo vệ; còn hầu hết các nước nghèo đều có lỗ hổng. Khái niệm nghèo ở đây là xét trên khía cạnh kinh tế - quốc gia nghèo, song đa dạng sinh học lại cao. Các nước có mật độ lỗ hổng sinh vật cao là Trung Quốc, Ấn Độ, Sri Lanka và Madagascar. Đa dạng sinh học mà các quốc gia này nắm giữ không phải là tài sản quốc gia mà là tài sản của toàn cầu. Vì thế, tất cả mọi quốc gia đều phải có trách nhiệm hỗ trợ bảo vệ đa dạng sinh học tại các nước nghèo". Ếch Harlequin mantella cũng thiếu những bàn tay bảo vệ. Trên quy mô tổng thể, 20% động vật bị đe doạ được xếp vào hạng "loài hổng" - không hề được bảo vệ. Nếu xét riêng từng loài, 14% động vật có vú, 19,8% chim, 10,1% rùa và 26,6% lưỡng cư thiếu vắng một "mái nhà" bảo vệ. Ngay cả trong các khu vực được bảo vệ, vẫn có tình trạng "con nuôi, con đẻ" - 37% loài chim bị đe dọa vẫn "nằm ngoài vùng phủ sóng". Chính vì vậy, điều quan trọng là chúng ta phải tạo thêm nhiều khu vực bảo vệ nữa cho các loài đặc hữu yên tâm phát triển. Khánh Hà (Theo BBC)
|
|
|
Tin tức
May 5, 2004 14:57:11 GMT -5
Post by Robot on May 5, 2004 14:57:11 GMT -5
300.000 hải cẩu sẽ bị giết tại Canada Chính phủ Canada vừa bật đèn xanh cho phép ngư dân giết hơn 300.000 con hải cẩu trong năm 2004, bắt đầu từ hôm nay 12/4. Đây là chiến dịch săn hải cầu lớn nhất trong vòng 50 năm qua tại nước này. Cảnh đánh bắt hải cẩu. Hoạt động săn bắt hải cẩu con để lấy lông gần như đã chấm dứt cách đây 25 năm ở ngoài khơi bờ biển phía Đông Canada, do vấp phải sự phản đối quốc tế. Cả thế giới kinh sợ khi được xem những thước phim ghi hình những người đàn ông dùng gậy đập chết hải cẩu con trong các chuyến đánh bắt ở Newfoundland và Labrador. Mỹ đã cấm nhập các sản phẩm hải cẩu vào năm 1972. Một thập kỷ sau, Liên minh châu Âu cũng áp dụng biện pháp tương tự với lệnh cấm nhập khẩu lông hải cẩu trắng. Kết quả là chính phủ Canada buộc phải giảm hạn ngạch săn bắt hải cẩu xuống còn 15.000 con mỗi năm, chủ yếu để lấy thịt và phục vụ ngành thủ công trong nước. Tuy nhiên, khi lông hải cẩu được mọi người ưa chuộng hơn, chính phủ Canada đã tăng hạn ngạch, cho phép giết một triệu con trong vòng ba năm tới. Hoạt động đánh bắt hải cẩu hiện đang được tiến hành theo những quy định chặt chẽ hơn. Phần lớn chúng bị bắt chứ không bị nện bằng gậy như trước kia. Tuy nhiên, số lượng hải cẩu bị săn bắn trong năm nay sẽ là cao nhất trong vòng nhiều thập kỷ qua và một lần nữa lại thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. Cuối tuần trước, Bộ trưởng Tài nguyên thiên nhiên Canada John Efford biện hộ rằng số lượng hải cẩu đang bùng nổ và chúng là nguyên nhân làm giảm sản lượng cá đánh bắt trong vùng. Nằm chờ số phận mỉm cười? Tội hải cẩu! Các quan chức Canada ước tính có 5,2 triệu con hải cẩu ở Bắc Đại Tây dương và với số lượng này, chúng còn lâu mới bị đe doạ tuyệt chủng (?). Tuy nhiên, các nhóm bảo vệ động vật buộc tội các quan chức đang lấy hải cẩu làm "kẻ giơ đầu chịu báng" cho khả năng quản lý nguồn cá tồi của họ. Hiện Canada chỉ cấm đánh bắt hải cẩu lông trắng dưới 12 ngày tuổi. Quỹ Sức khoẻ Động vật quốc tế (IFAW) cũng cho biết chính phủ Canada đang bỏ qua những quy định về phương pháp săn bắt nhân đạo. Rebecca Aldworth thuộc IFAW cho biết: ''Chúng tôi đã ghi hình và chứng kiến tận mắt cảnh hải cẩu bị lột da trong khi còn sống. Chúng tôi nhìn thấy hải cẩu sống bị kéo lê khắp mặt băng bằng những chiếc móc. Chúng tôi thấy hàng đống hải cẩu chết và đang chết. Cảnh tượng đó thực sự khủng khiếp!". Hiệp hội Nhân đạo tại Mỹ đang kêu gọi mọi người tẩy chay du lịch tại Canada. Minh Sơn (Theo BBC)
|
|
|
Tin tức
May 5, 2004 15:04:14 GMT -5
Post by Robot on May 5, 2004 15:04:14 GMT -5
Koala Úc may hơn... hải cẩu Canada (VietNamNet) - Nước Úc chia đôi: Một bên kêu gọi diệt 20.000 gấu túi koala để "bảo vệ môi trường sinh thái cho các loài khác". Bên kia lại phản đối, vì koala vừa là một biểu tượng sống của Úc, vừa thuộc về Trái đất chứ không chỉ thuộc về Úc. Bắn hạ koala một cách chuyên nghiệp!Gần đây, một số nhà sinh thái học Úc đã đề nghị diệt 20.000 gấu túi koala trên đảo Kangaroo ở ngoài khơi bang Nam Úc. Từng được xem là "thiên đường của koala", hiện nay đảo này đang đối diện với một cuộc khủng hoảng sinh thái do koala sinh sản nhiều tới mức gây ảnh hưởng đến các loài khác trên đảo. Theo một số nhà khoa học, vấn đề này đã được... dự đoán từ nhiều năm trước đây. Koala, một biểu tượng sống của Úc. Vào thập niên 1920, gấu túi koala gần như tuyệt chủng vì nạn săn bắn để kinh doanh bộ lông dầy của chúng. Ít nhất có khoảng ba triệu bộ lông koala được bán ra thị trường trong và ngoài nước. Để bảo vệ koala - một trong các biểu tượng của nước Úc, chính quyền đã cho mang khoảng 20 con koala ra đảo Kangaroo để tiện bảo vệ chúng. Sau gần một thế kỷ, tới giữa thập niên 1990, một nhóm công tác đặc biệt của chính phủ đã khuyên phải diệt bớt vài trăm con koala trên đảo này, sau khi đã chứng kiến cảnh tượng đau buồn về hàng loạt koala chết đói trên một đảo khác - đảo Victoria. Thế nhưng đề nghị diệt bớt koala hồi ấy đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của công chúng. Lý lẽ căn bản vẫn là: Việc giết koala có thể làm cho ngành du lịch bị thiệt hại nặng nề, vì du khách đến đảo chỉ là để quan sát koala trong thiên nhiên và được chụp ảnh cùng những con gấu túi dễ thương này. Ngày nay, đảo Kangaroo có trên 30.000 koala tàn phá các rừng cây khuynh diệp, với mức trung bình một con koala có thể xơi 1.000 lá khuynh diệp mỗi ngày. Đây quả là "thiên đường" của koala, do không có các thú săn mồi để diệt bớt và qua đó giúp cân bằng dân số koala nên bọn gấu túi này tha hồ phát triển. Thế nhưng do trời sinh koala mà không sinh kịp... lá khuynh diệp, chúng liền chuyển sang xơi thử các loại lá khác, thậm chí ăn cả lá thông nhọn. Kỹ thuật tàn phá tiêu biểu của koala là ăn bất cứ thứ gì tìm được, kéo ngã xuống, tước và ăn lá, xong kéo đến nơi khác với cường độ tàn phá ngày càng mãnh liệt hơn, làm chết từ cành này sang cành khác và chết cả từng cây một... Vì vậy, nhà sinh học David Paton, thuộc ĐH Adelaide, cho rằng diễn biến sinh thái trên đảo Kangaroo đã nghiêm trọng tới mức cần diệt 2/3 số koala trên đảo! "Kết luận của các nhà nghiên cứu hồi những năm 1995-1996 cũng giống như hiện nay, nghĩa là cần phải làm giảm đáng kể số koala để môi trường sinh thái có thể̀ hồi phục." - ông Paton nói. Không chỉ có vậy, ông còn đề nghị phải áp dụng cả biện pháp hạn chế sinh đẻ và các chương trình khác để quân bình số koala, sao cho dân số loài gấu túi này không tạo nên sức ép đối với môi trường sinh thái. Lập luận của ông: Dự báo trong mười năm tới, dân số koala trên "thiên đường" này sẽ tăng gấp đôi, tức 60.000 con. Vì vậy, cần diệt bớt 2/3, chỉ chừa lại 1/3 dân số hiện nay. Koala bé con này chắc chắn làm si mê nhiều du khách nước ngoài khi đặt chân lên đất Úc. Trong khi đó, luật hiện hành của bang Nam Úc vẫn còn quy định phạt 1.000 đô-la nếu bắn hạ một con koala. Mặc dù vậy, ông David Paton vẫn khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình: "Chính quyền cần có một quyết định sớm và triệt để, nếu không thì hệ sinh thái tuyệt vời trên đảo Kangaroo sẽ phải trả một giá đắt, và do đó sẽ tạo nên những vấn đề lớn đối với các loài sinh vật khác trên đảo. Các loài ấy cũng có quyền, thậm chí còn lớn hơn quyền của loài koala, được tồn tại trên đảo này. Sẽ là... đạo đức giả nếu chính quyền không chấp nhận loại bớt koala tại đây. Bởi vì trước kia, chính họ đã cho phép tiến hành một chiến dịch diệt bớt loài kangaroo nhỏ tammar wallaby vốn là thú bản địa của đảo này, trong khi koala lại chẳng phải là loài bản địa của đảo Kangaroo"! Đề nghị này được một số công ty du lịch ủng hộ, với lập luận nếu để koala cứ sinh sôi nẩy nở thì thế nào môi trường sinh thái trên đảo Kangaroo cũng bị hủy hoại, và khi ấy sẽ chẳng du khách nào muốn đặt chân lên đảo. "Nếu nghiêm túc trong chuyện phát triển du lịch bền vững và bảo vệ môi trường, chúng ta cần phải có một hành động nào đó." - Craig Wickham, chủ một tua du lịch sinh thái, nói. Mới đây, trả lời phỏng vấn của Hãng tin Reuters hôm 30/4/2004, bà Sandra Kanck - thuộc Đảng Những người Úc dân chủ, đảng chính trị lớn thứ ba ở Australia, cũng đưa ra lời kêu gọi cần bắn hạ 20.000 koala trên đảo Kangaroo. Bà Kanck nói: "Chúng ta cần vượt qua cảm xúc để trở nên thực tế hơn. Nạn đói đang xảy ra với hàng ngàn con koala. Du khách sẽ nghĩ gì về một sinh cảnh với những thân cây trần trụi và những con koala đói đến tuyệt vọng, đi lang thang trong một phong cảnh bị tàn phá? Có thể koala là đáng yêu và đáng được vuốt ve, ôm ấp song tôi đề nghị nên trao cho những thợ săn chuyên nghiệp làm "việc ấy" một cách nhanh chóng và sạch sẽ"!
|
|
|
Tin tức
May 5, 2004 15:05:46 GMT -5
Post by Robot on May 5, 2004 15:05:46 GMT -5
"Koala là quan trọng cho nước Úc"Trên đây chỉ là những lời kêu gọi, lời đề nghị "giải quyết" bớt 20.000 koala trên đảo Kangaroo. Trong suốt thời gian ấy, qua theo dõi tin tức từ các nguồn trên mạng Internet, tôi vẫn chỉ gặp những thông tin cho biết chính quyền bang Nam Úc vẫn lưỡng lự, chưa duyệt kế hoạch do các nhà khoa học đề nghị. Bởi họ lo ngại việc diệt hàng loạt 20.000 con koala sẽ bị dư luận trong và ngoài nước lên án. Từ đó, hậu quả có thể là hàng ngàn lao động trong ngành du lịch sẽ bị mất việc vì du khách tẩy chay, không đến địa phương này nữa. Vì vậy, hôm 3/5, tôi thật sự ngạc nhiên trước cái tin do một tờ báo điện tử ở Việt Nam đăng tải, cho biết "Úc khôi phục việc săn bắn gấu túi số lượng lớn" (!). Lời mở đầu tin này cho biết: "Chính phủ Úc vừa cho phép giết 20.000 chú koala...". Có thật vậy không? Kiểm chứng lại, hóa ra đây chẳng qua chỉ là một tin dịch sơ sài (và có nhiều lỗi về kiến thức lẫn vốn ngoại ngữ ) từ bản tin Reuters hôm 30/4 mà tôi vừa trích dẫn ở trên! Và sự thật, qua cái tin dịch ẩu của báo ấy, đã bị biến đổi theo hướng hoàn toàn ngược lại: Lời kêu gọi của bà Kanck bị "phiên dịch" thành... "Chính phủ Úc vừa cho phép"! Trong khi đó, trong bản tin nguyên văn của Reuters, tiếp theo đoạn dẫn lời kêu gọi và biện bạch của bà Kanck là một câu quan trọng hàng đầu trong tin ấy, phản ánh sự quyết định mới nhất của chính quyền địa phương - song đã bị bản dịch "dỏm" bỏ qua: "Nhà cầm quyền bang Nam Úc đã bác bỏ các lời kêu gọi về việc thải loại (koala), và đang nghiêng theo hướng triệt sản, tái định cư (koala)". Chính phủ Canada vừa bật đèn xanh cho phép ngư dân giết hơn 300.000 hải cẩu trong năm 2004, bắt đầu từ hôm 12/4/2004. May mà anh bạn đồng nghiệp phụ trách tờ báo điện tử ấy đã kiểm tra lại và cho... bóc bỏ cái tin (dựng đứng) này vào đầu buổi chiều nay 4/5. Dù sao, phải nói là koala Úc may hơn hải cẩu Canada! "Sẽ không có việc thải loại bớt koala!" - ông Iain Evans, Bộ trưởng Môi trường bang Nam Úc khẳng định như vậy khi trả lời phỏng vấn của Hãng CNN. "Một trong các sự lựa chọn đang được cân nhắc là tăng cường chương trình triệt sản koala, tìm kiếm các phương pháp mới để làm các gấu túi cái không thể thụ thai, cũng như "tái định cư" chúng trong đất liền. Dự kiến chương trình này sẽ tiêu tốn khoảng 1,2 triệu đô-la Úc để triệt sản cho 3.400 koala và đưa 1.100 trong số đó trở về đất liền. Vì vậy, cần vận động gây quỹ thêm nhiều triệu đô-la trong các năm tới để xúc tiến chương trình này." - ông Evans nói. "Koala mang lại 2,5 triệu USD cho ngành du lịch Úc. Ai cũng yêu thích koala, và chúng là của toàn cầu." - bà Deborah Tabart, người điều hành Tổ chức Koala châu Úc (AKF), nói -"Hãy bắt đầu với việc chứng tỏ sự kính trọng dành cho koala và nói rằng koala là quan trọng cho nước Úc. Tôi không nói rằng mình có giải pháp, và tôi cũng không tin ai đó đã tìm ra giải pháp, song tôi nghĩ chúng ta cần cùng nhau động não để bàn bạc với nhau, chứ đâu thể lạnh lùng tiến hành chuyện (giết bớt hàng vạn koala) mà có người đã đề nghị". Bốn bang này ở phía Đông nước Úc còn tập trung nhiều koala trong môi trường tự nhiên. Hiện có gần 100.000 koala trên nước Úc, tập trung nhiều trong vùng hoang dã ở các bang Queensland, New South Wales, Victoria, và bang Nam Úc. Mỗi bang này đều có những luật lệ riêng về koala. Thí dụ, bang New South Wales đã thừa nhận sự tàn phá sinh cảnh của koala vẫn tiếp diễn trên địa bàn của mình nên công bố chính sách quy hoạch môi trường, trong đó có nội dung bảo vệ vùng sinh sống của koala. Nhiều năm qua, chính sách định cư của Úc đã hủy hoại xấp xỉ 80% sinh cảnh của koala để lấy đất xây trang trại, thị trấn và thành phố,... Nhiều vùng sinh sống khác của koala gặp phải nạn hạn hán, nạn cháy rừng và cả nạn sâu bọ phá hại cây cối,... Thậm chí hầu hết diện tích trong 20% sinh cảnh còn lại của chúng cũng chưa được đưa vào vùng bảo vệ mà vẫn thuộc sở hữu đất đai của tư nhân. Đặc biệt, trong mười năm gần đây, việc hoạch định phát triển trên diện tích một triệu héc-ta ở bờ biển phía Đông (nơi tập trung bốn bang có nhiều koala sinh sống nhất trong tự nhiên) đã càng khiến cho sinh cảnh cùng dân số loài gấu túi này suy giảm nghiêm trọng. Hiện nay, dân số koala bị chia cắt thành từng nhóm nhỏ cô lập trong các vùng rừng nhỏ còn sót lại. Chưa hết, vì hàng năm tại Úc vẫn có khoảng 4.000 koala bị chết vì... xe cán và chó cắn. Cũng vì vậy, AKF thậm chí cón đưa ra các hướng dẫn rất chi tiết để người dân Úc giữ cho lũ chó của mình không bị... "stress" để trở nên hung dữ, và do đó càng trở nên nguy hiểm với những con gấu túi lạc loài lỡ chui vào sân vườn, bãi rào của họ. "Sự thật là nước Úc hiện không còn nhiều koala do cây rừng đã bị tàn phá quá nhiều - hậu quả của việc quản lý tồi đất đai trong hơn 200 năm qua. Vì vậy, chính phủ cần có trách nhiệm trong việc bảo vệ loài koala và sinh cảnh của chúng bằng sự tăng cường các luật bảo vệ cụ thể." - AKF kêu gọi. Hiệp hội Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (IUCN) đã xếp koala vào danh sách các loài động vật "có tiềm năng bị tổn thương". Linh Chi
|
|
|
Tin tức
May 5, 2004 15:13:32 GMT -5
Post by Robot on May 5, 2004 15:13:32 GMT -5
Kền kền rơi hàng loạt vì... thuốc thú y Hiện tượng kền kền chết hàng loạt trên toàn tiểu lục địa Ấn Độ có liên quan với việc sử dụng diclofenac phổ biến trong chữa trị gia súc ốm tại khu vực này. Thêm một bài học về sinh thái mà con người trên hành tinh này có vẻ mãi vẫn chưa học hết...Khi Lindsay Oaks đến Pakistan bốn năm về trước, xứ sở này nhiều kền kền đến mức ông phát chán lên vì thường xuyên phải nhìn thấy chúng. Giờ đây, lũ chim ăn thịt này gần như đã hoàn toàn vắng bóng. Dự báo trong vài năm tới, chúng sẽ phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Trong cuộc nghiên cứu giúp làm sáng tỏ một bí ẩn kéo dài cả thập kỷ nay, Oaks - nhà vi sinh học thú y thuộc ĐH Bang Washington tại Pullman (Mỹ ) - đã cùng với cộng sự tìm ra nguyên nhân dẫn tới hiện tượng chết hàng loạt của kền kền. Đấy chính là việc sử dụng diclofenac trên phạm vi rộng - một loại thuốc chống bỏng phi steroid rất phổ biến trong chữa trị gia súc ốm trên toàn tiểu lục địa Ấn Độ. Khi vắng bóng những công nhân vệ sinh của thiên nhiên... Kền kền lưng trắng phương Đông. Một thời bay rợp bầu trời Ấn Độ, kền kền đã từng thực hiện rất thành công vai trò của những công nhân thu dọn xác chết trên phạm vi toàn tiểu lục địa này. Khi có một con vật nào đó bị chết, các nhà sưu tập da sống lột lấy bộ da và để phần còn lại cho lũ chim giải quyết. Nhưng trong suốt thập kỷ qua, dân số của loài kền kền lưng trắng phương Đông (Gyps bengalensis), kền kền mỏ dài (Gyps indicus) và kền kền mỏ thon (Gyps tenuirostris) tại Pakistan, Ấn Độ và Nepal đã giảm mất hơn 95%. Giờ đây, xác súc vật chết bị bỏ mặc cho thối rữa ngày này qua ngày khác, khiến cho khắp khu vực này nhiều khi dậy lên một mùi hôi thối kinh người. www.vietnamnet.vn/dataimages/original/images167830_KH_KK_Ramzi.jpg[/img] Cộng sự Ramzi, người Pakistan, thu giữ một con kền kền đang ngắc ngoải... Oaks nói: "Bất cứ lúc nào bạn có gia súc chết vì bệnh mà xác của chúng không được xử lý, rắc rối ngay lập tức nảy sinh. Chẳng hạn như ở Ấn Độ, xác chết thối rữa khiến cho dân số của chó hoang tăng vọt, và kéo theo đó là số động vật bị dại cũng tăng theo. Bên cạnh đó, kền kền là một phần không thể thiếu của nghi lễ "không táng" của những người theo Bái Hỏa giáo - xác người được để mặc cho lũ chim ăn thịt giải quyết. Việc thiếu vắng lũ kền kền tại những nơi như Mumbai đang gây ra những rắc rối nghiêm trọng cho truyền thống cổ xưa này." Cho đến nay, nguyên nhân khiến lũ kền kền đồng loạt "ra đi" vẫn là điều bí ẩn. Nhiều giả thuyết được nêu ra nhằm giải thích cho hiện tượng nói trên, từ một căn bệnh truyền nhiễm chưa xác định nào đó, cho đến việc tích lũy thuốc trừ sâu trong tế bào của kền kền. Dựa vào một cuộc nghiên cứu kéo dài trong suốt ba năm liền nhằm tìm ra nguyên nhân khiến ba đàn kền kền lưng trắng phương Đông sụt giảm dân số nhanh chóng, nhóm của Oaks kết luận: Lũ kền kền chết là do ăn phải xác chết gia súc mang trong mình quá nhiều dư lượng diclofenac. Kền kền mỏ dài. Theo cuộc nghiên cứu này, 85% trong số 259 con kền kền đem thử nghiệm đã bị chết vì bệnh gút phủ tạng - căn bệnh khiến cho chất acid uric sền sệt bao bọc lấy các cơ quan nội tạng. Đây là căn bệnh do hiện tượng suy thận gây ra. Ở chim khỏe mạnh, acid uric do thận tiết ra dưới dạng giọt màu trắng. Khi thận suy, acid uric tích luỹ trong dòng máu và kết tinh trên nội tạng, đặc biệt là trên tim, gan và thận. Các nhà nghiên cứu đã thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm nhằm tìm hiểu xem hiện tượng suy thận ở kền kền chết là do bệnh lây nhiễm vì vi khuẩn, thuốc trừ sâu, thuốc độc, kim loại nặng hoặc suy dinh dưỡng. Tuy nhiên, họ không hề tìm thấy bằng chứng nào khác ngoài mối liên hệ giữa suy thận và diclofenac. Theo Ian Newton, nhà điểu học tại Trung tâm Sinh thái học và Thuỷ học thuộc Hội đồng Nghiên cứu Môi trường Tự nhiên (Cambridgeshire, Anh), cuộc nghiên cứu nói trên đã được thực hiện một cách cẩn trọng, nhờ đó tìm ra mối liên hệ giữa diclofenac và cái chết của lũ kền kền. Ông cho biết: "Trên khắp khu vực này, thời gian sụt giảm dân số của lũ kền kền trùng với thời kỳ sử dụng diclofenac. Trong khi đó, hiện tượng sụt giảm dân số kền kền hàng loạt không hề xuất hiện tại các vùng cấm sử dụng loại thuốc này cho người."
|
|
|
Tin tức
May 5, 2004 15:18:43 GMT -5
Post by Robot on May 5, 2004 15:18:43 GMT -5
Nên cấm dùng diclofenac nơi gia súc, gia cầm
Hiện nay, Oaks và các cộng sự đang phối hợp với Quỹ Động vật hoang dã Thế giới Pakistan nhằm tìm ra nguyên nhân nào khiến cho diclofenac đột nhiên trở nên phổ biến đến thế trên tiểu lục địa Ấn Độ. Nhóm nghiên cứu cho rằng có thể vì nông dân cho rằng đây là một loại thuốc giảm đau rẻ, hiệu quả và an toàn đối với động vật. Oaks nói: "Trên phương diện thú y, thực sự diclofenac là một loại thuốc tốt. Không ai lại nghĩ rằng nó có thể gây ra những tác động như thế đối với sinh thái. Giống như ibuprofen và aspirin, diclofenac có thể được dùng để trị các bệnh như chứng nhức chân. Mặc dù không thể chữa được chân, loại thuốc này có thể xóa đi cơn đau, giúp một con trâu bị bệnh trở lại chở hàng từ nông trại xuống đến thị trấn."
Tác động ngoài ý muốn này xảy ra khi gia súc chết gần như ngay sau khi sử dụng thuốc. Cơ thể của chúng chứa nhiều dư lượng thuốc tới mức đủ để gây ra bệnh gút nội tạng ở kền kền. Để ngăn cho kền kền khỏi bị tuyệt chủng, Oaks và cộng sự đang nỗ lực kêu gọi chính phủ các nước ngay lập tức cấm sử dụng diclofenac cho gia súc. Hiện nay, lệnh cấm sử dụng diclofenac cho gia súc đang được áp dụng ngày càng rộng rãi ở các nước nam Á. Tuy nhiên, cộng đồng nghiên cứu khủng hoảng kền kền đang lo ngại rằng nếu loại thuốc này vẫn được sử dụng ở châu Phi, Trung Đông hoặc châu Âu, nó có thể ảnh hưởng mạnh đến các loài có liên quan tại những khu vực này.
Để phổ biến phát hiện này đến cho các cấp chính quyền có liên quan, nhóm nghiên cứu sẽ tổ chức một hội nghị thượng đỉnh quốc tế vào tháng tới ở Kathmandu, Nepal. Watson cho biết: "Tại giai đoạn này, chúng tôi vẫn chưa thể nói được gì về kết quả của hội nghị. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ cung cấp cho chính phủ các nước tất cả mọi cơ hội nhằm giúp họ kịp thời phản ứng. Theo Watson, cần nhanh chóng ban hành lệnh cấm sử dụng diclofenac đối với gia súc, gia cầm. Bên cạnh đó, các nước nên áp dụng chương trình nuôi nhốt và cung cấp thực phẩm không bị nhiễm độc cho kền kền."
Khánh Hà (Theo National Geographic)
|
|
|
Post by Oshin on May 8, 2004 5:54:25 GMT -5
Báo động: Thế giới chỉ còn 12 con tê giác trắng! Nạn săn bắn gia tăng tại Công viên quốc gia Garamba ở CHDC Congo đang đe doạ những con tê giác trắng miền Bắc cuối cùng của thế giới. Sừng tê giác. Các nhóm phiến quân từ nước Sudan láng giềng đã xâm nhập sâu vào trung tâm của Công viên và đang sát hại tê giác, voi để lấy sừng, ngà có giá trị để mua vũ khí. Trong hai tháng qua, sáu xác tê giác đã được tìm thấy và nhiều cá thể hơn có lẽ đã bị sát hại. Trước các vụ giết hại này, số lượng tê giác trắng miền Bắc được ước tính chỉ còn 33 con. Nếu không có những biện pháp khẩn cấp, các nhà bảo tồn khuyến cáo phân loài này có thể tuyệt chủng trong vòng sáu tháng tới. Paulin Tshikaya, giám đốc Công viên cho biết: ''Nếu tình hình này tiếp tục, đây sẽ là một thảm hoạ cho công viên. Hiện chúng tôi không thể bảo vệ công viên khỏi nạn săn bắn trộm''. Châu Phi có hai loài tê giác: tê giác trắng và tê giác đen. Tê giác đen sinh sống ở miền Nam của lục địa này, tại Kenya cũng như Cameroon với số lượng khoảng 3.100 con. Tê giác trắng có hai phân loài là tê giác trắng miền Bắc và tê giác trắng miền Nam. Số lượng ước tính của tê giác trắng miền Nam là 11.600 cá thể vào năm 2001, chủ yếu tập trung tại miền Nam châu Phi. Tê giác trắng miền Bắc đã từng sinh sống khắp Trung Phi.
Có ba loài tê giác châu Á: tê giác Ấn Độ, tê giác Java và tê giác Sumatra. Tất cả đều đối mặt với những mối đe doạ tương tự trong thiên nhiên, hiện chỉ còn chưa tới 3.000 con. Được thiết lập vào năm 1938. Garamba là một trong những Công viên quốc gia lâu đời nhất ở châu Phi. Nằm ở góc Đông Bắc của Congo, Garamba được UNESCO là di sản thiên nhiên thế giới. Công viên này chủ yếu là đồng cỏ. Nó là nơi cư ngụ của hơn 7.000 con voi, 3.000 con trâu và 150 hươu cao cổ. Tuy nhiên, danh thiếp của công viên này lại in biểu trưng loài tê giác trắng miền Bắc vốn đã bị tiêu diệt ở mọi môi trường sống trước kia của chúng tại Trung Phi. Richard Ruggiero, giám đốc Chương trình châu Phi của Cục Động vật hoang dã và Cá Hoa Kỳ, cho biết: ''Từ quan điểm bảo tồn, đây là một trong những nơi quan trọng nhất ở châu Phi. Tê giác trắng miền Bắc là một "món đồ trang sức" sắp bị nhổ khỏi "vương miện" (Garamba)''. Tê giác đen châu Phi. Nạn săn bắn trộm diễn ra từ lâu tại Công viên quốc gia Garamba. Chỉ còn lại 15 con tê giác trắng miền Bắc vào năm 1984. Một chiến dịch chống săn bắn trộm cẩn mật đã làm tăng gấp đôi số lượng của chúng vào năm 1995. Tuy nhiên, gần đây hơn, chiến tranh tàn phá Sudan trong 40 năm qua đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới động, thực vật của Công viên này. Cách đây vài năm, phiến quân thuộc Quân Giải phóng nhân dân Sudan (SPLA) đã xâm nhập vào Công viên và bắt đầu săn bắn động vật để lấy thịt. Phần lớn các động vật lớn đã bị tiêu diệt ở 2/3 khu phía Bắc công viên này. Kể từ tháng 6/2003, hoạt động săn bắn trộm gia tăng mạnh ở khu phía Nam và chuyển từ săn trộm lấy thịt sang lấy ngà voi và sừng tê giác. Trong những tháng gần đây, hàng trăm con voi đã bị giết. Kiểm lâm đã đụng độ với các phiến quân miền Bắc Sudan - những người có lẽ là đồng minh của chính quyền Sudan tại Khartoum, đang sử dụng tàu và ngựa để vận chuyển ngà và sừng tê giác vào Sudan. Các nhà bảo tồn cho biết: Tình trạng tiêu diệt các loài động vật hoang dã cũng diễn ra tương tự tại các nước khác trong khu vực, chẳng hạn như Cộng hoà Trung Phi và Chad. Ruggiero cho rằng có lẽ chỉ còn 12 con tê giác trắng miền Bắc ở Garamba. Hiện có 150 kiểm lâm tại Garamba do Viện Bảo vệ Thiên nhiên Congo quản lý. Kinh phí hoạt động do một nhóm các nhà tài trợ quốc tế cung cấp. Thiếu vắng quân đội Congo, các nhóm phiến quân Sudan cố thủ trong công viên này và các kiểm lâm không có đủ lực để chống lại. Tê giác trắng. Tê giác trắng và tê giác đen của châu Phi, cũng như tê giác Sumatra, có hai sừng - sừng nọ ở sau sừng kia. Tê giác Java và tê giác Ấn Độ chỉ có một sừng. Tê giác trắng là lớn nhất trong năm loài tê giác, nặng 1.800-2.700kg và cao 1,5-1,8m. Trong số các động vật có vú trên cạn, chúng là loài duy nhất có kích cỡ đứng thứ hai sau voi châu Á và châu Phi. Tê giác trắng không thực sự trắng mà có màu xám hơi nâu, giống tê giác đen. (Từ ''trắng'' là do dịch nhầm từ tiếng châu Phi chỉ miệng rộng.) Giống các loài tê giác khác, tê giác trắng có thị lực kém song thính giác và khứu giác rất tốt. Nếu bị tấn công, chúng thường dựa vào khứu giác nhiều hơn thị giác. Tê giác châu Phi tấn công bằng sừng, trong khi tê giác châu Á dùng miệng để cắn. Tê giác thường tránh người song khi bị khiêu khích, nó sẽ tấn công với tốc độ chạy có thể lên tới 45km/g. Tê giác là động vật ăn cỏ và lá cây. Phần lớn chúng sống đơn độc, chỉ có tê giác trắng châu Phi thỉnh thoảng sống theo những bầy nhỏ. Lãnh thổ của chúng được đánh dấu bằng nước tiểu và các đống phân. Từ khoảng ba tuổi trở lên, tê giác cái có thể sinh con. Chúng thường sinh một con, hiếm lắm mới sinh hai con. Tê giác con có thể đứng vững một giờ sau khi chào đời, nặng 65kg. Nó được mẹ nuôi trong khoảng một năm. Con đực trưởng thành khi được khoảng bảy tuổi. Do kích cỡ khổng lồ, tê giác chỉ có kẻ thù duy nhất là con người. Minh Sơn (Theo National Geographic)
|
|
|
Tin tức
May 10, 2004 10:33:10 GMT -5
Post by Robot on May 10, 2004 10:33:10 GMT -5
Cá sấu Salties sẽ chung số phận với koala? Sau khi bác bỏ kế hoạch triệt hạ hơn 20.000 con gấu túi koala ở đảo Kangaroo, nay Australia lại dự định cho phép săn bắn loài cá sấu nước mặn. Ngay lập tức, kế hoạch này đã vấp phải sự phản đối của các nhóm bảo vệ sức khoẻ động vật trên thế giới. Ba mươi nhóm bảo vệ động vật trên thế giới, trong đó có Quỹ Quốc tế Bảo vệ Sức khoẻ Động vật, khẳng định là đại diện cho hơn mười triệu người, đã cùng ký vào một bức thư gửi Bộ trưởng Môi trường Australia David Kemp, kêu gọi chính phủ nước này bác bỏ kế hoạch trên. Cá sấu nước mặn, còn được gọi là Salties, có thể dài tới 7m và nặng hơn một tấn. Được coi là động vật săn mồi nguy hiểm nhất trên Trái đất, cá sấu Salties sinh sống trong các đầm lầy và luồng lạch trên khắp vùng lãnh thổ miền Bắc Australia. Nạn nhân của chúng thỉnh thoảng là con người, gần đây nhất là một thanh niên 22 tuổi bị Salties đớp vào tháng 12/2003 khi đang câu cá ở một con sông. Cá sấu Salities. Chính quyền vùng lãnh thổ miền Bắc đã cấm săn bắn cá sấu nước mặn vì mục đích thương mại vào năm 1971, sau khi số lượng của chúng giảm tới chừng 3.000 con. Tuy nhiên, với số lượng được tin là đã vượt quá 75.000 con trong thiên nhiên, các quan chức động vật hoang dã của vùng lãnh thổ này cho rằng hoạt động săn bắn cá sấu có thể mang lại một nguồn tài chính đáng kể cho những chủ đất nghèo là thổ dân bản địa. Theo kế hoạch, người đi săn được phép lột da con cá sấu mà họ săn được và mang ra khỏi vùng lãnh thổ này với tư cách là "chiến lợi phẩm"! Trong năm năm qua, Cục Quản lý Động vật hoang dã của vùng lãnh thổ miền Bắc đã cấp phép cho các chủ đất giết tới 600 con cá sấu mỗi năm để lấy thịt và da. Hiện Cục này đang đề nghị cấp giấy phép săn bắn đặc biệt để giết 25 con cá sấu trong ngoài hạn ngạch 600 con. Theo các quan chức địa phương, những người thích đi săn sẽ mang lại hàng nghìn đô-la cho cộng đồng với mỗi con Salties họ bắt được so với vài trăm đô-la thu được từ hoạt động bán da và thịt. Tuy nhiên, các nhà bảo vệ động vật hoang dã cho biết việc bật đèn xanh cho hoạt động săn bắn cá sấu Salties sẽ lật nhào chính sách cấm săn bắn động vật hoang dã bản địa vì mục đích giải trí của Australia. Họ đã yêu cầu Bộ trưởng Môi trường Australia đưa ra một quyết định sao cho phù hợp với danh tiếng của Australia với tư cách là điểm du lịch sinh thái hàng đầu. Một phát ngôn viên của Hiệp hội Nhân đạo quốc tế nói: ''Chúng ta có thể tưởng tượng rằng yêu cầu tiếp theo sẽ là mời khách du lịch tới bắn kangaroo của chúng ta vì mục đích thể thao và giải trí''. Chính phủ liên bang vẫn chưa có bình luận gì về kế hoạch trên bởi chính quyền vùng lãnh thổ miền Bắc vẫn chưa chính thức đệ trình nó. Minh Sơn (Theo AFP) Chú cá sấu nước mặn háu đói đang nhảy khỏi mặt nước để đớp mồi. Hiện nay, 30 tổ chức phúc lợi Australia đang lên tiếng kêu gọi chính phủ phản đối kế hoạch săn cá sấu nước mặn với mục đích giải trí. (Khánh Hà. Theo AFP)
|
|