|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 10:33:37 GMT -5
Một số loài động vật thuỷ sinh
Có rất nhiều loài sinh vật sống trong môi trường nước. Tương tự như môi trường trên cạn, dưới nước cũng có đầy đủ các loại sinh vật để đảm bảo một hệ sinh thái cân bằng. Thực vật dưới nước (tảo, rong, rêu) giữ vai trò sản xuất ôxy và làm thức ăn cho những động vật ăn thực vật. Ngoài ra những động vật trôi nổi là thức ăn cho những động vật lớn hơn như tôm, cua, cá, trai, ...
Ốc là loài ăn cỏ hoặc thực vật. Chúng đặc biệt thích các loại thực vật chết và mục nát. Những con ốc thuộc loại một mảnh vỏ. Chúng có chiếc vỏ cứng bảo vệ cơ thể. Có những con lẫn vào nền đất để đánh lừa kẻ săn mồi.
Cua thường ăn xác chết thối rữa của các động vật khác như cá, động vật thân mềm, tôm, giun và ngay cả những con giun khác. Cua sử dụng càng để cặp chặt lấy thức ăn và đẩy vào mồm. Cua thường đào hang ở ven bờ hoặc sống trong các hang đá. Cua có nhiều kẻ thù như cá, bạch tuộc và các loài chim. Khi bị đe doạ, những con cua đưa những cái chân phía sau lên vẫy và bật những cái càng khoẻ mạnh để cảnh báo.
Các động vật hai mảnh vỏ như trai kiếm ăn bằng cách lọc. Chúng hút nước ở một đầu và đẩy ra ở đầu kia. Trong cơ thể chúng có những vỉ giống như chiếc sàng giữ lại các động, thực vật nhỏ ở trong nước. Nước chứa hàng triệu động vật và thực vật nhỏ goị là sinh vật trôi nổi. Động vật hai mảnh vỏ bắt và tiêu hoá các sinh vật trôi nổi này khi hút nước vào cơ thể. Động vật hai mảnh vỏ chủ yếu đào hoặc làm hang ở trong cát.
Một vài động vật hai mảnh vỏ di chuyển bằng cách vỗ hai mảnh vỏ lại với nhau. Động tác này đẩy nước ra từ giữa vỏ và đẩy con vật về phía trước hoặc lên cao. Khi đối mặt với kẻ thù ăn thịt, một vài loài đông vật thân mềm nhảy rất nhanh. Chúng tì cái chân khoẻ mạnh xuống bùn hoặc cát sau đó duỗi ra đột ngột để tự bật người đi. Có những loài cố định vỏ ở đáy bằng cách tiết ra một chất nhầy, dính. Chất này cứng lại như xi măng và giữ chúng chắc chắn ở nguyên một chỗ.
Rùa sống trong các dòng sông, biển, rùa đẻ trứng trên cạn. Rùa dùng cổ dài, mềm dẻo lục tìm cá, tôm và ốc sên. Khi gặp nguy hiểm chúng rụt cổ lại vào trong mai.
Tôm ẩn náu dưới các hòn đá hay các hốc ở bên bờ vào ban ngày. Chúng săn mồi chủ yếu vào ban đêm. Con mồi là bọ nước hay cá nhỏ đôi khi cả ốc sên nhỏ.
Cá là loài động vật phổ biến nhất trong nước. Có nhiều loại cá khác nhau sống ở các tầng nước khác nhau. Màu sắc trên da cá cũng phản ánh môi trường nước nơi chúng sống. Loài cá sống gần mặt nước có lớp da sáng. Loài cá sống gần đáy có lớp da tối thẫm. Cũng có loài cá ăn thực vật và có loài cá chuyên ăn thịt hoặc ăn các động vật phù du. Cá di chuyển bằng vây ngực, vây bụng, vây lưng và đuôi.
Trứng ếch phần lớn được đẻ dưới nước. Mỗi quả trứng được nở thành một con nòng nọc. Nòng nọc ăn các loại thực vật nhỏ bé ở dưới nước gọi là tảo. Khi chân mọc ra và đuôi tiêu biến, nòng nọc phát triển thành một con ếch và chuyển lên sống ở trên cạn.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 10:37:47 GMT -5
Thế giới các loài cáCá là nhóm động vật phong phú, kì lạ đông đảo và đa dạng nhất trong các loài động vật có xương sống trên hành tinh của chúng ta. Khoa học ngày nay đã bíêt được hơn 23.000 loài cá. Con số này nhiều hơn tất cả các loài động vật có xương sống khác như bò sát, ếch nhái, chim và thú trên trái đất cộng lại. Chúng hoàn toàn thích nghi với đời sống ở dưới nước. Cơ thể cá được bao bọc bởi một lớp da phủ bởi một lớp vảy cứng hoặc có thể da trần, (cá trê, cá nheo lươn cá chình). Cá là động vật máu lạnh và hô hấp bằng mang. Như vậy qua khái niệm này chúng ta thấy một số loài động vật sống ở dưới nước mà mọi người vẫn gọi là cá: như cá voi, cá heo, cá nhà táng, cá mực, cá nóc thực chất không phải là cá. Căn cứ vào các dấu tích hoá thạch người ta đã xác định được rằng cá đã xuất hiện trên hành tinh của chúng ta cách đây 500 triệu năm. Chúng xuất hiện trước cả loài khủng long và nhiều loài động vật tiền sử khác. Cách đây khoảng 300 triệụ năm một số loài cá mọc thêm chi và trở thành động vật lưỡng cư khởi đầu cho sự sống của các loài động vật 4 chân trên mặt đất. Họ hàng nhà cá có kích thước, trọng lượng chênh lệch nhau một cách khó tưởng tượng. Loài cá có kích thước và trọng lượng lớn nhất là cá mập trắng. Có con dài tới 15m và nặng tới 20 tấn. Còn loài cá bé nhất là cá lùn Ân độ chỉ dài 13mm nặng không quá 2g. Các loài cá có muôn hình muôn vẻ về hình dạng: hình rắn như lươn, cá dưa, cá chình; hình ngựa như cá ngựa; hình cầu gai như cá nhím; hình lá như cá bơn; hình dẹp ngang như cá bám đá, cá đuối; hình máy bay như cá mập; hình ếch nhái như cá nóc; hình quả như cá chuối. Còn về màu sắc thì muôn màu, muôn sắc: trắng, đen vàng, xanh, đỏ, loang lổ, màu rêu, màu tảo, ... Cá có thể sống được ở rất nhiều môi trường sống khác nhau: vùng nước, ao hồ, đầm suối, sông biển, hang động ngầm có nước, nước mặn, nước ngọt, nước lợ, tầng mặt tầng giữa, tầng bùn, cát. Có loài sống được cả ở biển nước lợ, nước ngọt như: cá hồi, cá chình, cá nóc, cá măng biển. Cá cũng sống cả ở trong môi trường nước tĩnh: ao hồ, biển, nước chảy xiết như gềnh thác. Có những loài cá còn có thể sống được ở vùng lạnh giá hoặc trong suối nước ngầm nóng 70-80 độ C. Cá sinh sản như thế nào?Cũng giống như động vật lưỡng cư cá sinh sản bằng hình thức thụ tinh ngoài. Vào mùa sinh sản cá đực và cá cái cặp đôi. Cá cái đẻ rất nhiều trứng vào môi trường nước, cá đực tưới tinh trùng vào thụ tinh sau đó trứng nở thành cá con. Một số loài khác trứng nở thành ấu trùng (chưa có hình dạng đầy đủ của một con cá như ở cá chình). Một số loài cá khác như cá mập, trứng được thụ tinh nở thành cá con và phát triển trong bụng mẹ sau đó mới được đưa ra ngoài, hoặc trứng được bọc trong những bọc da rất bền, trứng nở thành cá con và được bảo vệ trong những bọc da này trước khi ra ngoài. Một số loài cá khác sống ở nước ngọt song đến mùa sinh sản lại kéo nhau ra biển sinh sản đẻ trứng như cá chình hay ngược lại sống ở biển như cá hồi nhưng đền mùa sinh sản chúng lại bơi ngược dòng sông nơi chúng được sinh ra để sinh sản. Một số loài cá có tập tính đẻ trứng và nuôi con rất đặc biệt. Cá rô, lươn làm ổ đẻ trứng. Cá quả (cá lóc) đi theo bảo vệ đàn con trong suốt giai đoạn còn nhỏ. Cá rô phi, rô mô laị giữ con lúc nhỏ trong miệng. Hoặc nuôi con nhỏ trong một chiếc túi trước bụng như cá ngựa đực. Một số loài cá lưỡng tính như lươn thì giai đoạn đầu khi mới sinh sản chúng là cá cái nhưng sau đó chúng lại thành cá đực. Tự vệ và săn mồiCá vận động chủ yếu bằng cử động vây đuôi và các vây để bơi. Tuy nhiên nhiều loại cá lại có những cách vận động hết sức đặc biệt. Các loại cá nóc, cá nhảy bùn vận đông chủ yếu bằng vây trước kết hợp với quẫy đuôi để nhảy lên mặt nước, trên bùn. Có loài có thể "bay" được như cá chim, cá chuồn có thể lướt trong không khí. Khéo léo chui rúc dưới bùn, cát như lươn, chạch. Bám chặt vào vách đá ở những ghềnh thác chảy xiết như cá bám đá. Bơi khác thường như cá bơn, bơi vẫy cánh như cá đuối. Trườn như rắn ở dưới nước cũng như trên mặt đất như cá chình, ... Hình thức kiếm ăn của cá cũng rất khác nhau: Săn đuổi ăn thịt như cá mập, cá piraha có thể đánh hơi mùi máu cắn xé mồi rất dữ tợn. Cá bắn tên có thể từ dưới nước phụt một tia nước rất mạnh vào con mồi đậu ở trên mặt nước khiến chúng rơi xuống nước và lập tức bị đớp. Ăn toàn thực vật như cá trắm. Ăn tảo, rong, sinh vật phù du như cá chép, mè. Để bảo vệ chính mình cá dùng rất nhiều biện pháp dùng hình dạng, màu sắc nguỵ trang, cảnh báo, giả vờ chết cho đến trốn tránh và cả tấn công lại kẻ thù. Một số loài lại có hình thức bảo vệ khác như biện pháp hoá học tích luỹ chất độc ở những gai, ngạch nốt sần bên ngoài: cá trê, cá ngạnh, các cầu gai. Hoặc tích lũy chất độc trong một số nội quan như cá nóc. Một số loài khác lại dùng màu sắc để đe doạ và cảnh báo kẻ thù.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 12:46:44 GMT -5
Con mực bơi như thế nào? Hẳn bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi nghe nói: Với nhiều sinh vật thì phương pháp hoang đường “tự túm tóc để nâng mình lên trên” lại chính là cách di chuyển thông thường của chúng ở trong nước. Mực cũng thế. Con mực và nói chung đa số các động vật nhuyễn thể lớp đầu túc đều di chuyển trong nước theo cách: lấy nước vào lỗ máng qua khe hở bên và cái phễu đặc biệt ở đằng trước thân, sau đó chúng dùng sức tống tia nước qua cái phễu đó. Như thế, theo định luật phản tác dụng, chúng nhận được một sức đẩy ngược lại đủ để thân chúng bơi khá nhanh về phía trước. Ngoài ra con mực còn có thể xoay ống phễu về một bên hoặc về đằng sau và khi ép mình để đẩy nước ra khỏi phễu thì nó có thể chuyển động theo bất kỳ hướng nào cũng được. Chuyển động của con sứa cũng tương tự như thế: nó co các cơ lại để đẩy nước từ dưới cái thân hình chuông của nó ra và như thế nó bị đẩy về phía ngược lại. Chuyển động của bọ nước, của các ấu trùng chuồn chuồn và nhiều loài động vật dưới nước khác cũng theo phương pháp tương tự. (Theo Vật lý vui) Tại sao cá mực có thể phun ra mực? Cá mực thuộc loài động vật nhuyễn thể, đặc điểm lớn nhất của nó là trong bụng có "nang" chứa đầy mực. Khi chúng ta dùng dao mở nó ra, mực sẽ chảy ra làm thành một mảng đen. Mực trong bụng cá mực là một loại vũ khí để tự vệ. Bình thường, cá mực ở biển lớn chuyên lấy tôm cá nhỏ làm thức ăn. Một khi có kẻ thù hung hãn nào vồ lấy thì cá mực sẽ lập tức phun một dòng mực từ trong nang, làm cho nước biển xung quanh nhuộm đen. Trong màn khói màu đen này nó sẽ chuồn và trốn chạy nhanh chóng. Ngoài ra, loại mực này của nó còn có độc tố có thể dùng làm tê liệt kẻ địch. Bởi vì việc tích trữ mực trong nang cần một thời gian tương đối dài, do vậy cá mực khi chưa đến tình trạng nguy cấp thì nó sẽ không dễ dàng phun ra thứ chất tự vệ đó. Theo sách Động vật
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 12:49:39 GMT -5
Vì sao con hà khoét thủng được cả đá? Hà phá hủy các tảng đá, thân tàu. Trên các bãi biển, có những tảng đá lỗ chỗ như tổ ong do hà bám. Chúng làm thế nào để có thể phá hủy được loại vật chất cứng rắn này, trong khi không hề có răng? Thì ra, con hà tiết ra một chất dịch có tính axit cao, làm cho đá mềm ra. Sau đó, chúng dùng chân và vòi làm điểm tựa rồi xoay xoay toàn thân để cho những gai trên vỏ cứng của chúng cọ xát vào đá và làm đá vỡ vụn. Chúng cứ kiên nhẫn đào khoét suốt đời và tạo ra các hang động trên đá. Nếu không có đá để đục lỗ, loài hà này sẽ chết. Các nhà khoa học đã nuôi thử chúng trong các bể nước không có đá. Mặc dù được cung cấp đầy đủ thức ăn, hà vẫn không lớn được, vỏ trước bị khép lại, chân co vào và còm cõi đến chết. Hà đá không chỉ đào hốc trên đá mà còn đục khoét ngay trên vỏ ngoài của các loài trai, hàu. Trên một vỏ hàu có thể tìm thấy khoảng mươi con hà đá, trông như những điếu xì gà nằm gọn trong các hốc nhỏ do chúng tạo ra. Hà sống trên đá lại có hình dạng như quả trứng nhọn đầu. Chúng sinh sôi nảy nở rất nhanh và làm các công trình xây dựng ở các hải cảng bị đục khoét lỗ chỗ như tổ ong. Hà đá chỉ chịu thua đá hoa cương. Chính vì vậy mà người ta phải phủ đá hoa cương lên mặt ngoài các công trình xây dựng ở hải cảng, ở các vùng khai thác dầu khí ven biển. (Theo 10 vạn câu hỏi vì sao)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 13:57:53 GMT -5
Nhìn vảy có thể biết tuổi của cá Cá có con to, con nhỏ, muốn biết tuổi của cá, thông thường chỉ cần bóc một cái vảy từ trên thân cá, quan sát tỉ mỉ thì có thể thấy ngay. Tại sao nhìn vảy cá thì có thể biết tuổi của cá vậy? Từ trong quy luật sinh trưởng của cá chúng ta biết rằng, đại đa số cá năm đầu tiên bắt đầu cuộc đời thì toàn thân đã mọc đầy vảy. Vảy là do nhiều tấm mỏng to nhỏ khác nhau tạo thành, giống như một hình nón thấp bị cắt mất chóp không quy tắc lắm, ở giữa dày, bên trên mỏng, lớp phía trên cùng là nhỏ nhất, nhưng là già nhất; lớp phía dưới cùng to nhất nhưng là trẻ nhất. Khi vảy lớn lên thì trên bề mặt của nó có tấm mỏng mới mọc ra, cùng với sự gia tăng của tuổi cá, số tấm mỏng cũng không ngừng tăng lên. Trong bốn mùa của một năm, tốc độ sinh trưởng của cá không giống nhau. Thông thường, mùa xuân và hạ sinh trưởng nhanh, mùa thu sinh trưởng chậm, mùa đông lại ngừng sinh trưởng, mùa xuân năm thứ hai lại khôi phục sinh trưởng. Vảy cá cũng như vậy, phần mọc ra vào mùa xuân hạ tương đối rộng, phần mọc ra vào mùa thu tương đối hẹp, mùa đông lại ngừng sinh trưởng. Tấm mỏng rộng hẹp không giống nhau xếp lại với nhau có thứ tự, bao quanh trung tâm từng cái nối tiếp nhau, hình thành nhiều vòng, gọi là "vòng năm sinh trưởng". Số vòng năm sinh trưởng vừa vặn phù hợp với số năm mà loài cá đã trải qua. Tấm mỏng rộng được mọc ra vào mùa xuân hạ xếp thưa thớt, tấm mỏng hẹp được mọc ra vào mùa thu xếp dày đặc, giữa 2 loại này có ranh giới rất rõ ràng, là sự phân chia ranh giới giữa vòng sinh trưởng năm thứ nhất và vòng sinh trưởng năm thứ hai, gọi là "vòng đời". Cá có vòng đời nhiều thì tuổi lớn, cá có vòng đời ít thì tuổi ít. Theo sách Động Vật
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 13:59:09 GMT -5
Tại sao cua lại nhả bọt? Cua là loài động vật giáp xác sống trong nước, nó giống như cá cũng dùng mang để thở. Tuy vậy, mang của cua không mọc ở hai bên đầu mà là do rất nhiều miếng xốp mềm giống như hải miên hợp thành, mọc ở hai bên phía trên của cơ thể, bề mặt được bao phủ bởi vỏ cứng. Khi cua sống trong nước, từ phần càng cua và phần chân gốc hút nước sạch vào (ôxy hoà tan trong nước sẽ đi vào trong máu của mao mạch mang), sau khi chạy qua mang được nhả ra bởi giác quan hai bên miệng. Tuy cua thường sống trong nước nhưng nó lại khác với cá, nó thường xuyên bò lên đất liền tìm kiếm thức ăn, ngoài ra sau khi rời khỏi nước nó cũng không bị chết khô. Đấy là do trong mang của cua dự trữ rất nhiều nước, khi rời khỏi nước vẫn như ở trong nước vậy. Nó cũng có thể không ngừng thở, hít vào một số lượng lớn không khí, nhả ra bởi giác quan 2 bên miệng. Bởi vì không khí mà nó hít vào tương đối lớn, hàm lượng nước và không khí trong mang có chứa cùng nhả ra đã hình thành vô số những bọt khí, càng ngày càng nhiều, do vậy phía trước miệng đùn thành rất nhiều bọt màu trắng. Tại sao cua sau khi nấu chín biến thành màu đỏ? Lúc cua sống, trên lưng có màu xanh đen, nhưng sau khi luộc chín thì có màu đỏ cam tươi. Đó là do trong vỏ cứng của cua có các loại sắc tố, trong đó có màu đỏ tôm. Do màu đỏ tôm trộn lẫn với các sắc tố khác nên bình thường không thể hiện rõ sắc đỏ tươi vốn có của nó. Nhưng sau khi luộc chín, các sắc tố khác bị phá huỷ và phân giải dưới nhiệt độ cao, khi chúng biến mất thì màu đỏ sẽ hiện ra. Do vậy, tất cả cua nấu chín đều sẽ biến thành màu đỏ. Trên vỏ cứng của cua, sự phân bố của màu đỏ tôm cũng không đều. Tất cả những chỗ có nhiều màu đỏ tôm, ví dụ phần lưng thì hiện lên rất đỏ. Phần dưới của chân thì màu hiện lên nhạt một chút. Do phần bụng của cua vốn không có màu đỏ tôm, bởi vậy dù đun nấu thế nào thì cũng không thể có màu đỏ được. Ngoài cua ra, còn có tôm cũng biến thành màu đỏ sau khi nấu chín. Theo sách Động vật
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 14:07:51 GMT -5
Cá heoTại sao cá heo có thể bơi với vận tốc cao? Lúc bơi nhanh, cá heo có thể đạt 70 km/giờ, thậm chí lên đến 100 km/h khi bị quấy nhiễu hoặc khi rượt đuổi con mồi. Do đó chúng còn được mệnh danh là kiện tướng bơi lặn. Các nhà khoa học đã phát hiện ra cá heo ngoài việc có hình thể kiểu giọt nước, chúng còn có kết cấu da rất đặc biệt. Về cơ bản da của cá heo có thể chia thành 2 lớp: lớp ngoài là biểu bì dạng xốp rất mềm, dày khoảng 1,5 mm; lớp trong là chân bì chặt chẽ và cứng rắn, dày khoảng 6 mm, trên chân bì có nhiều mấu nổi lên hình núm. Dưới các mấu này là những sợi dạng cao su đặc và sợi có tính đàn hồi, xếp đan xen nhau, giữa chúng có đầy mỡ. Kết cấu da này giống như bộ giảm xóc, làm giảm được chấn động của dòng nước lên bề mặt cơ thể, ngăn chặn sự phát sinh các dòng nước xiết, do đó làm cho lực cản ma sát của nước giảm đến mức nhỏ nhất. Nhờ vậy, cá heo có thể bơi được với tốc độ cao. Vào thập kỷ 60, chuyên gia tên lửa người Đức là Kelamoer đã dùng cao su bắt chước theo cấu tạo da cá heo để chế tạo thành công “da cá heo nhân tạo”. Loại da này khi buộc vào ngư lôi và thuyền thì đều có tác dụng làm giảm một nửa lực cản khi chúng tiến lên phía trước. Hiện nay, các nhà khoa học đã có thể dùng da cá heo nhân tạo bọc bên ngoài những chiếc tàu cỡ nhỏ hoặc tàu ngầm, làm cho tốc độ của chúng tăng cao. Cứu người là bản năng của cá heo? Theo quan sát của các nhà sinh vật học, việc cá heo cứu người có liên quan mật thiết với hành vi vốn có của nó. Sau khi cá heo con được sinh ra, con mẹ sẽ nâng chúng ra mặt nước, thậm chí có thể lâu đến mấy tiếng, mấy ngày... Các con cá heo với nhau cũng thường hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là giúp đỡ đồng loại nào đó bị bệnh hoặc bị thương. Tính cá heo thích chơi đùa, thường xuyên đẩy các vật thể trôi nổi trên mặt biển để nghịch, hơn nữa chúng rất hữu hảo với con người, thậm chí còn chủ động tìm người để chơi cùng. Do cá heo vốn có những hành vi này, nên khi gặp một người bị chìm xuống nước, nó sẽ tưởng nhầm là một vật thể trôi nổi, bèn nâng họ lên theo bản năng và đẩy vào bờ, do đó người được cứu thoát. Theo sách 10 vạn câu hỏi vì sao
|
|
|
Post by Robot on Mar 19, 2004 11:00:41 GMT -5
Cá kình thích nhại tiếng Cá kình bơi theo bầy. Lần đầu tiên, nhờ thiết bị công nghệ cao dưới nước, các nhà khoa học đã thu được tiếng kêu của từng cá thể cá kình riêng biệt. Băng ghi âm tiết lộ gia đình lũ cá voi này rất khoái bắt chước nhau trong khi nói chuyện. Trước đây, người ta cũng từng thu được âm thanh của cá kình (một nhóm động vật lớn thuộc họ cá heo trong bộ cá voi), song chỉ là những mớ tiếng kêu pha tạp và các nhà nghiên cứu không thể phân biệt được nó phát ra từ thành viên nào trong bầy. Dữ liệu trong cuộc nghiên cứu mới nhất phỏng đoán rằng cá voi giao tiếp với đồng loại theo cách tương tự như con người, các loài linh trưởng, cá heo và chim. Patrick Miller, trưởng nhóm nghiên cứu tại Bộ phận nghiên cứu thú biển NERC (Đại học Andrews ở Scotland), và cộng sự đã theo dõi những con cá kình được đánh dấu bằng cách sử dụng một chiếc thuyền nhỏ kéo theo một chùm các ống nghe dưới nước. Chùm ống nghe này nhằm xác định góc tới của âm thanh, và xác định con nào đang tạo ra tiếng động. Tất cả âm thanh thu được đều thuộc những nhóm gia đình nào đó, bởi cá voi sống theo đàn gần gũi nhau về huyết thống. Cá kình con thường không xa rời mẹ cho đến lúc chết. Âm thanh được thu lại khi các cá thể tách khỏi bầy theo một góc ít nhất 20 độ. Từ đó, nhóm nghiên cứu có thể phân biệt từng con theo đặc điểm nhận dạng của chúng. Phân tích băng thu âm cho thấy khi một thành viên trong đàn cất tiếng, những con khác sẽ bắt chước la theo. Thử nghiệm trên những tiếng kêu ngẫu nhiên chứng tỏ rằng số lần mô phỏng như vậy lớn hơn nhiều sự trùng lặp tình cờ, có nghĩa cá kình phải cố ý bắt chước tiếng gọi của con khác. Miller và cộng sự không chắc chắn về ý nghĩa của những âm thanh này, nhưng tin rằng "những cuộc nói chuyện" giúp bảo toàn gia đình của chúng. Trong nhiều tình huống, con người cũng bắt chước nhau, như khi một người nào đó nói "xin chào" với một người bạn hoặc một người trong nhà, anh ta sẽ nhận được câu đáp tương tự: "Xin chào". Nghiên cứu trước kia còn thông báo rằng cá heo mũi to cũng tham gia những cuộc nhái tiếng tương tự. Bích Hạnh (theo Discovery)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 15:55:47 GMT -5
Rùa biển có sức chịu đựng phi thườngusa.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2003/11/3B9CCF52/turtles.jpg[/img]
Một con rùa biển đang đẻ trứng. Những con rùa biển mang thai có khả năng chống chọi những cuộc tấn công kinh hoàng của cá mập để cố ngoi lên bờ và đẻ trứng. Nhóm nghiên cứu của Australia phát hiện khả năng chịu đựng của rùa hiệu quả đến mức chúng có thể làm tổ nhanh chóng bất chấp những vết thương nghiêm trọng. Trong khi quan sát loài rùa caretta làm tổ trên đảo Swain Reefs ở Australia, các nhà nghiên cứu đã ghi lại được một trường hợp phi thường. Một con rùa cái với khoang bụng bị cắn tơi tả, để lộ ra những bộ phận nội tạng kéo lê trên cát, cố hết sức mình lê lên bờ biển và đã đẻ trứng thành công. Nhóm của Jessop đã nhốt những con rùa trong vùng nước gần bãi làm tổ của chúng để kiểm tra các vết thương do cá mập gây ra. Những con vật bị thương được so sánh với một nhóm lành lặn khác. Cả hai nhóm sau đó tham gia một cuộc kiểm tra stress, trong đó chúng bị đặt ngửa trên bãi biển. Kết quả cho thấy hàm lượng corticosterone chống stress trong những con cái sau khi bị tấn công không khác gì mấy so với những con khỏe mạnh, cho dù vết thương có nặng thế nào. "Chúng là những con vật đơn giản về mặt sinh sản tự nhiên. Chúng không hề học qua kinh nghiệm. Cả quá trình làm tổ và đẻ trứng được thực hiện bằng những phản ứng hormone lập sẵn", tác giả nghiên cứu Tim Limpus cho biết. Các nhà nghiên cứu cho rằng nếu rùa có phản ứng hormone thông thường với vết thương trong thời kỳ làm tổ cũng giống như trong các giai đoạn khác của cuộc đời, khả năng này có thể có hiệu quả tạm thời hoặc lâu dài đối với việc sinh sản. Tuy vậy, nếu con vật bị thương hoặc stress quá nặng thì khả năng sinh sản của nó cũng sẽ bị ảnh hưởng. Rùa caretta thuộc diện bị nguy cấp ở Australia. Vào những năm 70, có hơn 3.500 con cái làm tổ mỗi năm ở đông nam đảo Queensland nhưng nay chỉ còn 300-500 con. Sự đe dọa của cá mập chỉ là thứ yếu so với những ảnh hưởng từ hoạt động của con người. Minh Thi (theo ABC Online)
|
|
|
Post by Robot on Nov 23, 2004 14:26:23 GMT -5
Khám phá thế giới mới dưới đại dương Con cá bống này từ Guam sống cộng sinh với một con tôm. Khoảng 13.000 loài động vật biển mới đã được phát hiện trong năm qua, một hiệp hội khoa học quốc tế vừa thông báo. Cuộc điều tra sinh vật biển (COML) cũng tìm ra lộ trình di cư từng được xem là bí ẩn của các loài như cá ngừ và cá mập. Dự án COML kéo dài 10 năm, trị giá 1 tỷ đôla, nhằm mục đích xây dựng hệ cơ sở dữ liệu khổng lồ, với sự tham gia của hàng trăm nhà nghiên cứu đến từ hơn 70 quốc gia. Những thông tin thu được sẽ giúp ích cho công tác bảo tồn và hoạch định chính sách nghề cá trong tương lai. Hơn 80.000 mẫu vật được thu thập trong một cuộc thám hiểm tới dãy núi giữa Đại Tây Dương. "Chúng ta mới chỉ hớt được lớp váng trên bề mặt", tiến sĩ Ron O'Dor, trưởng nhóm điều tra có trụ sở ở thủ đô Washington, Mỹ, nhận định. "Chúng ta đã biết được đôi chút về khoảng 100 mét nước đầu tiên, nhưng lại hầu như không có thông tin gì nằm ở dưới độ sâu đó". Trong 12 tháng qua, thông tin từ cuộc điều tra đã tăng lên theo cấp số nhân. "Các phân tích của chúng tôi cho thấy nếu ta bắt được một con cá dưới độ sâu 2.000 mét, thì có đến 50% khả năng đó là một loài mới cho khoa học", Ron O'Dor nói. Một số mẫu đã thu được vào lưới, đếm và phân loại. Số khác được gắn thẻ và theo dõi. Đôi khi, người ta có thể thấy những hệ thống khổng lồ hình bánh rán, là nơi tập hợp các sinh vật sống dưới đáy sâu. Những chiếc "bánh rán" như vậy có đường kính tới 10 km và nằm sâu hàng nghìn mét dưới mặt biển. Một vài loài sinh vật kỳ quái ẩn nấp dưới sâu. Các chuyên gia ước tính khoảng 230.000 loài sinh vật biển đã được biết đến, hầu hết là các dạng sống tí hon, nhưng cũng có những loài khổng lồ như cá voi. Con số thực có thể lên đến 2 triệu loài. Chỉ riêng cá biển, COML đã phát hiện trung bình mỗi tuần hơn 2 loài mới, nâng tổng số các loài cá lên 15.482. Các chuyên gia hy vọng vào thời điểm dự án COML kết thúc vào năm 2010, con số cuối cùng sẽ là khoảng 20.000 loài. Khoảng 90% sinh khối của đại dương là từ các vi sinh vật biển. Tuy nhiên, khối lượng của các loài cá cũng chỉ chiếm phần nhỏ so với các dạng sống tí hon dưới biển. Cuộc điều tra đã tìm thấy hơn 6.800 loài động vật phù dù, là những loài tí hon trôi dạt theo hải lưu. Còn vi khuẩn - những loài nhỏ nhất - chiếm đến hơn 90% sinh khối của đại dương. Các nhà khoa học tin rằng kiến thức về dạng sống này dưới biển sẽ giúp ích trong việc hiểu rõ hơn sự biến đổi khí hậu, vì chính những sinh vật tí hon có vai trò quyết định trong việc hấp thụ CO2 từ khí quyển. Cuộc điều tra cũng cho thấy những cuộc di cư khổng lồ phổ biến hơn nhiều so với chúng ta tưởng. "Cá ngừ lớn được gắn thẻ ở California bơi tới tận Nhật Bản, rồi lại lộn trở về California", O'Dor nói. "Chúng từng được biết đến với khả năng bơi qua Đại Tây Dương, nhưng Thái Bình Dương thì rộng gấp 3 lần như thế". Trong khi đó, những con rùa xanh đeo thẻ gần xích đạo lại di chuyển thành từng đàn lớn xung quanh Thái Bình Dương, khoảng 3 lần trong cuộc đời lang thang gần như bất tận của chúng. Một thử thách khác của các nhà nghiên cứu là lập bản đồ dưới đáy biển. Khoảng 14.000 đỉnh đã được khám phá, nhưng chỉ 250 trong số chúng được nghiên cứu. Chúng giống như những hòn đảo, ở đó có các loài mà không đâu khác có. Thuận An (theo BBC, Reuters)
|
|