|
Post by Oshin on May 26, 2004 17:01:12 GMT -5
Tâm thần - yếu tố quan trọng của sức khoẻ
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế Thế giới, sức khỏe không chỉ là không bệnh tật mà còn là một trạng thái thoải mái về thể chất, tâm thần và xã hội. Như vậy, tâm thần là một trong 3 yếu tố quyết định sức khoẻ.
Tâm lý (psychologic) là quá trình phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người (bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí...), biểu hiện trong ứng xử. Còn tâm thần (psychic) là tình cảm và suy nghĩ của con người trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Những ảnh hưởng tiêu cực của cuộc sống có thể gây những biến đổi (khi tác động ít) hoặc rối loạn (khi tác động mạnh) về tâm thần. Những biến đổi đó biểu hiện ở trạng thái mệt mỏi thoáng qua, hoặc những rối loạn thường xuyên biểu hiện dưới dạng stress. Thuật ngữ "stress" được Hans Selye (1907-1982), nhà sinh lý học người Canada gốc Áo, đưa ra vào năm 1936 để mô tả một tình trạng cố gắng quá mức chịu đựng.
Nguyên nhân gây stress rất nhiều và đa dạng, bao gồm chấn thương tâm thần (biến động trong đời sống, kết quả học hành, thi cử...), chấn thương thực thể (phẫu thuật, ngộ độc nặng), biến động xã hội (chiến tranh), môi trường sống (thiên tai, nhiều tiếng ồn, công việc căng thẳng...). Ngay lúc cơ thể bị tác động bởi những yếu tố kể trên, ở vùng tuyến yên của đại não sẽ xảy ra một "phản ứng báo động", gây mất cân bằng tâm - sinh lý, làm tim đập nhanh, tăng hô hấp và co thắt các động mạch.
Một stress nhẹ có thể đóng vai trò tích cực vì sẽ giúp cá thể thích nghi với hoàn cảnh mới; nhưng nếu stress nặng và kéo dài thì sẽ gây nhiều rối loạn phức tạp. Vì sao? Bởi stress luôn ảnh hưởng đến nhiều hoạt động chức năng của cơ thể (nội tiết, thần kinh thực vật, đời sống mô và tế bào...), từ đó gây ra những triệu chứng ở các vị trí rất khác nhau tùy thuộc từng cá thể. Thường gặp nhất là rối loạn tiêu hóa, làm co mạch máu nuôi dưỡng niêm mạc dạ dày và lâu dài có thể dẫn đến loét dạ dày. Stress nặng và kéo dài sẽ gây thiếu máu, làm thoái hóa rồi hoại tử mô, dẫn đến chảy máu, thậm chí rách vỡ tạng trong cơ thể.
Có rất nhiều bệnh liên quan đến stress nặng như tim mạch (cơn đau thắt tim, nhồi máu cơ tim, cao huyết áp), tiêu hóa (táo bón, tiêu chảy, viêm đại tràng mạn), da liễu (eczéma, rụng tóc), nội tiết (suy tuyến thượng thận mạn), phụ khoa (rối loạn kinh nguyệt). Stress cũng gây những cơn đau hoặc thể trạng khó chịu do rối loạn thần kinh thực vật (hồi hộp, lo âu, ngất xỉu, mất ngủ, chán ăn, lú lẫn tâm trí).
Để điều trị stress, đầu tiên, bạn phải xem xét lại toàn bộ cuộc sống thường ngày và trong thời gian dài, cách sinh hoạt thể lực và tâm thần của mình. Bạn phải nhận biết đầy đủ các nguyên nhân có thể gây stress (đã nêu trên) để phát hiện đúng nguồn gốc vì chỉ khi nào "trị đúng căn thì mới tiệt bệnh". Bạn cần:
- Biết rõ mình muốn gì (để không làm những việc thừa, tránh suy nhược thể lực; không nghĩ những việc thừa, tránh mệt óc).
- Biết rõ mình mệt mỏi (hoặc stress) vì nguyên nhân gì (để trị đúng căn).
- Biết thư giãn (nghỉ dưỡng, tĩnh tâm) nhiều lần trong ngày, nhiều ngày trong tháng, nhiều tháng trong năm.
- Biết rõ mục tiêu của bản thân trong từng thời đoạn (ngày, tuần, tháng, năm) để hoàn tất.
- Biết làm chủ tình cảm, được không quá vui, mất không quá buồn.
- Biết kỹ năng tư duy để ra những quyết định đúng (đúng người, đúng lúc, đúng chỗ ).
- Biết tăng sức đề kháng của cơ thể về cả thể lực lẫn tâm thần: tập thể dục, chơi thể thao, tập thiền, yoga.
GS Trần Phương Hạnh, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 17:09:54 GMT -5
Bệnh tự kỷ ở trẻ Con cái phát triển bình thường là mong muốn của tất cả các bậc cha mẹ
Tự kỷ là một dạng bệnh trong nhóm rối loạn phát triển thâm nhập ảnh hưởng đến nhiều mặt của sự phát triển, trong đó nhiều nhất là về kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội. Tự kỷ được chia làm 2 loại: tự kỷ điển hình (tự kỷ bẩm sinh), tự kỷ không điển hình (mắc sau 3 tuổi).
Ðể phát hiện sớm tự kỷ ở trẻ cần dựa vào các triệu chứng sau:
Các triệu chứng không đặc hiệu (trước 12 tháng tuổi):
- Trẻ khó ngủ, khóc nhiều, khó dỗ dành hay bị cơn đau quặn bụng do đầy hơi hoặc khó chịu không lý do.
- Trẻ thờ ơ, yên lặng, dường như thích ở một mình, ít đòi hỏi được cha mẹ chăm sóc.
- Khả năng tập trung kém: không chú ý hoặc không tập trung như các trẻ cùng tuổi khác.
Các triệu chứng đặc hiệu (sau 12 tháng tuổi):
- Không phản xạ với âm thanh.
- Ít hoặc không cười trong giao tiếp không lời (không hoặc ít bặp bẹ ).
- Khó tham gia vào các trò chơi.
- Các tác động qua lại bằng phát âm, hoạt động giảm.
- Hành vi quan sát bằng mắt kém (quay đi, tránh không nhìn chằm chằm, ánh mắt đờ đẫn trống vắng hoặc chán không nhìn...).
- Giọng nói và âm thanh lặp đi lặp lại đơn điệu.
- Bị cuốn hút mạnh mẽ với một vật nhất định.
Phương pháp điều trị:
Chữa bệnh tự kỷ là tìm cách phục hồi chức năng bằng huấn luyện các kỹ năng giao tiếp bằng huấn luyện về hành vi (chẳng hạn hội nhập về âm nhạc), huấn luyện điều hòa các giác quan (hướng dẫn nhìn, quan sát)... tốt nhất là thông qua các trò chơi.
Không có thuốc điều trị tự kỷ nhưng có thể dùng một số thuốc để giảm những biểu hiện đặc trưng như hung hãn, co giật, tăng động, hành vi bị ám ảnh, lo lắng...
Tóm lại, để phục hồi chức năng một cách hiệu quả cho trẻ bị tự kỷ, các bậc cha mẹ cần phát hiện sớm những bất thường để đưa trẻ đi khám, chữa trị ngay. Việc chữa trị cần phối hợp giữa bác sĩ nhi khoa, bác sĩ tâm lý, nhà tâm thần học, chuyên gia ngôn ngữ, kỹ thuật viên hoạt động trị liệu, giáo viên đặc biệt và cha mẹ trẻ.
(Theo BS Hạnh - SK&ĐS)
|
|
|
Post by Oshin on Jun 17, 2004 16:02:02 GMT -5
Muốn trí óc minh mẫn, hãy học hai ngôn ngữ
Thông thạo hai thứ tiếng từ nhỏ dường như giúp cho trí não bạn trẻ lâu hơn. Nghiên cứu của các nhà khoa học Canada mới đây chứng tỏ việc chuyển đổi thường xuyên giữa hai ngôn ngữ sẽ giúp não bộ mềm dẻo hơn, ngăn ngừa chứng chậm chạp thần kinh sinh ra do tuổi tác.
Giáo sư Ellen Bialystok thuộc Đại học York ở Toronto và cộng sự đã kiểm tra sự minh mẫn ở những người cao tuổi, biết tiếng Anh và tiếng Pháp (hoặc tiếng Tamil). Họ nhận thấy những người nói hai thứ tiếng có tư duy nhanh nhạy hơn so với những người lớn lên chỉ với một ngôn ngữ duy nhất.
Nhóm nghiên cứu đã kiểm tra 104 người trung niên (tuổi từ 30 đến 59) và 50 người già hơn (tuổi từ 60 đến 80) nói một hoặc hai thứ tiếng. Nghiên cứu không kể đến những người học giỏi ngôn ngữ thứ hai ở nhà trường, tức là chỉ ở giai đoạn sau của cuộc đời. Họ được tham gia một test có tên gọi Simon Task, nhằm đo thời gian phản ứng với những nhiệm vụ nhận thức, chẳng hạn cho biết khi nào trên màn hình máy tính xuất hiện một hình vuông có màu.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, những người trẻ hơn và những người già hơn nhưng sử dụng song ngữ đều thực hiện thí nghiệm nhanh hơn.
"Chúng tôi so sánh những nhóm người gần như giống nhau. Họ được hấp thụ cùng một nền giáo dục, ghi điểm gần như trùng nhau ở những bài test nhận thức, có kết quả kiểm tra trí nhớ tương tự và cùng được một số điểm trong những bài kiểm tra về từ vựng tiếng Anh", Bialystok nói. Sự khác biệt ở đây là một nửa trong số họ ngoài việc nói tiếng Anh khi ra xã hội, họ còn sử dụng tiếng Pháp (hoặc tiếng Tamil) lúc ở nhà. Và cả hai ngôn ngữ này họ đều thành thạo khi còn nhỏ.
Theo các nhà nghiên cứu, ở những người thông thạo hai thứ tiếng, quá trình lão hoá não bộ khi về già chậm lại đáng kể so với những người chỉ nói một thứ tiếng.
Công trình của Bialystok không kể đến những người học ngôn ngữ thứ hai ở nhà trường, nhưng tác giả cũng tin rằng việc học thêm các thứ tiếng mới có thể sẽ rất tốt cho não. "Ngoại ngữ lúc nào cũng tốt, càng nhiều càng tốt", bà nói.
B.H. (theo ABConline)
|
|
|
Post by Robot on Jun 19, 2004 3:24:17 GMT -5
Cách ăn uống để có trí nhớ tốt
1. Không nên bỏ bữa vì bỏ bữa làm đường trong máu thấp, não không đủ năng lượng để làm việc dẫn đến tình trạng mất tập trung. Ngoài ra, cần chú ý đến chất lượng bữa ăn, phải đầy đủ tinh bột, thịt, cá, rau, đậu...
2. Nên dùng các loại dầu thực vật như dầu mè, dầu đậu nành, dầu hướng dương vì chúng rất tốt cho các hoạt động của hệ thần kinh.
3. Nên uống thêm 1-2 ly sữa mỗi ngày vào các bữa phụ và bữa tối trước khi ngủ để tăng thêm năng lượng và dinh dưỡng. Sữa giúp bạn duy trì sức khỏe, bền bỉ và tránh được cảm cúm, suy nhược, rối loạn tiêu hóa.
4. Để có trí nhớ tốt, còn phải lưu ý đến ngủ, nghỉ ngơi đầy đủ, xen kẽ với vận động thể lực tốt và có phương pháp học tập, tư duy hợp lý. Tránh học dồn, đợi gần đến kỳ thi mới thức khuya học, hoặc lạm dụng các chất kích thích như trà, cà phê, thuốc lá.
N.A
|
|
|
Post by Oshin on Jul 20, 2004 12:04:32 GMT -5
Vitamin B3 giúp chống lại bệnh Alzheimer
Thức ãn giàu vitamin B3 rất tốt, giúp chống lại bệnh Alzheimer.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ công bố ngày 18.7, vitamin B3 (niacin) có thể giúp bảo vệ cõ thể chống lại cãn bệnh nguy hiểm và chýa có thuốc chữa Alzheimer. Niacin rất phổ biến trong các loại thực phẩm nhý thịt, cá, trứng, các loại ðậu và sản phẩm làm từ sữa. Nghiên cứu thực hiện trên 815 ngýời có tuổi cho thấy, những ngýời có chế ðộ dinh dýỡng giàu niacin ðýợc bảo vệ tốt hõn ðối với bệnh Alzheimer và chứng suy giảm nhận thức theo tuổi tác. Trong số ðó, những ngýời sử dụng ít niacin nhất (khoảng 12,6mg/ngày) có tỉ lệ mắc bệnh Alzheimer cao hõn 80% so với những ngýời dùng khoảng 22,4mg niacin/ngày. A.H (Theo HT) Trà dýợc an thần
Tâm sen 2 g, cam thảo sống 3 g sấy khô, tán vụn, hãm với nýớc sôi trong bình kín chừng 15-20 phút. Loại trà này dành cho ngýời bị mất ngủ có ðánh trống ngực, lòng bàn tay, bàn chân có cảm giác nóng nhý có lửa ðốt, miệng khô họng khát, niêm mạc miệng viêm loét, tinh thần buồn phiền bất an.
Một số loại trà dýợc chống mất ngủ khác:
- Toan táo nhân sao thõm, mỗi ngày sau bữa cõm tối lấy chừng 15-30 g hãm với nýớc sôi trong bình kín, sau khoảng 15-20 phút thì dùng ðýợc, uống thay trà. Có thể hòa thêm một chút ðýờng trắng cho dễ uống. Dùng cho những ngýời bị mất ngủ, thể chất suy nhýợc, hay vã mồ hôi, trong lòng có cảm giác bồn chồn không yên, hồi hộp trống ngực, giấc ngủ không sâu, mê mộng nhiều.
- Nấm linh chi thái nhỏ, nghiền vụn, mỗi ngày dùng 3 g, hãm với nýớc sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng ðýợc, uống thay trà trong ngày. Dùng cho những ngýời bị mất ngủ có kèm theo tãng huyết áp, bệnh tim, bệnh gan, ho hen, thể chất hý nhýợc.
- Cành và lá lạc týõi rửa sạch, phõi hoặc sấy khô, mỗi ngày lấy 30 g sắc với 400 ml nýớc, cô còn một nửa, chế thêm một chút ðýờng phèn, chia uống 2 lần trong ngày, 7 ngày là một liệu trình. Dùng cho những ngýời bị mất ngủ có kèm theo ðau ðầu, chóng mặt, hay mê mộng, dễ cáu giận, trong lòng bồn chồn không yên, có thể có tãng huyết áp.
- Ðãng tâm thảo 5 g, lá tre týõi 30 g. Hai thứ cho vào bình kín, hãm với nýớc sôi, sau chừng 20 phút thì dùng ðýợc, uống thay trà trong ngày. Thýờng dùng cho những ngýời bị mất ngủ do mắc các bệnh có sốt cao khiến cho môi khô miệng khát, tâm thần bất ðịnh, mê sảng, bồn chồn không yên, ðại tiện táo, tiểu tiện khó.
- Phục thần 100 g, táo nhân 100 g. Hai vị thuốc tán vụn trộn ðều, mỗi ngày lấy 50 g cùng với bột chu sa 1 g (gói trong túi vải) hãm với nýớc sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng ðýợc, uống thay trà trong ngày. Dùng cho ngýời bị mất ngủ do tâm khí bất túc, tim ðập nhanh, dễ hồi hộp, trí nhớ giảm sút.
- Ngũ vị tử, kỷ tử và toan táo nhân lýợng bằng nhau, sấy khô, tán vụn, trộn ðều, mỗi ngày lấy 6 g hãm với nýớc sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng ðýợc, uống thay trà trong ngày. Dùng cho những ngýời bị mất ngủ sau khi mắc bệnh, ðầu choáng mắt hoa, trí nhớ suy giảm, giấc ngủ không sâu, nhiều mộng mị.
- Mỗi ngày lấy 60 g tang thầm (quả dâu chín) và 20 g mật ong hãm với nýớc sôi trong bình kín, sau 20 phút thì dùng ðýợc, uống thay trà trong ngày. Dùng cho những ngýời bị mất ngủ có kèm theo thiếu máu, râu tóc sớm bạc, ðầu choáng mắt hoa, trí nhớ giảm sút, ðại tiện táo kết...
BS. Hoàng Mai, Sức Khỏe & Ðời Sống
|
|
|
Post by Oshin on Jul 20, 2004 12:44:01 GMT -5
Con bạn có mắc bệnh tự kỷ?
Tự kỷ là một khiếm khuyết thần kinh ảnh hýởng ðến khả nãng hiểu, giao tiếp, ngôn ngữ, chõi và týõng tác xã hội với ngýời khác. Rối loạn thýờng gặp ở trẻ em với tỉ lệ khoảng 1/500 trẻ ðýợc sinh ra, trẻ trai bị nhiều gấp 4 lần so với trẻ gái.
Ở VN bệnh chỉ mới ðýợc quan tâm gần ðây. Việc phát hiện sớm ðể có can thiệp kịp thời sẽ giúp cải thiện ðáng kể tình trạng bệnh, tuy vậy bệnh rất khó nhận biết và chẩn ðoán trýớc 3 tuổi.
Nhằm giúp bạn ðọc hiểu rõ hõn về cãn bệnh này, chúng tôi ðã có cuộc trao ðổi với một số chuyên gia trong ngành.
Những dấu hiệu của bệnh tự kỷ?
Tùy ngýời mà có những biểu hiện khác nhau, tuy nhiên có vài ðặc ðiểm chung nhý sau: Những dấu hiệu rất sớm của bệnh là tự thu mình, không quan tâm ðến ngýời khác, không thích chõi chung với trẻ cùng tuổi vì chủ ðộng tránh những ðứa trẻ này. Không biết chõi các trò chõi bắt chýớc, những cố gắng ðể lôi cuốn sự chú ý của trẻ ðều vô ích. Bé có vẻ không cần mẹ, không tỏ vẻ trìu mến khi ðýợc cýng chiều, ít khóc, bé rất ngoan, "quá" ngoan.
Khó khãn khi hiểu và sử dụng ngôn ngữ. Chõi khác thýờng với ðồ chõi. Quá hay kém nhạy cảm với tiếng ðộng, nhìn, nếm sờ hoặc... ngửi. Có thái ðộ thách thức nhý hung hãng, tự gây tổn thýõng hoặc rút lui trầm trọng. Không chỉ ðýợc ðồ vật bằng ngón tay trỏ.
Bé trở nên cứng ðõ khi ðýợc bế trên tay, ðôi khi rất phản ứng với môi trýờng xung quanh và rất cáu gắt...
Việc phát hiện khi nào ðýợc coi là sớm?
Phát hiện sớm ðể có can thiệp kịp thời là yếu tố quan trọng giúp trẻ sớm hòa nhập cộng ðồng.
- Ở giai ðoạn 6 tháng ðầu ðời: nếu trẻ có những biểu hiện nhý không ðòi hỏi gì, có vẻ không quan tâm ðến mẹ, không cýời, không bập bẹ, không trao ðổi qua ánh mắt nhý ở trẻ vài tuần tuổi, không thích thú trò chõi. Trẻ thýờng thiếu trýõng lực và thiếu sự chuẩn bị tý thế khi ngýời lớn nghiêng về phía trẻ với 2 bàn tay ðýa ra ðể bế trẻ. Trẻ không ðòi bú và có thể bỏ một bữa ãn mà không biểu lộ gì.
- Ở trẻ từ 6 -12 tháng: trẻ không trìu mến, khi ðýợc bế trên tay trẻ lạnh lùng hoặc cứng ðờ, tay chân không quắp chặt vào mẹ mà bỏ buông thõng. Không phản ứng với sự hiện diện hay vắng mặt của bố mẹ, trẻ không biết gọi, không có sự giao tiếp bằng lời hoặc không lời. Trẻ không ðáp khi ðýợc gọi tên. Trýớc những kích thích có thể trẻ phản ứng rất mạnh hoặc không phả ứng. Thýờng cãm ghét thức ãn ðặc. Không bập bẹ lúc 12 tháng, không vẫy tay chào, không nói ðýợc từ nào lúc 16 tháng và câu gồm 2 từ khi 24 tháng.
- Ở trẻ 2 - 3 tuổi: Trẻ luôn dửng dýng với các giao tiếp xã hội, tránh cái nhìn của ngýời khác và thýờng từ chối sự tiếp xúc của cõ thể. Trẻ giao tiếp hay cử ðộng bằng cách lay ðộng bàn tay của ngýời lớn. Trẻ có những hành vi thoái hóa nhý ðu ðýa và liếm một số ðồ vật một cách chậm chạp và lặp lại, cố ðịnh những chi tiết thị giác nhý tự nhìn bàn tay ðang cử ðộng hoặc những ðồ vật xoay tròn, ðong ðýa, trẻ có những cử ðộng ðặc biệt nhý tự nhiên vỗ tay, ði nhón gót, lắc ðầu, tự xoay tròn mà không chóng mặt...
|
|
|
Post by Oshin on Jul 20, 2004 12:45:14 GMT -5
Nguyên nhân có phải do ngýời mẹ?
Một số ngýời, ngay cả bác sĩ ở những lãnh vực khác khi khám cho trẻ ðã ðổ lỗi cho ngýời mẹ. Nhận ðịnh sai lầm này ðã ðẩy ngýời mẹ vào tâm trạng luôn dằn vặt mình, cộng với tình trạng bệnh của con ðã khiến ngýời mẹ mắc bệnh trầm cảm. Tình trạng bệnh của ngýời mẹ lại tác ðộng trở lại ðứa con khiến bệnh trẻ càng nặng thêm.
Qua các nghiên cứu cho thấy: Cha mẹ không gây nên bệnh tự kỷ cho con, không có yếu tố nào trong lối sống của cha mẹ có trách nhiệm về bệnh tự kỷ của con.
Chýa ai biết ðýợc nguyên nhân gây tự kỷ. Một số nhà khoa học cho rằng ðó là do một trong các yếu tố sau ðã tạo nên bệnh: Yếu tố di truyền hoặc do rối loạn về số lýợng hoặc cấu trúc của những nhiễm sắc thể X, Y, 15,11, 18.... Tỉ lệ tự kỷ ở anh em ruột là 2-6% (gấp 50 lần so với dân số chung), ở anh em sinh ðôi cùng trứng là 36%; yếu tố tổn thýõng não; yếu tố miễn dịch; yếu tố giải phẫu thần kinh; yếu tố sinh lý thần kinh...
Tuy nhiên qua nghiên cứu cho thấy môi trýờng tâm lý - xã hội nghèo nàn, thiếu thốn tình thýõng, cảm xúc cũng là một trong những nguyên nhân gây nên bệnh. Một số trýờng hợp do bận rộn nên cha mẹ ðã phó thác con cho ngýời giúp việc hoặc bà con nuôi giùm.
Mặt khác, những trẻ bị týớc ðoạt môi trýờng tình cảm - tâm lý trong nhiều nãm liền khiến trở nên bị chậm phát triển nặng, nếu sau ðó ðýợc giải thoát khỏi môi trýờng bất lợi này và ðýợc nuôi dýỡng trong một môi trýờng khác lành mạnh, an toàn hõn, ðýợc yêu thýõng, chãm sóc tốt hõn vẫn có thể phục hồi và phát triển bình thýờng trở lại.
Các khiếm khuyết về trí tuệ và nhận thức?
Hầu hết trẻ tự kỷ ðều có chậm phát triển trí tuệ, khoảng 40% - 60% có chỉ số IQ dýới 50. Chỉ khoảng 20% - 30% có IQ trên 70. Trẻ tự kỷ có IQ thấp thýờng kèm theo các khiếm khuyết về kỹ nãng quan hệ xã hội và có nhiều lệch lạc nhý sờ mó hoặc ngửi ðồ vật và ngýời khác, có nhữäng hành vi ðịnh hình và tự gây thýõng tích bản thân.
Khác biệt gì giữa trẻ chậm phát triển tâm thần với trẻ tự kỷ?
Khác với trẻ chậm phát triển tâm thần, tình trạng chậm phát triển của trẻ tự kỷ vẫn chừa lại những ''khoảng” trí tuệ bình thýờng hoặc gần nhý bình thýờng. Trẻ tự kỷ thýờng có khả nãng trội về thao tác bằng tay và kỹ nãng thị giác- không gian, trong khi lại rất kém ở các kỹ nãng ðòi hỏi sự suy nghĩ trừu týợng hoặc trình tự logic.
Những diễn tiến khác nhau của bệnh?
11% - 22% thoái triển toàn bộ ở tuổi thiếu niên; 7%-28% không tổn thýõng thần kinh nhýng xuất hiện cõn ðộng kinh lần ðầu vào tuổi thiếu niên; 5% - 17% có kết quả tốt về thích nghi xã hội, có thể ði học, ði làm; 61%-74% có kết quả kém, vẫn thiểu nãng, sống phụ thuộc vào ngýời khác; 39%-74% phải ðiều trị và chãm sóc nội trú.
Ngay khi phát hiện con mình có những biểu hiện của rối loạn tâm lý hành vi cần ðýa ngay tới các ðõn vị sau ðể ði khám và tý vấn cách ðiều trị phù hợp. Ðừng nghĩ rằng con mình còn quá bé ðể tiến hành can thiệp.
- Bệnh viện Nhi Ðồng 1.
- Bệnh viện Nhi Ðồng 2.
- Chi hội tâm lý giáo dục Trãng Non: 29 Phan Xích Long, quận Phú Nhuận.
Nam Phýõng (KHPT)
|
|
|
Post by Robot on Oct 27, 2004 7:29:27 GMT -5
Trà giúp ngăn ngừa bệnh Alzheimer
TTO - Những thử nghiệm cho thấy uống trà đều đặn có thể giúp ức chế hoạt động của một số enzyme trong não dẫn đến bệnh mất trí Alzheimer.
Các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Dược thảo tại Đại học Newcastle (Anh) đã thử nghiệm cà phê và trà xanh lẫn trà đen và nhận thấy trà ức chế họat động của enzyme acetylcholinesterase (AChE) là chất có thể phá vỡ chất truyền dẫn thần kinh acetylcholine.
Ngoài ra, trà xanh và trà đen cũng ngăn chận hoạt động của enzyme butyrycholinesterase (BuChE), được tìm thấy trong cặn protein trong não bệnh nhân Alzheimer.
Tuy nhiên trà xanh dùng một mình có một ảnh hưởng khác nữa, đó là ngăn cản hoạt động của beta-secretase, thứ nắm vai trò trong việc sản xuất cặn protein trong não có liên quan với bệnh Alzheimer. Các nhà khoa học nhận thấy tác dụng của trà xanh kéo dài một tuần, so với một ngày của trà đen.
Q.HƯƠNG (Theo Herald Sun)
|
|
|
Post by Robot on Dec 15, 2004 11:11:49 GMT -5
Mười mùi giúp xác định chứng mất trí
Chanh là một trong mười mùi giúp xác định sớm những người có thể bị chứng mất trí, Alzheimer TTO - Đó là mùi của chanh, cây tử đinh hương, hành - tỏi, da, thuốc lá, bạc hà, dứa, gas tự nhiên, xà phòng và dâu. Những người có thể bị Alzheimer sẽ rất kém trong việc xác định 10 mùi này.
Các nhà khoa học đã biết việc không xác định mùi là một trong những điều đầu tiên xuất hiện ở bệnh nhân bị chứng mất trí. Để xác định rõ điều này, bác sĩ Davangere Devanand và các chuyên gia ở ĐH Columbia tiến hành kiểm tra trên 150 bệnh nhân bị suy giảm nhận thức ở mức độ nhẹ (MCI) và so sánh với 63 người lớn tuổi hoàn toàn khỏe mạnh.
Các chuyên gia nhận thấy những người xác định mùi kém là những người bị bệnh Alzheimer. So với những người MCI nhưng không phát triển thành bệnh mất trí và 63 người lớn tuổi, những người bị MCI có khả năng phát triển thành chứng mất trí nhận mùi kém hơn.
Phát hiện này cho thấy có thể sử dụng phương pháp kiểm tra mùi như là một công cụ dự báo sớm nguy cơ bị chứng mất trí. "Nhận biết bệnh sớm rất cần thiết cho bệnh nhân và thân nhân để họ có phương pháp điều trị và dùng thuốc điều trị hiệu quả", bác sĩ Davangere Devanand cho biết.
Mặc dù rất nhiều chuyên gia cảm thấy rất thú vị với phát hiện này, nhưng họ cho biết thêm là nên kết hợp kiểm tra khả năng xác định mùi với kiểm tra trí nhớ, kiểm tra di truyền học và chụp scans hình não để cho ra kết quả chính xác nhất.
T.L (Theo BBC News, Reuters)
|
|
|
Post by Robot on Jan 3, 2005 8:27:46 GMT -5
Nghịch lý về những người tự kỷ thông thái
Tự kỷ, mức độ cao nhất của bệnh tâm thần phân liệt, là một chướng ngại nặng nề cho cuộc sống. Trẻ tự kỷ chậm phát triển tâm thần, thường gào khóc, đập đầu vào tường... Nhưng gần 10% trong số họ có tài năng phi thường về nhạc, họa, điêu khắc, tính toán... dù họ không hề được học hay luyện tập.
Một trong số hàng nghìn bức tranh của Richard Wawro. Bạn chỉ cần nêu tên một nốt nhạc, Pauline sẽ xướng âm mấy nốt ấy chính xác như một nhạc cụ hoàn hảo. Chỉ cần nghe qua một lần hợp âm được thể hiện bởi piano, Pauline sẽ nêu tên các nốt nhạc tạo nên hợp âm ấy. Từ khi còn bé, Pauline đã sớm bộc lộ năng khiếu hiếm thấy này, điều mà mọi nhạc sĩ thường mơ ước, tức là có tai nhạc tuyệt đối. Tuy vậy, cô bé chưa bao giờ theo học một lớp nhạc nào.
Liệu có mấy người có khả năng liệt kê danh sách tất cả các loài dơi, cùng với tên khoa học và những đặc điểm của chúng, mà chưa hề đọc đến những loại tài liệu này? Thế mà với em Esperance, 7 tuổi, việc ấy chỉ là một trò trẻ con! Cô bé này còn biết tên các loài chim, côn trùng và một số loài vật khác. Lúc lên 5, cô bé đã vẽ loài vật một cách sinh động. Chỉ cần một lần nhìn qua, Esperance có thể vẽ phác bất kỳ con vật nào.
Ở tuổi 12, Denis bộc lộ một khả năng lạ: như một quyển lịch sống. Hỏi em ngày 15/2/1982 là ngày thứ mấy trong tuần, hay tháng nào thuộc năm nào trong 20 năm qua, em sẽ trả lời ngay như được lập trình sẵn trong óc.
Khó thể phủ nhận các trẻ nói trên là những thần đồng, nhưng điều đáng nói ở đây: những em ấy đều mắc chứng tự kỷ, nói chính xác hơn là những người tự kỷ thông thái. Chứng rối loạn tâm thần này khiến người bệnh trở nên trơ trơ, không quan tâm đến cuộc sống chung quanh, phát triển cao độ đời sống nội tâm, tự khép kín. Với họ, người khác không hiện diện. Do vậy, họ chậm nói hay không nói, rối loạn ngôn ngữ, khó đọc...
Nhưng trái với định kiến, không phải trẻ tự kỷ nào cũng chậm phát triển tâm thần, giam mình trong sự thinh lặng hết cách cứu chữa. Một số người không bao giờ mở miệng nói, nhưng một số khác (như những người mắc hội chứng Asperger) lại diễn đạt hay và đôi khi tỏ ra khôn trước tuổi.
Người tự kỷ thường có trung tâm chú ý hạn chế, cử động kém kiểm soát và một sự cố nhỏ bất kỳ cũng có thể gây cho họ stress nặng nề. Chẳng hạn một nốt nhạc lạc điệu hoặc tác dụng Larsen (gây tiếng rít) của một micro khiến Pauline lên cơn: em bịt tai và đập đầu vào tường. Còn Esperance hiện vẫn chưa biết gài nút áo hay ăn đúng cách ở bàn, em học đọc khó khăn. Denis giỏi về tính ngày tháng là thế, lại chỉ hiểu một số lệnh đơn giản của cuộc sống hằng ngày.
Lạ thay, gần 10% những người tự kỷ có những khả năng phi thường trong một lĩnh vực, có thể gọi là nhà bác học, mà không thấy mối quan hệ rõ rệt với trình độ thông minh hay mức độ trầm trọng của rối loạn. Pauline Esperance và Denis nằm trong số này. Khoảng 30% những người tự kỷ bị chậm phát triển, số còn lại có chỉ số thông minh IQ trung bình hoặc trên mức trung bình.
Có một số giả thuyết về khả năng đặc biệt của những người tự kỷ. Giả thuyết đầu tiên cho rằng bán cầu não phải của họ rất phát triển, còn bán cầu não trái bị còi cọc đi. Ý tưởng xem ra khá logic: não phải kiểm soát sự phân tích các hình dạng trong không gian, trí nhớ âm thanh và sự hiểu biết âm nhạc. Đó là những khả năng nổi trội nơi những người tự kỷ thông thái. Não trái kiểm soát sự diễn đạt, thông hiểu ngôn ngữ và trí nhớ cảm xúc, là những nhược điểm nơi những người này.
Năm 1998, nhà nghiên cứu người Mỹ Bruce L. Miller thuộc Đại học California ở San Francisco, người ủng hộ giả thuyết trên, thực hiện một nghiên cứu trên nhiều bệnh nhân cao tuổi mắc một chứng bệnh làm suy giảm các chức năng trí tuệ. Cùng lúc nơi họ đột nhiên xuất hiện những năng khiếu nghệ thuật chưa hề được biểu lộ trước đó. Một số người chưa bao giờ cầm cọ lại có thể sao chép tài tình tranh của các danh họa. Còn những người khác thể hiện những khả năng âm nhạc bất ngờ. Bruce Miller quyết định dùng một camera positon để kiểm tra những gì diễn ra trong đầu của các bệnh nhân này. Ảnh não cho thấy một luồng máu chảy thấp hơn mức bình thường ở thùy thái dương trái. Mà vùng này của vỏ não kiểm soát các cơ cấu của trí nhớ và cảm xúc. Vài tháng sau đó, một nhóm người tự kỷ thông thái cũng trải qua xét nghiệm tương tự, cho thấy có đặc điểm giống như trên.
|
|
|
Post by Robot on Jan 3, 2005 8:28:01 GMT -5
Tuy vậy, một số chuyên viên nhìn sự tương cận ngẫu nhiên ấy theo một hướng khác. Về những vùng phát triển mạnh nơi vỏ não của những người tự kỷ thông thái ấy, phải chăng một hoạt động cật lực đã khiến những vùng phình ra? Giả thuyết này nhận được sự đồng tình rộng rãi vì não của chúng ta có xu hướng trở nên "sành sỏi" trong một lĩnh vực khi được khai thác mạnh về mặt đó. Không cần phải là người tự kỷ hay người có năng khiếu, những đại kỳ thủ có khả năng "nhìn bằng óc" hàng nghìn vị trí của các quân cờ, giúp họ nhận biết trước sự tiến triển của một ván cờ. Theo nhà tâm lý người Mỹ Michel Howe, vấn đề ở đây là do sự luyện tập cật lực mà ra. Sống khép kín, những người tự kỷ có thể đã nghiền ngẫm một lĩnh vực nào đó và lặp đi lặp lại công việc trong một thời gian dài. Có thể như vậy họ phát triển những khả năng đặc biệt.
Nhưng phải giải thích sao đây đối với những trường hợp phát triển ngoạn mục năng lực trong một lĩnh vực mà họ hoàn toàn không được rèn luyện? Như trường hợp cô bé Nadia, người Ukraina, 3 tuổi vẫn chưa biết nói, nhưng vẽ ngựa với vẻ đẹp sinh động khó ngờ. Cặp song sinh Charles và George, tính nhanh và chính xác như một máy tính. Họ không thể giải thích nhờ đâu họ tài tình đến thế: "Chúng tôi không đếm, chúng tôi nhìn". Temple Grandin, một nữ bệnh nhân tự kỷ người Mỹ, nổi tiếng với những bức vẽ kỹ thuật. Với bút chì, cô vẽ lại tức khắc những hình vẽ mà cô quan sát cách chúng hình thành. Não của cô giống như một chiếc máy chụp ảnh. Những người tự kỷ có trí nhớ phi thường ấy nhờ đâu?
Theo chuyên viên thần kinh tâm lý người Canada, Sylvie Belleville, hiện tượng trên liên quan đến "trí nhớ bề mặt" của người tự kỷ. Tức là họ ghi nhớ các từ không theo nghĩa mà theo âm vang. Người tự kỷ xếp từ "phô tơi" trong nhóm từ tận cùng bằng âm "ơi", chứ không xếp trong loại "ghế". Cách giải thích này được sự đồng tình của Laurent Mottron, bác sĩ tâm thần chuyên về tự kỷ thuộc bệnh viện Riviere-des-Prairies ở Montreal: "Đặc điểm này có lẽ do nhận thức về thính giác và thị giác đặc biệt ở một số người tự kỷ. Các nghiên cứu của ông cho thấy những người tự kỷ đạt thành công cao hơn mức trung bình trong nhận biết tần số của một sóng âm thanh (chẳng hạn cao độ của một nốt) hay phân biệt hai tần số rất gần nhau. Họ cũng dễ dàng nhận ra sự biến đổi trường độ của một nốt, dù thay đổi này không làm thay đổi hình thức của giai điệu. Họ cũng dễ dàng nhận ra một yếu tố khác biệt trong danh sách những vật giống nhau (chẳng hạn chữ D trong danh sách dãy chữ O). Công việc này xem ra phức tạp và khó khăn hơn đối với những người không tự kỷ. Vì não của chúng ta quan tâm đến việc 2 vật có thuộc cùng một loại hay không, còn sự chú ý của người tự kỷ thì tập trung trên các chi tiết hơn là một nhận thức toàn thể. Như trường hợp Richard Wawro, 52 tuổi, người Scotland, chậm phát triển tâm thần, nhưng ông vẫn là một họa sĩ kỳ tài nhờ óc quan sát và trí nhớ phi thường. Ông có thể vẽ lại tài tình một cảnh chỉ ngắm một lần. Ông đã bán được hàng nghìn tranh.
Bí ẩn về những người tự kỷ thông thái hẳn còn lâu mới có thể khám phá hết. Dù sao đi nữa, có những khả năng đặc biệt phải chăng cũng là một cách để hướng về người khác, để thông đạt? Cô bé Nadia nói đến ở trên vẽ những chú ngựa tuyệt đẹp vào lúc cô bé chưa biết nói. Nhưng đến 10 tuổi, nói rành rẽ, cô mất năng khiếu này. Một tình tiết thú vị cuối cùng: có người từng đặt câu hỏi "Liệu Einstein có phải là người tự kỷ?" Câu hỏi xem ra có vẻ sỗ sàng. Tuy vậy đó là giả thuyết của một chuyên viên, Simon Baron-Cohen, thuộc ĐH Cambridge. Theo ông, Einstein có thể mắc một dạng bệnh tự kỷ nhẹ: hội chứng Asperger. Rối loạn này không cản trở ông trong việc lập gia đình, có bạn bè thân thiết hoặc có những tranh luận xuất sắc. Nhưng có một số dấu hiệu đáng lưu ý. Nhà bác học này biết nói muộn, lúc 3 tuổi. Lúc nhỏ là đứa bé cô độc, nhút nhát, không kham nổi việc học ở trường, lúc nào cũng thích làm việc một mình và nghiền ngẫm đến cùng những chủ đề mà cậu chú ý. Cậu cũng hay lặp đi lặp lại các câu như bị ám ảnh. Einstein thích các khám phá của ông được thể hiện bằng hình ảnh. Giả thuyết này đúng hay không, khó có thể biết chắc, nhưng ý tưởng một người tự kỷ có thể trở thành một thiên tài được thế giới công nhận là một thông điệp đầy hy vọng.
Kiến thức ngày nay (theo Science & Vie)
|
|
|
Post by Robot on Jan 14, 2005 12:42:43 GMT -5
Bột cari có thể chữa bệnh Alzheimer
Loại hợp chất mang lại màu vàng cho bột cari cũng có thể phá vỡ những chất độc xâm hại bộ não của bệnh nhân Alzheimer.
Các nhà khoa học tìm thấy curcumin, một thành phần của cây nghệ mang lại màu vàng cho bột cari, có thể giảm sự tích tụ của protein beta-amyloid trong não chuột già thường xuyên ăn cây nghệ. Ngoài ra, khi các nhà nghiên cứu bổ sung một lượng curcumin nhỏ vào protein beta-amyloid của con người trong ống nghiệm, hợp chất đã làm cho các protein không kết khối và ngăn chặn sự hình thành sợi tinh bột tạo nên bệnh Alzheimer.
Sự tích tụ protein beta-amyloid trong não là một trong những dấu hiệu của bệnh Alzheimer.
Kết quả đã chứng tỏ bột cari vừa có thể điều trị Alzheimer vừa giảm nguy cơ phát triển bệnh, tác giả nghiên cứu Gregory M. Cole tại Đại học California, Mỹ, nhận định. "Vấn đề cần tìm hiểu chính là cần một lượng bao nhiêu để điều trị bệnh Alzheimer và chúng có thực sự an toàn ở người già?", ông nói.
Từ lâu curcumin đã được sử dụng như một loại thuốc truyền thống ở Ấn Độ, và nay nó đang được nghiên cứu như một liệu pháp tiềm năng điều trị ung thư. Nghiên cứu trên động vật đã cho thấy hợp chất này có thể điều trị bệnh đa xơ cứng và xơ nang.
M.T. (theo Reuters)
|
|
|
Post by Robot on Feb 2, 2005 9:34:56 GMT -5
Chẩn đoán Alzheimer bằng hạt nano
Sử dụng các hạt nano vàng và từ tính có thể giúp bác sĩ phát hiện bệnh Alzheimer ở giai đoạn sớm. Ca phẫu thuật đầu tiên tại Mỹ cho bệnh nhân Alzheimer.
Việc xác định và theo dõi bệnh Alzheimer hiện nay phụ thuộc vào quá trình chụp ảnh não kiểm tra tâm lý. Để chẩn đoán chắc chắn hơn, cách duy nhất là phẫu thuật. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy có thể sử dụng hoá chất sinh học trong cơ thể để chẩn đoán, chẳng hạn như các protein amyloid-beta-derived diffusible ligands (ADDLs).
Theo Dimitra Georganopoulou và đồng nghiệp tại ĐH Northwestern (Mỹ), lượng ADDLs trong dịch não tuỷ là rất nhỏ. Do vậy, nhóm đã phát triển kỹ thuật dò protein nhạy gấp hàng nghìn lần so với phương pháp xét nghiệm thông thường. Kỹ thuật này sẽ đưa các hạt vàng và hạt từ tính nano có gắn kháng thể vào dịch não tuỷ để dính ADDLs. Sau đó chúng đượt hút ra để đếm các protein.
Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp mới đối với dịch não tuỷ của 15 bệnh nhân Alzheimer. Họ dự định sẽ áp dụng phương pháp trên đối với các mẫu máu. Mặc dù mức ADDLs trong não thấp hơn trong dịch não tuỷ song nhóm nghiên cứu tin rằng phương pháp này sẽ thành công.
ADDLs tấn công mối nối giữa các tế bào thần kinh. Do vậy, phát hiện sớm có thể giúp bác sĩ tìm cách ngăn chặn bệnh một cách hiệu quả. Các thí nghiệm sử dụng kháng thể chống lại ADDLs đã đảo ngược tình trạng mất trí ở chuột chuyển gien. Hiện các nhà khoa học đang tìm cách bào chế vắc-xin Alzheimer dựa trên ADDLs.
* Minh Sơn (Theo Newscientist)
|
|