|
Post by Robot on Nov 18, 2004 13:47:09 GMT -5
GIÁM ĐỐC TT NGHIÊN CỨU KINH TẾ MIỀN NAM, ÔNG TRẦN SINH:
“Cần có liên kết bền vững để phát triển vùng ĐBSCL” Nguồn tài nguyên thủy sản là một trong những tiềm năng của ĐBSCL TỐ PHƯƠNG thực hiện
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế bao trùm, chi phối toàn bộ sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Toàn cầu hóa là kết quả sản phẩm của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế ở trình độ cao, chính quá trình này đang đặt ra yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế và tổ chức lại thị trường trên phạm vi toàn cầu và trong từng quốc gia. Để hội nhập kinh tế quốc tế thành công, các quốc gia đều chú trọng nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia của mình dưới 3 góc độ là nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm.
Với Việt Nam, vấn đề đặt ra hiện nay không phải là có hội nhập hay không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế. Thế nhưng hiện nay ta vẫn chưa xây dựng được một chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia, do vậy mà các bộ, ngành địa phương và doanh nghiệp còn lúng túng trong việc xây dựng chiến lược của mình.
Là một vùng kinh tế trọng điểm của khu vực phía Nam, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cũng đang phải đương đầu với những thách thức mới trong quá trình hội nhập. Làm thế nào để vực dậy một vùng kinh tế nông nghiệp giàu tiềm năng? Làm thế nào để phát huy vai trò của vùng lúa và nông sản, thủy sản xuất khẩu lớn nhất cả nước? Đó không chỉ là vấn đề của riêng các nhà doanh nghiệp, mà ĐBSCL đang rất cần một chiến lược cụ thể của các nhà quản lý, xây dựng chiến lược quốc gia về một định hướng phát triển kinh tế xã hội cho vùng đất Chín Rồng này. Người Viễn Xứ đã có cuộc trao đổi với Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam, Viện chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và Đầu tư, ông Trần Sinh, về vấn đề này.
PV: Thưa ông, là một nhà nghiên cứu và xây dựng chiến lược kinh tế, ông đánh giá như thế nào về vị trí, vai trò của ĐBSCL đối với nền kinh tế quốc gia? Ông Trần Sinh, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam, Viện chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch và Đầu tư Ông Trần Sinh: Kết quả của những công trình nghiên cứu, các quy hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách đã khẳng định được vị trí của ĐBSCL đối với cả nước trong thời gian qua. ĐBSCL đã giải quyết được vấn đề gay gắt về tình trạng thiếu lương thực của cả nước trong những năm 1980, đưa nước ta trở thành quốc gia an ninh lương thực, trở thành một trong các nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. ĐBSCL đã có những đóng góp lớn về sản lượng thủy sản và thủy sản xuất khẩu của cả nước, chiếm trên 50% về sản lượng và 60% về giá trị sản xuất thủy sản. Bên cạnh đó, ĐBSCL còn là vùng có tiềm năng lớn về sản xuất cây ăn trái của cả nước, chiếm ¾ về diện tích, 80% về sản lượng. Vùng ĐBSCL đã đóng góp 17,4%GDP của cả nước, riêng giá trị sản xuất nông nghiệp đóng góp 36% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của cả nước.
Như vậy, có thể thấy rằng, ĐBSCL là vùng nông nghiệp lớn về sản xuất lúa gạo, thủy sản và cây trái, có 3 tiểu vùng sinh thái hiếm có của cả nước và thế giới là vùng sinh thái ngập nước nội địa Đồng Tháp Mười, vùng sinh thái rừng U Minh và vùng sinh thái ngập mặn ven biển Đông. Đây là một trong những tiềm năng sinh thái tự nhiên vô giá của ĐBSCL và của nước ta.
ĐBSCL là một trong những vùng có các công trình nghiên cứu, định hướng phát triển, chủ trương chính sách và các dự án được thực hiện nhiều nhất trong thời gian qua. Như Chương trình điều tra cơ bản vùng ĐBSCL được tiến hành trong toàn vùng ĐBSCL trong những năm 1980, đã tiến hành điều tra nguồn tài nguyên tự nhiên và xã hội làm căn cứ cho các công trình nghiên cứu phát triển của vùng ĐBSCL sau này; như Quy họach tổng thể vùng ĐBSCL được thực hiện từ 1989 – 1993, đây là công trình xây dựng chiến lược trên cơ sở sử dụng nguồn tài nguyên đất và nước, và công trình cũng đã hoạch định chiến lược tổng thể phát triển kinh tế, xã hội toàn vùng…Các công trình này đã đưa ra nhiều chương trình, dự án ưu tiên phát triển vùng ĐBSCL và đến nay, nhiều dự án, công trình đã và đang được thực hiện.
|
|
|
Post by Robot on Nov 18, 2004 13:47:46 GMT -5
PV: Như vậy có thể khẳng định rằng ĐBSCL đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Với vai trò đó, ĐBSCL hẳn sẽ là đầu tàu của cả nước trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế? Chợ nổi ĐBSCL Ông Trần Sinh: Kết luận như thế có thể nói là vội vàng. Trước hết, ta phải xem xét về điểm xuất phát của ĐBSCL trong tiến trình hội nhập.
Về tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng ĐBSCL chậm hơn so với các vùng trong cả nước. Ở thời kỳ 1996 – 2000, nếu tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước là 7,0%/năm, thì ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,05%/năm, chỉ cao hơn vùng Bắc Trung bộ (5,25%/năm), thấp hơn 6 vùng còn lại.
Chất lượng tăng trưởng của ĐBSCL còn thấp so với cả nước và các nước trong khu vực. Chất lượng tăng trưởng là một vấn đề quan trọng cần quan tâm trong khi tham gia hội nhập. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong nước và quốc tế, tăng trưởng ở nước ta trong thời gian qua có tốc độ tăng trưởng liên tục tăng ở mức cao, nhưng chất lượng tăng trưởng chưa cao, thể hiện ở những tiêu chí như Điểm xuất phát thấp; GDP bình quân đầu người thấp; Hiệu quả cạnh tranh yếu và có xu hướng giảm nhanh; Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; Khoảng cách giàu nghèo gia tăng. ĐBSCL cũng không ngoài những đánh giá chung đó. GDP bình quân đầu người của vùng thấp hơn GDP của cả nước, mới bằng 83% cả nước, các tiêu chí khác cũng thấp hơn.
Quá trình phát triển sản xuất nói chung quyết định bởi ba yếu tố: tài nguyên, lao động và khoa học công nghệ. Theo một số chuyên gia kinh tế, năng suất tổng các nhân tố (Total Factor Productivities – TFP) phải đảm bảo tăng trưởng dài hạn, tránh yếu tố tác động từ bên ngoài là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với các nền kinh tế phát triển, TFP là yếu tố đóng góp lớn nhất, kế đến là lao động và cuối cùng là vốn vật chất. Ngược lại, ở những nước có nền kinh tế kém phát triển đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu là nhờ vào vốn và lao động, còn TFP đóng góp rất thấp.
Trong thời gian qua, TFP của nước ta còn đang ở mức thấp. Đóng góp TFP của ĐBSCL lại còn thấp hơn trung bình của cả nước. Thời kỳ 1996 – 2000, tốc độ tăng trưởng của vùng đạt 6,0%/năm, trong đó đóng góp của vốn chiếm 58,0%, lao động chiếm 28,0%, còn lại TFP chỉ chiếm 14,0%, tương đương của Indonesia và Malaysia trong những năm 1970. Như vậy, tăng trưởng kinh tế ở ĐBSCL yếu tố vốn (vốn tài nguyên và vốn vật chất) và yếu tố lao động đã đóng góp vào tăng trưởng đến 86,0%, gấp hơn 6 lần đóng góp của TFP. ĐBSCL đi lên chủ yếu là nhờ vào kết quả khai thác các nguồn lực tự nhiên nhiều hơn là các yếu tố khác. Đây là một thách thức rất lớn của ĐBSCL khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng ĐBSCL diễn ra rất chậm chạp. Nếu năm 1990 đóng góp của các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp chiếm 54,0% GDP thì đến năm 2000 vẫn còn đóng góp 50,4%, gấp 2 lần cả nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm như vậy là do trong thập kỷ qua đã diễn ra quá trình chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản xuất trong nội bộ các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp. Sản lượng lương thực tăng lên 76%, sản lượng thủy sản tăng lên 175% và diện tích cây ăn quả tăng lên 130% trong một thập kỷ đã tạo ra tốc độ tăng trưởng của các ngành này cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Do vậy, tỷ trọng của các ngành khu vực I không giảm bao nhiêu và lực lượng lao động cũng không chuyển sang các khu vực công nghiệp và dịch vụ nhiều. Lao động làm việc trong các ngành nông, ngư, lâm nghiệp vẫn chiếm trên 60% lao động xã hội, nhưng chỉ tạo ra 50% GDP, có nghĩa vẫn ở trong tình trạng năng suất lao động thấp.
Nói đến ĐBSCL không thể không nhắc đến vấn đề môi trường sinh thái. Đây là vùng được tạo thành do kiến tạo mở tự nhiên của hệ thống hạ lưu vực sông Cửu Long, tạo ra những vùng đất ngập nước. Những vùng ngập nước này đã hình thành chế độ ngập nước định kỳ trong vùng rộng lớn và từ đó đã tạo ra một hệ sinh thái đa dạng, phong phú, đặc trưng của vùng sông nước mênh mang trong mùa lũ mà ít nơi nào có được. Vùng đất ngập ven biển lại tạo ra hệ sinh thái nước mặn, lợ ven biển có ý nghĩa kinh tế và cân bằng sinh thái lớn. Hệ sinh thái ngập nội địa là những vùng tạo cân bằng sinh thái và như những “bồn chứa” để giảm lưu lượng lũ đã hình thành và tồn tại từ bao đời nay.
Trong quá trình khai thác ĐBSCL, con người đã tác động và can thiệp mạnh mẽ, đang làm biến dạng và thay đổi cấu trúc tự nhiên, làm mất chức năng vốn có của nó. Chính vì thế, để phát triển bền vững vùng ĐBSCL cần có quan điểm đúng đắn và hợp lý hơn về sử dụng các nguồn tài nguyên vô giá mà thiên nhiên đã trao tặng cho vùng.
Trong thời gian tới, ĐBSCL cần phải chú trọng đến việc phát triển cân đối, hài hòa 3 mục tiêu: kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái trên cơ sở phát huy tiềm năng lớn nhất của vùng là sản xuất lúa gạo, thủy sản, cây ăn trái và du lịch sinh thái sông nước.
|
|
|
Post by Robot on Nov 18, 2004 13:48:18 GMT -5
PV: Như vậy để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng ĐBSCL, chúng ta cần phải có những định hướng gì, thưa ông? ĐBSCL là một vùng có nhiều tiềm năng về nông nghiệp, thủy sản và sinh thái sông nước Ông Trần Sinh: Trước hết, để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh phải dựa trên nguồn tài nguyên nông nghiệp, thủy sản của vùng là yếu tố quan trọng nhất. Do đó phải bố trí sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, trong đó trọng tâm là sản xuất lúa. Phải điều chỉnh cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống lúa sao cho phù hợp với đặc điểm lũ của vùng. Bên cạnh đó là phát triển mạnh mẽ nuôi trồng thủy sản trên loại mặt nước ngọt, mặn, lợ. Để bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái, về lâm nghiệp cần bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn, rừng đặc dụng, rừng bảo tồn thiên nhiên kết hợp với du lịch sinh thái. Đối với công nghiệp, tập trung phát triển mạnh mẽ hơn nữa công nghiệp chế biến thủy sản, hình thành các khu, cụm công nghiệp tập trung. ĐBSCL thực sự trở thành một trung tâm công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm lớn của cả nước trong thế kỷ XXI. Đồng thời, ĐBSCL cần phải hình thành và phát triển những trung tâm đô thị kinh tế - xã hội lớn. TP. Cần Thơ trở thành một cực tăng trưởng lớn, đồng thời phát triển hệ thống cụm đô thị vệ tinh, tạo ra những dải hành lang đô thị - công nghiệp phát triển trong toàn vùng, nhằm công nghiệp hóa nông nghiệp – nông thôn gắn với đô thị hóa, giải quyết việc làm tại chỗ, giảm áp lực dòng di cư từ vùng ĐBSCL về TP.HCM, địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam và các nơi khác, đang có tăng trưởng cao và thu hút việc làm rất lớn.
PV: Một quan điểm lớn của Nhà nước về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài. Hiện nay, Nhà nước ta đang kêu gọi và có nhiều chính sách khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài về đầu tư xây dựng đất nước. Dưới góc độ là một chuyên gia kinh tế, theo ông, các doanh nghiệp Việt kiều nên đầu tư vào những lĩnh vực nào của ĐBSCL và Nhà nước cần có những chính sách gì để hỗ trợ họ? Ông Trần Sinh: Để tạo ra sự phát triển bền vững ở ĐBSCL cần phải đảm bảo hài hoà giữa 3 mục tiêu: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường trên cơ sở phải có sự liên kết bền vững giữa các yếu tố: thể chế của Nhà nước, sức mạnh của các doanh nghiệp với việc sử dụng hợp lý các nguồn lực tự nhiên và nguồn nhân lực. Thể chế Nhà nước (Nhà nước Trung ương và địa phương) có vai trò tạo ra “môi trường” thuận lợi cho các doanh nghiệp sinh sôi, nảy nở và phát huy sức mạnh của mình. Các doanh nghiệp (trong nước và nước ngoài) là những lực lượng tạo ra của cải vật chất làm giàu cho doanh nghiệp và đóng góp vào ngân sách Nhà nước ngày càng nhiều. Doanh nghiệp giàu là dân giàu và dân giàu là Nhà nước mạnh. Do đó, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư khai thác những lợi thế của các nguồn lực là nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta nói chung cũng như của ĐBSCL nói riêng.
Đối với các doanh nghiệp Việt kiều, Nhà nước ta cũng đã và đang tạo ra môi trường thể chế bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước để khuyến khích đầu tư phát triển về vốn, công nghệ và trí tuệ... vào các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường trong các vùng kinh tế của cả nước. Riêng ĐBSCL là một vùng có nhiều tiềm năng về nông nghiệp, thủy sản và sinh thái sông nước nhưng chưa được đầu tư khai thác hợp lý và hiệu suất chưa cao. Vì vậy, các ngành công nghiệp chế biến lúa gạo, chế biến thủy sản, và chế biến trái cây xuất khẩu, du lịch sinh thái sẽ là những ngành chủ lực của ĐBSCL trong những thập kỷ tới. Đầu tư vào phát triển các ngành này sẽ làm tăng giá trị, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh; giải quyết được nhiều việc làm, nâng cao mức sống dân cư; thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn; và tăng nhanh quá trình đô thị trong vùng, tạo ra sự phát triển xã hội vững chắc. Vì thế, có thể khẳng định rằng, chất keo để tạo ra sự kết gắn bền vững chính là những thể chế tốt của các cấp Nhà nước Trung ương và địa phương; để tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp thực hiện hiệu quả việc đầu tư phát triển để khai thác hiệu quả các tài nguyên tự nhiên và nguồn nhân lực ở ĐBSCL.
PV: Xin cảm ơn ông về những thông tin bổ ích trên. T.P.
|
|