|
Post by Robot on Jul 15, 2004 23:15:25 GMT -5
Các tỉnh có nhiều quyền hơn về môi trường
(VietNamNet) - Nghị đinh mới về môi trường tăng thẩm quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo tác động môi trường cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.Từ nay, các tỉnh sẽ có thêm thẩm quyền phê duyệt các báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án nhỏ. Đây là Nghị định số 143 ngày 12/7/2004 sửa đổi bổ sung điều 14 của Nghị định số 175 ngày 18 tháng 10 năm 1994 về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường. VietNamNet vừa có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ TN&MT Mai Ái Trực xung quanh Nghị định sửa đổi, bổ sung này. - Thưa Bộ trưởng, sự ra đời của Nghị định 143 phải chăng do NĐ 175 có điều không còn phù hợp?
- Đúng vậy. Theo Điều 14 NĐ 175 thì phạm vi thẩm định, quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường trước đây và nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường rất rộng. Nhiều dự án quy mô nhỏ thôi nhưng các địa phương và chủ dự án phải cất công mang về trung ương để thẩm định, phê duyệt, gây phiền phức và tốn kém tiền bạc, thời gian một cách không cần thiết. Mặt khác, số lượng dự án cần thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường ngày càng nhiều, nếu vẫn giữ cách làm theo quy định cũ thì không thể xử lý nhanh được.
Việc ra đời Nghị định 143 là thể hiện quyết tâm thực hiện cải cách hành chính của Chính phủ và của Bộ TN&MT theo hướng tăng cường phân cấp, tăng thẩm quyền, trách nhiệm cho địa phương. Quan điểm của Bộ TN&MT là việc gì địa phương có thể làm tốt và thuận lợi cho địa phương, cho các tổ chức, doanh nghiệp và người dân thì giao cho địa phương làm. Trung ương chỉ lo những việc mà địa phương không thể làm được.
- Nội dung cơ bản chỉnh sửa bổ sung gì, thưa Bộ trưởng?
- Theo hướng Bộ chỉ thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án lớn, quan trọng, các dự án nằm trên địa bàn hai tỉnh trở lên. Bộ cũng có trách nhiệm trình Chính phủ xem xét vấn đề bảo vệ môi trường của các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Các dự án còn lại giao cho các Sở thẩm định và trình UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
- Việc trao thêm quyền như thế này có dẫn tới tình hình do trình độ non kém hoặc do sức ép về phát triển kinh tế mà việc thẩm định, phê duyệt của các địa phương không chặt chẽ, gây tác hại dến môi trường, thưa Bộ trưởng?
- Cũng không loại trừ những trường hợp như thế nhưng mình phải tin các đồng chí lãnh đạo ở địa phương và ngành bên dưới. Lãnh đạo địa phương nào lại không lo lắng cho công tác bảo vệ môi trường. Được trao thêm quyền thì càng lo hơn vì quyền đi đôi với trách nhiệm. Còn các Sở Tài nguyên và Môi trường bây giờ thì trình độ cũng đã được nâng lên, khả năng thẩm định, đánh giá tác động môi trường khá hơn nhiều so với lúc ban hành Nghị định 175 trước đây. Về phía Bộ Tài nguyên và Môi trường, do giảm số lượng dự án cần phải thẩm định, phê duyệt nên cũng có thời gian nhiều hơn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện của các địa phương.
- Xin cám ơn Bộ trưởng!
|
|
|
Post by Robot on Jul 15, 2004 23:16:08 GMT -5
Thẩm quyền thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của Bộ Tài nguyên Môi trường đối với các dự án (theo Nghị định 143): - Dự án có sử dụng một phần hoặc toàn bộ diện tích của vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc khu di tích lịch sử- văn hoá, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng; dự án có sử dụng diện tích đất thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên; - Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu đô thị từ loại 3 trở lên (có quy mô dân số từ 100.000 người trở lên); dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu công nghệ cao có quy mô từ 150 ha trở lên; dự án xây dựng kết cấu hạ tầng khu kinh tế, thương mại có quy mô từ 1.000 ha trở lên;
- Dự án xây dựng cầu vĩnh cửu có chiều dài từ 1.000 m trở lên, cảng biển cho tàu thuỷ có trọng tải từ 50.000 DWT trở lên, cảng hàng không, sân bay; dự án nhà máy đóng, sửa chữa tàu thuỷ trọng tải từ 10.000 DWT trở lên; dự án kho xăng dầu có dung tích 50.000m3 trở lên;
- Dự án nhà máy thuỷ điện với hồ chứa có dung tích từ 100.000.000m3 nước trở lên; dự án nhà máy nhiệt điện có công suất từ 200 MW trở lên;
- Dự án lọc hoá dầu; dự án nhà máy sản xuất chất dẻo có công suất từ 10.000 tấn sản phẩm/năm trở lên; dự án nhà máy sản xuất phân hoá học có công suất từ 100.000 tấn sản phẩm/năm trở lên; dự án nhà máy sản xuất sơn, hoá chất cơ bản, thuốc bảo vệ thực vật, chất tẩy rửa, phụ gia có công suất từ 20.000 tấn sản phẩm/năm trở lên; dự án nhà máy chế biến mủ cao su và cao su có công suất từ 50.000 tấn sản phẩm/năm trở lên; dự án nhà máy sản xuất săm, lốp ô tô, máy kéo có công suất từ 1.000.000 sản phẩm trở lên; dự án nhà máy sản xuất ắc quy có công suất từ 300.000 KWh/năm trở lên; dự án nhà máy dệt nhuộm có công suất từ 30.000.000m vải/năm trở lên;
- Dự án nhà máy sản xuất cồn, rượu có công suất 1.000.000 lít sản phẩm/ năm trở lên; dự án nhà máy sản xuất bia, nước giải khát có công suất từ 10.000.000 lít sản phẩm/năm trở lên;
- Dự án khai thác dầu khí; dự án khai thác khoáng sản rắn (không sử dụng hoá chất) có công suất từ 500.000m3/năm trở lên; dự án khai thác khoáng sản rắn có chứa những chất độc hại hoặc có sử dụng hoá chất độc hại; dự án khai thác nước dưới đất có công suất khai thác từ 50.000 m3 nước/ngày đêm trở lên; dự án khai thác nước mặt có công suất từ 500.000 m3 nước/ngày đêm trở lên;
- Dự án xây dựng nhà máy sản xuất, cán, luyện gang, thép và kim loại màu có công suất từ 300.000 tấn sản phẩm/năm trở lên; dự án nhà máy sản xuất xi măng có công suất từ 1.000.000 tấn xi măng/năm trở lên; dự án nhà máy sản xuất giấy và bột giấy có công suất từ 50.000 tấn sản phẩm/ năm trở lên;
- Dự án xây dựng bãi chôn lấp chất thải công nghiệp, chất thải nguy hại; dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải công nghiệp tập trung có công suất từ 5.000m3 nước thải/ngày đêm trở lên.
Ngoài các loại dự án nêu trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt báo cáo đánh giá tác đông môi trường của các dự án còn lại./.
Kiều Minh
|
|
|
Post by Robot on Sept 28, 2004 16:58:07 GMT -5
Xây dựng Nghị quyết BCT về bảo vệ môi trường 13:44' 25/09/2004 (GMT+7) (VietNamNet) - Bộ Tài nguyên-Môi trường đang phối hợp xây dựng dự thảo Nghị quyết Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ mới. Thông tin này được công bố tại hội thảo ''Phát triển bền vững dựa trên tri thức'', diễn ra ngày 24/9 tại Hà Nội, nhằm định hướng nội dung bảo vệ môi trường và tài nguyên quốc gia.
Giáo sư Đặng Hữu (giữa): ''Vấn đề nổi cộm hàng đầu là giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường''. Phát triển bền vững là quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống, với nguyên tắc chủ yếu là sự kết hợp hài hòa ba yếu tố: tiến bộ xã hội, đáp ứng nhu cầu của mọi người dân, bảo vệ môi trường, sinh thái và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.
Hội thảo đã tập trung thảo luận những định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam - thuộc Chương trình Nghị sự 21 do Chính phủ mới ban hành. Theo đó, chú trọng tới việc thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng thân thiện với môi trường, và thực hiện ''công nghiệp hoá sạch''. Chiến lược này nhằm khẳng định lại cam kết của Việt Nam giải quyết các vấn đề phát triển bền vững được tuyên bố tại Hội nghị thượng đỉnh Rio-92.
Hiện, theo GS Đặng Hữu, vấn đề nổi cộm hàng đầu là giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế với lợi ích môi trường, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Chẳng hạn, thành phố Hạ Long phát triển thế nào để giữ gìn giá trị của di sản thiên nhiên. Khu tam giác phát triển phía Nam phát triển công nghiệp như thế nào trong mối quan hệ với lưu vực sông Đồng Nai, sông Thị Vải, với diện tích rừng ngập mặn; vùng đồng bằng sông Cửu Long với hệ sinh thái đặc thù của nó...
Bộ Tài nguyên và Môi trường trình bày tham luận về ''Việt Nam hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong những thập niên đầu thế kỷ XXI''. Với mục tiêu này, Chính phủ đã ban hành Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững. Và hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã phối hợp với Ban Khoa giáo Trung ương xây dựng dự thảo Nghị quyết của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam Thực hiện các cam kết đã đạt được tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển ở Brazil, đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21 về Phát triển Bền vững cấp quốc gia và 6.416 Chương trình Nghị sự 21 cấp địa phương. Đồng thời, tại các nước này đều đã thành lập các cơ quan độc lập để triển khai thực hiện chương trình này. Một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore... đã xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21. Ngày 17/8 vừa qua, nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng Chương trình Nghị sự 21 cho Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Đây là bản chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, cá nhân có liên quan triển khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ XXI. Hoàng Hùng
|
|