|
Post by Robot on Jun 6, 2004 10:13:35 GMT -5
Môi trường biển: Thiếu một chiến lược tổng thể
Năm 2002, một chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và ven biển đã được soạn thảo với sự trợ giúp của Ngân hàng Phát triển châu Á và Cơ quan Hợp tác Phát triển Thụy Sĩ.
Chiến lược gồm sáu hợp phần: Quy hoạch quản lý tổng hợp biển và ven bờ cho các tỉnh duyên hải. Phát triển các khu bảo tồn biển và ven bờ. Quản lý tổng hợp nghề cá ven bờ. Phát triển và cải thiện sinh kế của các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương. Bảo vệ duyên hải Việt Nam thoát khỏi thiên tai và xói mòn ven biển. Kiện toàn khung môi trường hành động quốc gia, nâng cao nhận thức về môi trường, đánh giá ô nhiễm và giám sát.
(Nguồn: Báo cáo hội nghị khoa học "Biển đông - 2000", Nha Trang)
(VietNamNet) - Trao đổi về Việt Nam Biển với PGS TS Nguyễn Tác An - viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang, trước chuyến đi công tác dài ngày của ông sang Pháp và Đức.
Báo động nào về chất lượng môi trường biển?
Chủ đề của Ngày Môi trường Thế giới (5/6) năm nay là "Chúng ta muốn biển và đại dương sống hay chết?". Từ chủ đề này, bạn đọc VietNamNet rất muốn biết hiện trạng về biển ở nước ta hiện nay...
- PGS Nguyễn Tác An: Hiện nay, nguồn lợi biển đang phải chịu hai thách thức to lớn. Đối với toàn cầu, đó là thách thức do sự thay đổi của khí hậu. Sự thay đổi của khí hậu có tác động đến nguồn lợi tài nguyên biển. Đối với Việt Nam là nước đang phát triển, có những khó khăn về mặt kinh tế, về chính sách thì thách thức ấy lại càng nhân lên gấp nhiều lần. Tiềm lực để giải quyết tai biến thiên nhiên, tiềm lực để đầu tư bảo vệ môi trường biển, tiềm lực để nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ biển ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế vì các khó khăn không phải là ít.
Xin nói cụ thể hơn về môi trường biển hiện nay?
- Trước đây, tôi làm chủ nhiệm đề tài "Giải pháp nâng cao chất lượng môi trường biển từ Bắc đến Nam". Hiện nay, tôi đang nghiên cứu một đề tài cấp Nhà nước về giải pháp kỹ thuật nâng cao chất lượng môi trường, phục hồi các hệ sinh thái quan trọng như san hô, tảo biển. Qua đó, có thể nói môi trường biển nói chung và môi trường biển ở Việt Nam vẫn còn "đạt yêu cầu", chưa bị ô nhiễm nhiều nhưng hạn chế là quản lý biển địa phương còn gặp những khó khăn, như ô nhiễm hữu cơ do nuôi trồng hải sản, tai nạn về tràn dầu, ô nhiễm rác thải do hoạt động du lịch, do hoạt động dân cư,...
Những ô nhiễm như vậy làm chất lượng nước giảm sút, hàm lượng vi sinh nhiều (có những nơi còn nhiều hơn mức cho phép đến vài trăm lần), hàm lượng ô nhiễm hữu cơ vượt mức cho phép do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, ô nhiễm kim loại nặng do sử dụng hóa chất để khai thác vàng... Hệ sinh thái bị hủy hoại rất lớn, nuôi tôm thì phá rừng ngập mặn, đi du lịch thì phá hết quần đảo san hô, phá hoại rừng ven biển do quá trình phát trình phát triển kinh tế...
Còn vấn đề ô nhiễm do rác thải khó phân hủy như bao nhựa, polymer?
- Rác thải có chu kỳ phân hủy chậm như bao nhựa, polymer vẫn còn là vấn đề nan giải không chỉ ở Việt Nam mà ở rất nhiều nước khác trên thế giới. Khi những loại rác chất dẻo này bị vất xuống biển, chúng sẽ tạo thành những màng ngăn, khiến cho quá trình trao đổi khí giữa nước và đáy không thực hiện được, vùng đáy biển từ thoáng khí trở thành vùng yếm khí, phát sinh ra khí sunphua hydrô (H2S), gây nên mùi hơi thối, biến vùng nước sống thành vùng nước chết. Một khi đã biến thành vùng nước chết thì rất khó khăn để khôi phục lại được, hoặc phục hồi lại được thì cũng phải mất cả đời người.- từ 60 năm đến 100 năm sau mới khôi phục lại được.
|
|
|
Post by Robot on Jun 6, 2004 10:14:08 GMT -5
Nghiên cứu biển là phải ở ngoài biển, tuy nhiên...
Mỗi năm, được biết Nhà nước đầu tư hơn mười tỷ đồng cho nghiên cứu khoa học về biển. Thế nhưng dường như nghiên cứu về biển ở Việt Nam dường như chỉ dừng lại ở ven bờ, chưa ra được biển sâu, đại dương? - Chúng tôi cũng xác định nghiên cứu biển là phải nghiên cứu ở ngoài biển, tuy nhiên nghiên cứu về biển rất tốn kém. Trong chừng mực đầu tư nghiên cứu của mình thì hầu hết mới tập trung ở vùng ven bờ, mặc dù vùng ven bờ cũng là vùng quan trọng của sự phát triển. Có khoảng 80-90% đề tài tập trung nghiên cứu ở vùng biển ven bờ.
Có thể nói: Mặc dù chúng tôi rất mong muốn vươn ra biển để nghiên cứu nhưng công cụ, trang thiết bị để nghiên cứu hầu như rất thiếu. Thậm chí đến nay, chúng tôi vẫn không có nổi một con tàu nghiên cứu để ra đại dương!
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực để làm việc trên biển cũng thuộc loại "khan hiếm". Lớp cán bộ được đào tạo ở nước ngoài từ những năm 1960-1970 thì đã đến tuổi sắp về hưu, lớp cán bộ trẻ kế cận thì không kịp bổ sung. Tuy ta cũng có trường đào tạo nhưng chỉ đào tạo chay, học Hải dương học nhưng không có điều kiện tiếp xúc với tàu bè, không có cơ hội ra biển, sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu. Cán bộ Viện Hải dương học mà mỗi năm mới được ra khơi (đại dương) một - hai chuyến thì sinh viên làm gì có cơ hội!
Cách đây 80 năm, trong điều kiện suy thoái kinh tế sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp vẫn bỏ tiền ra xây dựng Viện Hải dương học ở Nha Trang. Bởi vì họ xác định Viện Hải dương học là một đơn vị khoa học sẽ góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế thông qua khai thác biển. Họ hy vọng phát triển về kinh tế biển sẽ là một nguồn lợi giúp khôi phục về mặt kinh tế.
Ngày nay, Viện Hải dương học Nha Trang của chúng ta trông vẫn rất bề thế; các lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước đều có ghé thăm Viện. Hình thức thì rất là mạnh, nhưng đóng góp vẫn hết sức nhỏ bé và khiêm tốn. So với yêu cầu thực tế thì cần có sự đầu tư nhiều hơn nữa, đầu tư đúng hướng, tập trung. Các nhà hải dương học phải có cơ hội tung hoành nhiều ở biển, đi điều tra ngang dọc, sánh vai với các nước khác, như Trung Quốc chẳng hạn. Cần phải có tàu đi biển, vì rất tiếc là hiện nay chúng ta vẫn chưa có một tàu nghên cứu nào.
Ở Phòng triển lãm của Viện, chúng tôi có thấy hình chụp một con tàu khá đồ sộ?
- À, con tàu đó đã có cách đây gần... 100 năm, từ thời thuộc Pháp! Tàu bắt đầu được sử dụng từ năm 1925, đến năm 1930 thì hỏng. Đến năm 1995, chúng tôi được cấp một con tàu dài 20m, đủ cho bảy nhà khoa học nghiên cứu từ độ sâu từ 50m trở vào trong thời gian khoảng hai tuần, sóng cấp 5 trở xuống. Nếu muốn đi xa hơn nữa, chúng tôi phải đi nhờ các tàu của các nước bạn thông qua các dự án hợp tác, chẳng hạn trước đây có tàu Liên Xô (cũ ). Gần đây, cán bộ Viện có dịp ra đại dương để nghiên cứu cũng chỉ được đi tàu thông qua một chương trình hợp tác do... chính phủ Đức trả tiền thuê tàu.
Chúng tôi không đòi hỏi phải có... tàu ngầm hay tàu lớn, nhưng để có sự nghiên cứu về biển thì Việt Nam dứt khoát phải tự chủ, có tàu riêng để ra khơi nghiên cứu Hải dương học. Không nhất thiết tàu ấy phải thuộc Viện, vì cách tổ chức, quản lý tàu có thể theo dạng công ty để khai thác hợp lý.
|
|
|
Post by Robot on Jun 6, 2004 10:14:24 GMT -5
Vấn đề sống còn của Việt Nam là biển!
Được biết ông cũng là người rất tích cực tham gia vào công tác đào tạo nguồn nhân lực?
- Đào tạo ra một "anh hải dương học" là rất tốn kém. Hiện nay ở ta, nguồn nhân lực trẻ rất thiếu nhưng việc đào tạo cũng chỉ dừng ở đào tạo chay. Hải dương học đòi hỏi anh phải có sức khỏe, đi tàu không bị say sóng, nếu ra biển mà bị say sóng coi như uổng công. Học về Hải dương học cũng cần có kiến thức về khoa học cơ bản như Toán, Lý, Hóa. Thứ ba là phải biết sử dụng thiết bị, đi biển là phải thành thạo trong sử dụng thiết bị công nghệ. Vì vậy, phải có thói quen về kỹ thuật, tác phong công nghiệp.
Đó là con người hết sức năng động, đi trên tàu phải hài hòa với con tàu và với biển. Người giỏi nhưng không có sức khỏe thì cũng rất khó để nghiên cứu về biển, nhưng người khỏe (như người đánh cá chẳng hạn) mà không có tri thức về khoa học vẫn không nghiên cứu được về biển. Do đó, nguồn nhân lực này đến nay vẫn còn quá nhỏ bé so với triệu cây số vuông!
Vùng đặc quyền kinh tế biển của chúng ta rộng hơn một triệu kilomet vuông, rộng gấp ba lần so với đất liền. Bờ biển Việt Nam dài. hơn 3.260km nhưng dường như chúng ta vẫn thiếu một chiến lược phát triển về biển?
Vai trò của biển đối với sự phát triển của Việt Nam? Đa dạng sinh học biển và ven biển, ước tính lợi nhuận ròng là 39 triệu USD/ năm.
Ngoại tệ thu được từ dầu khí và thủy sản chiếm 23% tổng thu nhập quốc dân (GDP) vào năm 1998.
Trong số 31 điểm du lịch cấp quốc gia, có 19 điểm thuộc về 29 tỉnh ven biển; chiếm 37% lượt khách du lịch của cả nước.
65% hàng hóa được xuất, nhập khẩu thông qua các cảng biển.
2% khu bảo tồn quốc gia là khu bảo tồn biển - Đúng là đến nay, chúng ta chưa có một chiến lược về phát triển và bảo vệ biển. Hoặc có thể đã có, nhưng Chính phủ chưa công bố, đang còn trong giai đọan soạn thảo. Đây cũng là băn khoăn của tôi. Hy vọng trong thời gian tới, chiến lược này sẽ được Nhà nước công bố.
Với tư cách là chủ tịch Liên Chính phủ về Biển, ông có nhận xét gì về sự chậm trễ, hay thiếu sót ấy?
- Làm việc gì cũng phải có kế hoạch, chiến lược. Chiến lược là bước đi, kế sách hiện tại cho tương lai. Mặc dù chúng ta có rất nhiều chương trình về biển nhưng rất tiếc đến nay, chúng ta vẫn chưa có kế hoạch tổng thể lâu dài. Chúng tôi cũng biết rằng soạn thảo một chiến lược về biển thì rất phức tạp và khó khăn, cần đến sự bàn bạc thống nhất của những nhà khoa học, những nhà kinh tế, quản lý và những nhà chiến lược tầm cỡ. Ngoài ra, còn phải có tiềm lực để thực hiện chiến lược ấy.
Tuy vậy, vấn đề sống còn của Việt Nam là biển. Nghiên cứu phát triển và bảo vệ biển thì sẽ phải làm những gì? Từ năm nào đến năm nào, sẽ làm gì? Ai sẽ làm? Làm bằng cách gì?... Tất cả những vấn đề ấy, Nhà nước phải có trả lời. Phía những người làm khoa học, chúng tôi rất sẵn sàng tham gia vào những việc như thế. Kho tư liệu ở Viện Hải dương học khá phong phú và đầy đủ các tài liệu để soạn thảo. Chúng tôi nắm rất nhiều tư liệu trong và ngoài nước về khai thác và bảo vệ biển nhưng làm thế nào, lấy nguồn vốn, nhân lực ở đâu, kế sách bước đi như thế nào thì cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà quản lý, các nhà chiến lược, chính sách. Khoa học chỉ đóng vai trò tư vấn về cơ sở khoa học, về các kho tài liệu,...
Nói về chiến lược nghe lớn lao thế nhưng cách đây hơn 2.000 năm, ông Quản Trọng ở Trung Quốc đã đề ra một chiến lược về biển cho Trung Hoa rất đơn giản mà cực kỳ hiệu quả: Khai thác muối! Muối đã trở thành quốc sách của nước Trung hoa cổ đại thời Xuân thu Chiến quốc, chính phủ chỉ cần nắm về khai thác muối sẽ trở nên giàu có.
Còn ở ta hiện nay, chúng ta sẽ nắm gì trong chiến lược về biển của một Việt Nam Biển? Chưa có câu trả lời chính thức, có vẻ vậy!
Thu Thảo (thực hiện)
|
|
|
Post by Oshin on Jun 6, 2004 10:50:52 GMT -5
Xây dựng gần 20 khu bảo tồn thiên nhiên trên biển
TT - “VN đã có 121 khu bảo tồn thiên nhiên trên đất liền, trong đó có 27 vườn quốc gia nhưng vẫn chưa có khu bảo tồn thiên nhiên trên biển và Hòn Mun (Nha Trang) là khu bảo tồn biển đầu tiên ở nước ta được Chính phủ công nhận”- giáo sư Lê Quý An, chủ tịch Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường VN, cho biết như trên tại buổi nói chuyện nhân Ngày môi trường thế giới ở Hà Nội hôm 4-6.
Hòn Mun là nơi có rạn san hô dày đặc và quí hiếm nhất còn tồn tại ở nước ta, đang được thế giới tài trợ để giúp cộng đồng cư dân bản địa có ý thức và hành động bảo vệ giá trị sinh học một cách hiệu quả. Sau khu bảo tồn Hòn Mun hiện còn có gần 20 khu bảo tồn thiên nhiên biển đang được Bộ Thủy sản, Bộ Tài nguyên - môi trường trình Chính phủ xét duyệt công nhận nhằm xây dựng một hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên trên biển.
* Nhân Ngày môi trường thế giới 5-6, Tổ chức Tình nguyện Liên Hiệp Quốc (UNV) cũng đã phát động cuộc thi “Sáng kiến khuyến khích hoạt động tình nguyện vì mục tiêu phát triển thiên niên kỷ” tới tất cả bạn trẻ VN không quá 25 tuổi với giải thưởng là một khoản tài trợ trị giá 1.000 USD.
Bài dự thi phải được gửi cho UNV, 25-29 Phan Bội Châu, Hà Nội hoặc email đến unv@undp.org.vn trước ngày 15-7.
Đ.TH. HUYỀN - C.HÀ
|
|
|
Post by Robot on Jun 17, 2004 14:08:16 GMT -5
Việt Nam có 125 huyện có vị trí ven biển với khoảng 81.500 hộ dân, chiếm 17% diện tích cả nước. Các cộng đồng ven biển đều là những cộng đồng ổn định và được tổ chức tốt. Cư dân địa phương phần lớn sinh sống từ nhiều năm nay hoặc từ nhiều thế hệ. Tình trạng suy thoái nguồn lợi đa dạng sinh học biển như hiện nay đang là một thử thách đối với tính đoàn kết trong cộng đồng của địa phương.
Trong công cuộc cải tổ nền kinh tế cả nước, đời sống của người dân ven biển đã được cải thiện. Các địa phương được trao trách nhiệm lớn hơn trong việc ra các quyết định kinh tế. Tuy nhiên những cải cách này vẫn còn hạn chế do: thiếu cơ sở hạ tầng như đường giao thông có chất lượng tốt, thiếu các phương tiện cầu cảng thích hợp, thiếu các xưởng chế biến và đầu mối tiêu thụ...
Cư dân ven biển: Khu bảo tồn biển là gì?
(VietNamNet) - Đó là kết quả bất ngờ về nhận thức của người dân, thu được từ cuộc điều tra cộng đồng ở các vùng biển và ven biển theo Dự án ADB 5712-REG (quản lý môi trường vùng biển và ven biển ở khu vực biển Đông). . Và không chỉ có vậy, hãy còn lắm bất cập khác nữa...
Cuộc khảo sát đã phỏng vấn chính quyền và các cộng đồng tại 150 xã thuộc 58 huyện duyên hải của 29 tỉnh ven biển Việt Nam. Dự án do Công ty GEC (Công ty Tư vấn Môi trường Toàn cầu) phối hợp với Quỹ Quốc tế Vì Thiên nhiên (WWF) thực hiện.
Khảo sát sử dụng phương pháp RRA (Rapid Rural Appraisal - trao đổi, phỏng vấn nhanh người dân sống ở nông thôn) để tìm thông tin về mối quan hệ giữa các cộng đồng dân cư và tài nguyên biển, tác động qua lại giữa hai nhân tố này; về nhận thức và thái độ của cộng đồng đối với tài nguyên biển và ven biển, đặc biệt là vấn đề đa dạng sinh học biển và các khu bảo tồn biển; về các vấn đề luật pháp, thể chế, chính sách liên quan đến việc quản lý tài nguyên biển; cùng các vấn đề xã hội và nhu cầu về cơ sở hạ tầng.
|
|
|
Post by Robot on Jun 17, 2004 14:09:04 GMT -5
Kết quả khảo sát cho thấy:
Nguồn lợi về sinh vật biển và ven biển đang bị suy giảm: Khảo sát 22 trong tổng số 29 tỉnh ven biển cho thấy số lượng loài bị biến mất ở địa phương ngày một tăng lên. Nguyên nhân bao trùm là do sự khai thác bừa bãi của các hộ ven biển vì mục đích sinh nhai. Cộng đồng ngư dân không còn áp dụng các phương thức khai thác truyền thống mà đa số (21/29 tỉnh) sử dụng phương thức đánh bắt có tính chất hủy diệt. Trong khi đó, các cơ quan có chức năng giám sát và thi hành luật lại rất thiếu thốn về nguồn nhân lực, tài chính, trang thiết bị và các quyền hạn cần thiết để xử lý vi phạm.
Vấn đề quản lý vùng biển khai thác mới chỉ được khoanh vùng chức năng ở mức tối thiểu. Việc mở cửa nghề khai thác cá ở Việt Nam theo kiểu "tự do cho tất cả", cùng thời điểm nguồn lợi sinh vật biển đang bị suy giảm đã tạo nên một sự lộn xộn và tranh giành để thu hoạch nguồn lợi ít ỏi còn lại. Các chuyên gia cảnh báo: Khuynh hướng này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đối với đa dạng sinh học các loài sinh vật biển. Nếu cứ để tình trạng này kéo dài cùng với sự lỏng lẻo của pháp luật như hiện nay, sẽ rất bất lợi cho khả năng tái phục hồi nguồn lợi này.
Vệ sinh và rác thải: 20/29 tỉnh ven biển đều đề cập đến, với nhiều mức độ khác nhau, về tình trạng thiếu thốn nhà vệ sinh. Hầu như các xã ven biển đều thiếu nhà vệ sinh công cộng và tư nhân. Người dân vẫn có thói quen xả rác ở bãi biển, đợi thủy triều lên cuốn rác thải ra khơi. Ngoài ra, các phương tiện du lịch và giao thông cũng xả thẳng rác xuống biển mà không hề qua xử lý.
Khu bảo tồn và ven biển: Khái niệm về khu bảo tồn biển được các cộng đồng dân cư ven biển hiểu biết rất ít, hoặc hầu như không có khái niệm gì. Nhiều cộng đồng cho rằng khu bảo tồn là khu vực hạn chế đánh bắt. Họ cho rằng việc thành lập một khu bảo tồn biển nào đó có nghĩa là một phần diện tích biển trong vùng sẽ vĩnh viễn bị cấm khai thác.
Sự không ổn định của vùng ven biển: 19/29 tỉnh ven biển đều có hiện tượng nghẽn bùn ở vùng cửa sông, hiện tượng bị xói mòn ven biển, sa mạc hóa các vùng đất nông nghiệp. Vào một thời điểm nhất định trong năm, tại một số xã ở vùng cửa sông, tàu thuyền không đi lại được do bị nghẽn bùn.
Thiếu vốn đầu tư, cơ sở hạ tầng yếu kém là vấn đề bao trùm trong công tác quản lý môi trường vùng biển và ven biển, ông Peter McNamee, chuyên gia dự án, cho biết. Các cộng đồng ven biển đang là nạn nhân của các buôn lái do giá cả không ổn định. Lái buôn là người quyết định giá, giá bán thường bị hạ thấp vào mùa đánh bắt cao điểm. Tại các địa phương có phần lớn cư dân sống bằng nghề đánh bắt, hầu hết đều không có các xưởng chế biến hải sản.
Hệ thống giao thông vận tải yếu kém, trong khi thị trường địa phương không đủ lớn để tiêu thụ sản phẩm đánh bắt. Sản lượng đánh bắt trong những năm gần đây đã tăng nhiều so với trước do người dân đánh bắt xa bờ, tuy nhiên thị trường để tiêu thụ các loài không có giá trị xuất khẩu lại thiếu. Vòng lẩn quẩn này khiến cho người đánh bắt chẳng thu được mấy lợi nhuận từ các cố gắng khai thác của họ. Sản phẩm đánh bắt được không quay trở lại địa phương để thúc đẩy các ngành nghề liên quan phát triển.
|
|
|
Post by Robot on Jun 17, 2004 14:09:16 GMT -5
Nhà nước đã có chương trình phát triển đánh cá xa bờ với mục tiêu tăng số lượng tàu thuyền Việt Nam ngoài khơi để tăng sản lượng đánh bắt, phục hồi nguồn lợi cá ven bờ, tạo ra ảnh hưởng đa dạng nhiều ngành nghề khác nhau cho cộng đồng vùng biển. Tuy nhiên, kết luận của cuộc khảo sát điều tra cho thấy hiệu quả của chương trình là "chưa thấy rõ". Dù đã có Quỹ Phát triển Đánh bắt Xa bờ nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của người dân. Đa số cư dân cộng đồng ven biển đều thiếu các yếu tố cần thiết khi vay vốn do không có thế chấp, không đủ khả năng đàm phán về điều khoản vay trong trường hợp sản lượng thấp hay thiên tai.
Trong quá trình phỏng vấn, rất nhiều ngư dân cho biết họ cảm thấy rất "đói" kiến thức về kỹ thuật sử dụng tàu lớn để đánh bắt hải sản ở khơi xa. Các nông dân sống bằng nghề nuôi trồng thủy sản chủ yếu là do học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau một cách không chính thức. Hiện tượng nuôi trồng tự phát và chỉ dựa vào kinh nghiệm là chính đã dẫn đến sự chết dần của các loài thủy sản nuôi trồng, sự lây lan dịch bệnh dẫn đến phá sản.
Nhóm nghiên cứu cũng đưa ra các giải pháp được cộng đồng đề xuất trong cuộc phỏng vấn, bao gồm: Hỗ trợ cho đánh bắt cá xa bờ, hỗ trợ vốn vay, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng như đường xá, trường học, trạm y tế, xưởng chế biến hải sản, hệ thống xử lý nước thải, phương tiện thu gom rác... cần được các chính quyền ven biển xem là những giải pháp quan trọng nhất. Sự cần thiết phải có các cán bộ kỹ thuật giúp đỡ ngư dân về đào tạo kỹ thuật, giúp các xã trồng cây ngăn chặn xói mòn, di chuyển đụn cát, sa mạc hóa đất nông nghiệp...
Các giải pháp khác được đề cập trong cuộc phỏng vấn: Nâng cao nhận thức là giải pháp cho những vấn đề vệ sinh cộng đồng cũng như giảm bớt những cách đánh bắt có tính hủy diệt. Ổn định giá cả: Chính phủ mua sản phẩm từ biển và xây dựng các xưởng chế biến hải sản, giúp ổn định thị trường. Xây dựng đê biển là giải pháp cho tình trạng không ổn định về đường ven biển (nghẽn bùn, xói mòn và xâm nhập mặn). Khoanh vùng biển để kiểm soát các phương thức đánh bắt có tính hủy diệt, tạo điều kiện quy hoạch và phát triển các ngành kinh tế. Kiểm soát vấn đề rác thải công nghiệp và sinh hoạt để giải quyết vấn đề ô nhiễm của xã từ ngoài khơi và trên thượng nguồn. Tái định cư đối với các xã có mật độ dân số quá cao, thiếu đất sản xuất; hoặc những xã bị đe dọa về môi trường như thiên tai hay xói mòn.
Được biết các kết quả của cuộc khảo sát này đã được sử dụng để chuẩn bị cho các dự án sử dụng bền vững tài nguyên môi trường biển và ven biển; đầu tư hợp lý cho các chương trình phát triển kinh tế; các chương trình giáo dục nâng cao nhận thức cho người dân địa phương; cơ chế cho cộng đồng dân cư và các tổ chức tham gia bảo vệ, quản lý tài nguyên biển và ven biển.
Thu Thảo
|
|
|
Post by Oshin on Jun 20, 2004 12:34:03 GMT -5
Chưa nghiên cứu đúng mức nguồn dược liệu từ biển (VietNamNet) - Nếu được đầu tư nghiên cứu thỏa đáng, sinh vật biển Việt Nam không chỉ là nguồn dược liệu chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng trong nước mà còn có thể xuất khẩu, mang lại nguồn thu lớn cho đất nước.
Môi trường biển là một nguồn dồi dào các hợp chất tự nhiên có hoạt tính sinh học cao. Có nhiều kiểu hình cấu trúc mà trên cạn chưa hề thấy. Nhiều hợp chất thiên nhiên của biển là khuôn mẫu hóa học để khai thác những lớp thuốc mới trị bệnh cho người, hoặc là những công cụ quan trọng để khảo sát các quá trình tế bào ở mức độ phân tử. Từ chỗ đơn thuần chỉ tập dượt nghiên cứu hóa học để tách những cấu trúc mới, việc nghiên cứu các hợp chất thiên nhiên của biển đã phát triển và trở thành sự nỗ lực chung của nhiều ngành khoa học: hóa sinh, hóa học biển, hải dương học, sinh học tế bào.
Trong đó, khuẩn biển có khả năng sản xuất ra những hợp chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học khác thường, chưa từng thấy ở các nguồn trên cạn. Ví dụ, từ một dòng trực khuẩn sống dưới biển sâu, nhóm nghiên cứu của TS Fenical (Mỹ ) đã tách chiết được một lớp chất mới, độc tế bào và chống virus, có đặc tính hoàn toàn tự nhiên mà trên cạn chưa hề có. Chẳng hạn, chất macrolactin A có tác dụng ức chế tế bào ung thư, bảo vệ các tế bào lympho T, chống virus HIV nhân bản ở người. Tảo xanh lam, tên khoa học là Trichodesmium erythraeum, có nhiều ở các thuỷ vực ven bờ biển Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận,... có thể sản sinh ra các loại độc tố có giá trị dược liệu.
Từ loài tảo lục - lam ngoài biển, người ta đã chiết ra được một chất có cấu trúc độc đáo: curacin A, có khả năng ức chế các dòng ung thư trực tràng, ung thư thận theo một cơ chế mới.
Từ các loài tảo roi chi (Prorocentrum), người ta đã phân lập ra được lớp chất có thể ức chế các enzim đặc hiệu - ức chế chọn lọc protein phosphatase trước đây con người rất ít biết tới. Vài năm gần đây, phân tử mới này đã trở thành một chất cực kỳ quan trọng để nghiên cứu các hiện tượng chuyển tín hiệu do di truyền ở các đơn bào có nhân.
Trong khi tìm kiếm kháng sinh ở ống tiêu hóa của nhiều loài động vật, người ta đã phát hiện ra một lớp kháng sinh mới từ các dịch chiết dạ dày của loài cá mập. Lớp kháng sinh này có khả năng diệt cả khuẩn gram âm và gram dương, diệt nấm, diệt động vật đơn bào.
Theo PGS TSKH Nguyễn Tác An, viện trưởng Viện Hải Dương học Nha Trang, các nghiên cứu về đa dạng sinh học biển ở Việt Nam đã bước đầu phát hiện 12.600 loài sinh vật khác nhau, trong đó có 6.400 loài động vật không xương sống. Trên thực tế vẫn còn rất nhiều nhóm sinh vật chưa nghiên cứu, hoặc chỉ mới nghiên cứu ở mức rất sơ lược.
Nghiên cứu thủy vực ven bờ biển Việt Nam, đã phát hiện ra 12 loài thuộc giống tảo giáp, 45 loài vi tảo chứa độc tố gây hại. Theo TS Nguyễn Thị Vân Thái, Viện Y học Cổ truyền Việt Nam, đối với y học, những độc tố có trong các loại tảo nói trên là những dược liệu quý có thể dùng làm thuốc để chữa các bệnh nan y. Chẳng hạn, độc tố lectin từ hải sâm có khả năng gây ngưng kết một số tế bào như hồng cầu, tinh trùng.
Với lợi thế có bờ biển dài hơn 3.260km, sinh vật biển Việt Nam không chỉ giàu chất lượng mà còn phong phú đa dạng về số lượng. "Nếu được đầu tư nghiên cứu thỏa đáng, sinh vật biển không chỉ là nguồn dược liệu chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng trong nước mà còn có thể xuất khẩu, mang lại nguồn thu lớn cho đất nước." - PGS Nguyễn Tác An nói.
Nam Giao
|
|
|
Post by Robot on Jul 6, 2004 22:47:14 GMT -5
Lập Trung tâm Quốc gia Cảnh báo Môi trường Biển
(VietNamNet) - Một trong các nhiệm vụ của Trung tâm này: Hình thành cơ sở dữ liệu môi trường biển Việt Nam để phục vụ việc quy hoạch khai thác, nuôi trồng biển và xây dựng các khu bảo tồn biển.
Bộ trưởng Bộ Thủy sản vừa có quyết định thành lập Trung tâm Quốc gia Quan trắc, Cảnh báo Môi trường Biển, trên cơ sở Phòng Nghiên cứu Môi trường biển, Trạm Quan trắc và phân tích môi trường biển thuộc Viện Nghiên cứu Hải sản.
Khai thác gần bờ cũng góp phần làm cạn kiệt nguồn hải sản. Đặt tại 170 Lê Lai, quận Ngô Quyền, TP Hải Phòng, Trung tâm này có chức năng nghiên cứu môi trường biển, mối quan hệ giữa môi trường với nguồn lợi, giữa môi trường với sự phát triển nghề cá biển.
Trung tâm có nhiệm vụ nghiên cứu đề xuất các thông số giám sát và cảnh báo môi trường, dịch bệnh thủy sản, các phương án, giải pháp xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường biển; quan trắc, cung cấp các thông tin về chỉ tiêu chất lượng, hiện trạng môi trường phục vụ cho công tác giám sát, quản lý và bảo vệ môi trường biển. Đồng thời, xây dựng chương trình kiểm soát, mạng lưới quan trắc và cảnh báo môi trường, kịp thời phục vụ cho nuôi trồng, bảo vệ và phát triển bền vững nguồn lợi hải sản. Đặc biệt, Trung tâm sẽ cung cấp cơ sở dữ liệu môi trường biển Việt Nam - cơ sở để quy hoạch khai thác, nuôi trồng biển và xây dựng các khu bảo tồn biển.
Việt Nam có dải bờ biển dài khoảng 3.260km và vùng biển đặc quyền kinh tế rộng gấp nhiều lần diện tích đất liền. Tuy nhiên, chúng ta đang đứng trước một loạt vấn đề về môi trường và tài nguyên trong phạm vi biển và đới bờ của mình, trong đó có vấn đề ô nhiễm do công nghiệp, mất tính đa dạng sinh học, đánh bắt cá quá mức và phá hoại vùng đầm lầy ngập nước ven biển.
H.Y
|
|
|
Post by Robot on Oct 18, 2004 12:21:47 GMT -5
Tài nguyên biển ở Cù lao Chàm đang bị đe doạ(VietNamNet) - Đó là cảnh báo của các nhà khoa học đang tham dự hội thảo đánh giá thực trạng và bàn biện pháp bảo vệ Khu bảo tồn biển Cù lao Chàm Đa dạng sinh học ở Khu bảo tồn biển Cù lao Chàm (Hội An) đang bị đe doạ bởi nạn khai thác bừa bãi và ô nhiễm môi trường. Dự án Khu bảo tồn biển Cù lao Chàm (Hội An - Quảng Nam) thuộc Hiệp định hỗ trợ mạng lưới khu bảo tồn biển ở VN do Chính phủ hai nước Việt Nam và Đan Mạch ký kết đã hoạt động được 1 năm. Trong hai ngày 17–18/10, tại Hội An, Ban quản lý dự án Khu bảo tồn biển Cù lao Chàm tổ chức hội thảo đánh giá kết quả khảo sát đa dạng sinh học tài nguyên biển Cù lao Chàm với sự tham gia của hơn 20 nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong và ngoài nước. Đây là hội thảo có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá đúng thực trạng nguồn lợi thuỷ sản, hiện trạng kinh tế - xã hội tại Cù lao Chàm, làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn để thống nhất khoanh vùng bảo vệ hệ sinh thái rạn san hô và các hệ sinh thái khác ở đây. Theo báo cáo của các nhà khoa học, tài nguyên biển ở Cù lao Chàm vô cùng đa dạng; gồm san hô, tảo, thân mềm, cá rạn và sinh vật lớn tầng đáy... Đặc biệt, ở vùng biển này, các nhà khoa học đã phát hiện 200 loài san hô thuộc 39 giống, trong đó có 6 loài lần đầu tiên được ghi nhận ở vùng biển VN; 202 loài cá thuộc 85 giống, 36 họ; 5 loài tôm hùm; 84 loài nhuyễn thể... Trong đó có 4 loại đã được liệt kê vào sách đỏ. Ngoài ra, Cù lao Chàm còn là bến đỗ và là ngư trường quan trọng của Quảng Nam. Tuy nhiên kết quả của đợt khảo sát mới đây cho thấy, các nguồn tài nguyên tại Cù lao Chàm đang bị suy thoái. Hiện một số môi trường sống bao gồm các rạn san hô, thảm cỏ biển vẫn đang trong tình trạng tốt. Tuy nhiên, môi trường này đang chịu nhiều áp lực từ thiên nhiên và con người. Mật độ, kích cỡ của các loài cá và sự đa dạng của các loài tiếp tục bị giảm. Thực trạng này có nguyên nhân chủ yếu do sự khai thác quá mức của ngư dân địa phương và vùng lân cận như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Phú Yên... Phần lớn tàu thuyền tham gia khai thác đều là loại nhỏ, có công suất dưới 20CV, đánh bắt ở vùng biển nông và sử dụng các phương thức đánh bắt có nguy cơ huỷ diệt khá cao như giã cào, dùng đèn huỳnh quang, lặn ống hơi có dùng cyanua... Vì vậy, theo ý kiến của các nhà khoa học tại hội thảo, việc sớm đưa ra quy chế để phân vùng bảo vệ tại Cù lao Chàm là hết sức cần thiết. Trong đó bao gồm phân chia cụ thể vùng cấm tuyệt đối, vùng cho phép khai thác và vùng dành cho du lịch. Vấn đề quan trọng nhất được nhiều đại biểu thảo luận là nâng cao đời sống cho người dân vùng đảo. Đây là vấn đề then chốt vì người dân là lực lượng nòng cốt ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai thác cũng như bảo vệ vùng biển này. Theo các chuyên gia nước ngoài, dự án bảo tồn biển Cù lao Chàm phải tính đến phương án tạo điều kiện cho người dân làm kinh tế, giảm áp lực khai thác; đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Cuộc hội thảo cũng đề xuất các phương án giáo dục nâng cao kiến thức cho cộng đồng và cho cả du khách. Ưu tiên xử lý rác và nước thải, đồng thời tổ chức quản lý tốt hoạt động du lịch ở vùng biển Cù lao Chàm. Tại hội thảo, Ban quản lý dự án Khu bảo tồn biển Cù lao Chàm cũng đã đưa ra quy chế quản lý để trước mắt, có cơ sở pháp lý triển khai có hiệu quả công tác phân vùng bảo vệ tại khu bảo tồn biển này. * Hải Châu
|
|
|
Post by Robot on Nov 9, 2004 8:29:21 GMT -5
Khu bảo tồn biển Việt Nam: Cần Chính phủ quan tâm! (VietNamNet) - Việt Nam có tổng cộng 20 khu bảo tồn biển (KBTB) và ven biển với diện tích khoảng 226.400ha. Điều trớ trêu là, cho tới nay vẫn chưa có thể chế và chính sách hoàn chỉnh nào nhằm quản lý các KBTB ở cấp quốc gia. Khu bảo tồn biển Hòn Mun đã được thiết lập và quản lý thí điểm. Theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, đại diện nhóm công tác về KBTB Việt Nam, KBTB là một phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản lý nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ đa dạng sinh học và và đáp ứng nhu cầu sinh kế của con người. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mật độ sinh vật trong các KBTB tăng gấp đôi sau một thời gian thiết lập (thường là 5 năm), cung cấp ấu trùng và bổ sung hải sản non vào vùng biển xung quanh nhờ các dòng hải lưu. Hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển và hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ được khôi phục. Do vậy, nguồn lợi thuỷ sản không bị sụt giảm, dẫn đến tăng năng suất nghề cá. Ngoài ra, KBTB còn có sức hấp dẫn đối với du khách, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng. Trên thế giới có hơn 1.300 KBTB, trong đó 640 khu đã được xác định là ưu tiên quốc gia về mặt bảo tồn đa dạng sinh học. KBTB đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Florida (Mỹ ) vào năm 1935 với 18.850ha diện tích mặt biển và 35ha vùng đất ven bờ. KBTB lớn nhất thế giới là Great Coral Reef ở Australia với diện tích 34,4 triệu ha. KBTB nhỏ nhất là khu dự trữ san hô đỏ ở Monaco và khu Doctor's Gully ở Australia (1ha). Tính tới năm 2002, Đông Nam Á có 310 KBTB và ven biển, trong đó Philippines có 280 khu. Khoảng 46% số KBTB không được quản lý hoặc quản lý lỏng lẻo, 28% được quản lý dưới mức trung bình, còn số khu được quản lý tốt chỉ đếm trên đầu ngón tay. Không ít KBTB đã bị đóng cửa vì nhiều lý do khác nhau: thiếu kinh phí để duy trì hoạt động, thiếu sự hợp tác của cộng đồng địa phương hoặc do những thiếu sót về mặt khoa học trong việc chọn lựa địa điểm, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, thể chế, pháp luật... Từ năm 1993 tới năm 1995, Tổ chức bảo tồn thiên nhiên thế giới (WWF) và Viện hải dương học đã khảo sát, đánh giá đa dạng sinh học cũng như tiềm năng bảo tồn ở 7 vùng rạn san hô nước ta. Trong hai năm 1998 và 1999, Bộ KHCN&MT và Viện Hải dương học đã nghiên cứu cơ sở khoa học quy hoạch hệ thống KBTB Việt Nam, đồng thời thành lập danh mục 15 KBTB đầu tiên để trình Chính phủ xem xét vào đầu năm 2000. Năm 2000, Bộ Thuỷ sản chuẩn bị quy hoạch 15 khu và quy chế KBTB trình Chính phủ. Tuy nhiên, cho tới nay, hệ thống KBTB đầu tiên nói trên vẫn chưa có phê duyệt chính thức về mặt pháp lý ở cấp Chính phủ. Được biết từ tháng 6/2003, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo Bộ Thuỷ sản rà soát và hoàn thiện quy hoạch cũng như quy chế KBTB để trình lại vào cuối năm 2004.
|
|
|
Post by Robot on Nov 9, 2004 8:29:38 GMT -5
Theo tinh thần của Dự thảo Quy chế Quốc gia, việc quản lý KBTB sẽ được giao cho địa phương. Bộ Thuỷ sản chỉ quản lý trực tiếp các KBTB chứa đựng yếu tố xuyên biên giới và liên tỉnh quy mô lớn. Cách phân cấp này phù hợp với xu thế cải cách hành chính (tăng cường phân cấp cho cơ sở ), phù hợp với năng lực thực tế của ngành thủy sản, tạo cơ hội cho cộng đồng dân cư địa phương tham gia bảo tồn tài nguyên biển, thống nhất quản lý KBTB ở cấp địa phương theo cách tiếp cận liên ngành. Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ quyết định thành lập các KBTB cấp địa phương và cộng đồng. UBND tỉnh quản lý KBTB thông qua ban quản lý KBTB do địa phương duyệt. Bộ Thuỷ sản thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với KBTB thông qua quy hoạch tổng thể hệ thống KBTB cấp quốc gia, khu vực và quốc tế; phát triển và giám sát việc thực thi các chính sách quản lý KBTB; thực thi các hoạt động hỗ trợ và giám sát kỹ thuật; thẩm định hồ sơ thành lập và quản lý KBTB trước khi trình UBND tỉnh phê duyệt; xúc tiến các hoạt động hợp tác quốc tế về KBTB. Tại Hội nghị bàn về cơ chế phân cấp quản lý hệ thống khu bảo tồn diễn ra vào ngày 8/11, PGS.TS Nguyễn Chu Hồi cho biết, việc quản lý các KBTB tại Việt Nam còn nhiều thách thức. Thứ nhất, các hướng dẫn pháp quy liên quan còn thiếu trình tự, nội dung mâu thuẫn và không thật rõ ràng. Thứ hai, thông tin khoa học phục vụ quy hoạch thiếu, cũ và chưa đủ căn cứ. Thứ ba, các KBTB dự kiến hầu hết ở ven bờ, nơi có dân nghèo sinh sống, chịu tác động của các hoạt động phát triển khác nhau. Thứ tư, quy mô KBTB nhỏ lẻ, đầu tư hạn chế và chủ yếu dựa vào nhà tài trợ quốc tế. Ngoài ra, nhận thức về bảo tồn biển trong dân và lãnh đạo các cấp còn chưa rõ ràng. Năng lực quản lý KBTB còn yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thiết chế tổ chức đủ mạnh, chưa phối hợp quản lý liên ngành. Cù Lao Chàm, khu bảo tồn biển thí điểm của Việt Nam. Cũng tại Hội nghị, TS Hồi cho biết chất lượng môi trường biển và vùng ven bờ tiếp tục suy giảm theo chiều hướng xấu. Ngày càng có nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông đổ ra biển, gây nguy cơ thiếu oxy trên diện rộng, đe doạ nhiều loài sinh vật. Vùng nước ven bờ đã bị ô nhiễm dầu, kẽm và chất thải sinh hoạt. Trầm tích đáy biển ven bờ, nơi cư trú của nhiều loài hải sản cũng bị ô nhiễm quá tiêu chuẩn cho phép. Trong vùng biển ven bờ nước ta đã phát hiện được 8-16 loài vi tảo biển gây hại tiềm năng với mật độ hơn 2x104 tế bào/lít. Trước đây, cứ 1 ha rừng ngập mặn có thể khai thác 700-1.000kg thuỷ sản. Nhưng hiện nay, năng suất chỉ bằng 1/20 so với trước. Nguồn lợi hải sản ở vùng ven biển gần bờ có dấu hiệu bị khai thác quá mức. Tổng sản lượng đánh bắt không ngừng tăng song hiệu suất khai thác giảm, tỷ lệ cá tạp trong một mẻ lưới ngày càng tăng, kích thước cá đánh bắt giảm. Nhiều loài thường gặp trong vùng rạn san hô đã biến mất hoặc còn lại rất ít. Khoảng 85 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau, trong đó nhiều loài vẫn đang bị khai thác quá mức. Trên 70 loài đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Một số đặc sản có nguy cơ suy kiệt như bào ngư, tu hài, vẹm xanh... Minh Sơn
|
|
|
Post by Robot on Nov 24, 2004 13:31:55 GMT -5
Tăng cường quản lý tổng hợp vùng bờ miền Trung
(VietNamNet) - Sau giai đoạn thí điểm, Dự án Quản lý Tổng hợp Vùng bờ do Hà Lan tài trợ sẽ tiếp tục triển khai giai đoạn 2 tại 8 tỉnh, thành miền Trung.
Lãnh đạo TP. Đà Nẵng và Ban quản lý Dự án thảo luận về kế hoạch triển khai giai đoạn 2. Ngày 24/11, Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng Nông Thị Ngọc Minh đã có buổi làm việc với Ban Quản lý quốc gia về phối hợp nguồn nước do ông Des Cleary, Trưởng ban điều hành Dự án Quản lý Tổng hợp Vùng bờ dẫn đầu. Đây là dự án do Chính phủ Hà Lan tài trợ nhằm cung cấp, hỗ trợ về kỹ thuật để phát triển vùng bờ, cải thiện đời sống kinh tế cho người dân, đồng thời bảo vệ môi trường. Hiện giai đoạn thí điểm của dự án tại 3 tỉnh, thành miền Trung đã sắp kết thúc. Theo đánh giá bước đầu của Ban quản lý Dự án, sau 3 năm triển khai thực hiện thí điểm, Dự án Quản lý Tổng hợp vùng bờ ở khu vực miền Trung đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
Được biết, trong giai đoạn 2 do Cục Quản lý Môi trường VN điều phối, Chính phủ Hà Lan sẽ phối hợp với Chính phủ Thụy Điển, Việt Nam và Ngân hàng Phát triển Á Châu (ADB) tiếp tục khảo sát, triển khai dự án tại 8 tỉnh ven biển miền Trung, trong đó có Đà Nẵng. Bên cạnh sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật, trong giai đoạn này dự án còn được hỗ trợ nguồn vốn lớn từ ADB giúp xóa đói giảm nghèo cho người dân các tỉnh thực hiện dự án.
Trong chuyến công tác tại miền Trung lần này, phái đoàn Ban Quản lý Dự án tập trung khảo sát, đánh giá kết quả đạt được tại các địa phương triển khai thí điểm giai đoạn 1, đồng thời tìm hiểu những khó khăn và yêu cầu của các tỉnh sẽ tham gia dự án trong giai đoạn 2. Qua đó, xây dựng kế hoạch chi tiết tiếp theo cho Dự án Quản lý Tổng hợp Vùng bờ VN. Dự kiến, ngày 10/12 sẽ tổ chức hội thảo tổng kết giai đoạn 1 và đưa ra những kế hoạch ưu tiên được thực hiện trong giai đoạn 2. Đến tháng 3/2005 sẽ hoàn tất dự án chi tiết, và bắt đầu thực hiện vào đầu năm 2006.
Để tiếp tục tham gia có hiệu quả vào chương trình này, lãnh đạo TP. Đà Nẵng đã đề xuất Ban Quản lý Dự án cử chuyên gia về quản lý tổng hợp vùng bờ về giúp đỡ và đào tạo nhân lực cho TP. Bên cạnh đó, cũng cần có những hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng và tìm nguồn tài trợ cho các dự án bảo vệ môi trường, giúp địa phương quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội - môi trường một cách tổng thể và bền vững.
Hải Châu
|
|