|
Post by Robot on May 28, 2004 17:54:41 GMT -5
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Chương 1 Dự án đầu tư_khái niệm và thuật ngữ Chương 2 Quản trị dự án Chương 3 Thời gian và giá thành trong sơ đồ mạng Chương 4 Tài nguyên và sơ đồ mạng
|
|
|
Post by Robot on May 28, 2004 17:56:02 GMT -5
CHƯƠNG 1
DỰ ÁN ĐẦU TƯ - KHÁI NIỆM VÀ THUẬT NGỮ ĐẦU TƯ Khái niệm và thuật ngữ Phân loại đầu tư Các giai đoạn đầu tư CHI PHÍ Chi phí và sản lượng Chi phí thời cơ Chi phí chìm Chi phí tiền mặt và chi phí bút toán DỰ ÁN ĐẦU TƯ Khái niệm một dự án đầu tư Phân loại Các đặc điểm của dự án Các yếu tố dẫn đến thành công cùa một dự án Các năng lực của người điều hành dự án Các bộ phận của dự án NGHIÊN CỨU KHẢ THI Phân tích thị trường Phân tích kỹ thuật Phân tích nhân lực và quản lý Phân tích tài chánh hay ngân sách Phân tích hiệu quả kinh tế Phân tích hiệu quả xã hội NGHIÊN CỨU DỰ ÁN KHẢ THI THIẾT KẾ CHI TIẾT THỰC HIỆN DỰ ÁN ĐÁNH GIÁ SAU DỰ ÁN
|
|
|
Post by Robot on May 28, 2004 17:58:02 GMT -5
I. ĐẦU TƯ
1. Khái niệm và thuật ngữ - Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong 1 thời gian dự án nhằm thu về lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội
- Quàn lý đầu tư xây dựng là quản lý Nhà nước về quá trình đầu tư và xd từ bước xác định dự án đầu tư để thực hiện đầu tư và cả quá trình đưa dự án vào khai thác, sử dụng đạt mục tiêu đã định.
- Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới , mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởngvề số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định.
- Vốn Nhà Nước là vốn thuộc sở hữu toàn dân hoặc có nguồn gốc toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý theo pháp luật.
- Người có thẩm quyền quyết định đầu tư là tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước được Chính phủ giao quyền hoặc ủy quyền quyết định đầu tư.
- Chủ đầu tư là cá nhân hoặc tổ chức có tư cách pháp nhân được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư theo qui định của pháp luật.
· Tổng mức đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư và xây dựng (kể cả vốn sản xuất ban đầu) và là giới hạn chi phí tối đa của dự án dược xác định trong quyết định đầu tư và chỉ được điều chỉnh theo qui định tại điều 25 (Điều 25 Phụ lục 1)
1. Tổng mức đầu tư bao gồm những chi phí cho việc chuẩn bị đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư và xây dựng, chi phí chuẩn bị sản xuất, lãi vay ngân hàng của chủ đầu tư trong thời gian thực hiện dầu tư, vốn lưu động ban đầu cho sản xuất (đối với dự án sản xuất), chi phí bảo hiểm, chi phí dự phòng.
2. Tổng mức đầu tư chỉ được điều chỉnh trong các trường hợp:
a. Nhà nước ban hành những qui định mới được thay đổi mặt bằng giá đầu tư và xây dựng.
b. Do thay đổi tỉ gia giữa đồng VN và đồng ngoại tệ, đối với phần phải sử dụng ngoại tệ cuả dự án
c. Do trường hợp bất phản kháng
3. Bộ kế hoạch đầu tư hướng dẫn nôi dung chi tiết tổng mức đầu tư
* Tổng dự toán công trình là tổng mức chi phí cần thiết cho việc đầu tư xây dựng công trình thuộc dự án, được tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kỹ thuật. Tổng dự toán công trình bao gồm các khoản chi phí có liên quan đến khảo sát, thiết kế, xây lắp, mua sắm thiết bị, chi phí sử dụng đất đai, đền bù và giải phóng mặt bằng, chi phí khác vá chi phí dự phòng.
* Vốn đầu tư được quyết toán là toàn bộ chi phí hợp pháp đã được thực hiện trong quá trình đầu tư để đưa dự án vào khai thác sử dụng. Chi phí hợp pháp là chi phí theo đúng hợp đồng đã ký kết, đảm bảo đúng chế độ kế toán của Nhà nước và được kiểm toán khi có yêu cầu của Người có thẩm quyền quyết định đầu tư.
* Tiêu chuẩn xây dựng là các tiêu chuẩn kỹ thuật được qui định để thực hiện các công việc khảo sát, thiết kế, xây lắp, nghiệm thu đảm bảo chất lượng công trình, áp dụng cho từng loại chuyên ngành xây dựng do Nhà nước hoặc các Bộ quản lý xây dựng chuyên ngành ban hành.
* Quy chuẩn xây dựng là văn bản qui định các yêu cầu kỹ thuật tối thiểu bắt buộc phải tuân thủ đối với mọi hoạt động xây dựng và các giải pháp tiêu chuẩn xây dựng được sử dụng để đạt các yêu cầu do Bộ Xây Dựng thống nhất ban hành.
- Đấu thầu là quá trình lựu chọn nhà thầu, đáp ứng được yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu.
- Xét thầu là quá trình phân tích, danh giá các hồ sơ nhận thầu, để xét chọn bên trúng thầu.
- Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của chủ đầu tư, có dự án cần đấu thầu.
- Nhà thầu là tổ chức kinh tế có đủ điều kiện và tư cách pháp nhân để tham gia đấu thầu.. Nhà thầu có thể là cá nhân, trong trường hợp đấu thầu tuyển chọn tư vấn.
- Gói thầu là một phần công việc của dự án đầu tư được chia theo tính chất hoặc trình tự thực hiện dự án; có quy mô hợp lý và đảm bảo tính đồng bộ của dự án; để tổ chức lựa chọn nhà thầu.
- "Gói thầu" cũng có thể là toàn bộ dự án.
- Tư vấn dầu tư và xây dựng là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn cho bên mời thầu, trong việc xem xét quyết định kiểm tra quá trình đầu tư và thực hiện đầu tư.
- Sơ tuyển là bước lựa chọn các nhà thầu có đủ tư cách và năng lực dể tham dự dấu thầu.
- Nộp thầu là thời hạn nhận hồ sơ dự thầu, được quy dình trong hồ sơ mới thầu.
- Mở thầu là thời điểm tổ chức mở các hồ sơ dự thầu, được quy định trong hồ sơ mời thầu
- Danh sách ngắn là danh sách thu hẹp các nhà thầu được lựa chọn qua các buộc đánh giá hồ sơ dự thầu.
|
|
|
Post by Robot on May 28, 2004 18:02:09 GMT -5
2. Phân loại đầu tư
a) Đầu tư trực tiếp
Đầu tư trực tiếp là loại đầu tư mà người đầu tư vốn (chủ đầu tư ) và người sử dụng vốn là 1 chủ thể
· Đầu tư nước ngoài trực tiếp FDI (Forein Direcông trình Investment): người đầu tư và vốn là nước ngoài
Đặc điểm FDI
Nhìn sang các nước châu Á lân cận, ta thấy họ ngày càng nhận thức vai trò quan trọng của FDI trong xu thế toàn cầu hoá, đang ra sức tạo điều kiện để thu hút FDI hơn nữa. Các nước này với quá trình phát triển và thu hút FDI trong nhiều thập kỷ đã xây dựng được một nền công nghiệp vững mạnh hơn Việt Nam rất nhiều. Có thể nói trình độ kỹ thuật, công nghệ, bề dày của tri thức quản lý kinh doanh tại các nước này đã tăng nhanh và phụ thuộc nhiều vào độ lớn của FDI được tích luỹ (FDI stock). Là một nước đi sau, FDI được tích luỹ của Việt Nam quá nhỏ so với các nước lân cận là đương nhiên. Nhưng vấn đề đáng quan tâm ở đây là dòng chảy hàng năm (flow) của FDI vào Việt Nam cũng quá nhỏ so với Thái Lan, Philippines.
Tại các nước châu á khác, FDI qua mấy chục năm không những tích luỹ về lượng mà còn về chất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và tạo dựng một nền tảng công nghiệp ngày càng vững chắc. Đặc biệt, từ giữa thập niên 1980, FDI của Nhật tại châu Á ngày càng nghiêng về các ngành chế tạo máy móc và linh kiện như xe hơi, sản phẩm đi ện và điện tử, máy công cụ, máy dùng trong nông nghiệp, trong xây dựng. . . Tỷ lệ của các ngành sản xuất máy móc và linh kiện trong tông vốn FDI thuộc lĩnh vực chế tạo của Nhật tại châu A trong ba thập niên trước năm 1980 chỉ có 24%, nhưng tỷ lệ này đã tăng lên 45% trong hai thập niên 1980 và 1990. Tính riêng về ngành điện và điện tứ, tỷ lệ này tăng từ 12% đến gần 27% trong thời gian trên. Ngoài Nhật, các công ty Âu Mỹ và Đài Loan cũng đầu tư nhiều trong lĩnh vực này. Hiệu quả tích tụ và phản ứng dây chuyền của các ngành này rất !ớn. Khi đã có một số công ty đầu tư sản xuất nhiều linh kiện, bộ phận điện tử vào một địa điểm nào đó (do những điều kiện ưu đãi về thuế, về cơ sở hạ tầng...) thường kéo theo những đầu tư mới để lắp ráp các linh kiện, bộ phận đó, hoặc để sản xuất những sản phẩm trung gian cung cấp cho những công ty đã đầu tư trước. Do hiệu quả tích tụ và phản ứng dây chuyền này, sau nhiều năm tích cực thu hút FDI, hiện nay Malaysia đã trở thành một trong những trung tâm lớn của thế giới sản xuất ti-vi màu, máy quay video, đầu máy DVD và nhiều sản phẩm điện tử khác. Thái Lan đã trở thành trung tâm sản xuất xe hơi và các bộ phận liên hệ (lớn thứ ba ở châu á, sau Nhật và Hàn Quốc) . Trong thập niên 1990, nhờ cải thiện môi trường FDI, Philippines đã thành công trong việc tăng sức cạnh tranh trong công nghệ điện tử, nâng tỷ lệ của các sản phẩm điện tử và chất bán dẫn trong tổng kim ngạch xuất khẩu từ 17% vào năm 1990 lên tới 53 % vào năm 1998
FDI được tích luỹ của Nhật tại Việt Nam còn quá ít: chỉ bằng 1/11 của Thái Lan và 1/7 của Malaysia, chưa nói đến những nước như Indonesia, Trung Quốc. Ngay cá Philippines là nước phát triển chậm nhất trong các nước ASEAN trong 30 năm qua nhưng FDI được tích luỹ của Nhật tại đây cũng lớn hơn Việt Nam 4,5 lần Nhưng như đã nói ở trên, sự cách biệt này không quan trọng lắm vì Việt Nam mơl bắt đầu có chính sách thu hút FDI từ cuối năm 1987 và Nhật chỉ thực sự bắt đầu đầu tư ở Vlệt Nam từ năm 1993.
|
|
|
Post by Robot on May 28, 2004 18:03:17 GMT -5
Tình hình FDI tại VN Ba đặc trưng của FDI tại Việt Nam Thứ nhất, vốn đăng ký của các dự án FDI giám liên tục từ năm 1997. Đặc biệt vốn đăng ký năm 1999 chỉ bằng 40% năm trước và tụt xuống trở lại mức năm 1991. Vốn đăng ký năm 2000 đạt 19 tỉ USD, tăng 21% so với nam trước và do đó về hình thức đã chấm dứt được khuynh bướng giảm liên tục vừa đề cập Tuy nhiên, trong năm 2000 có dự án khai thác khí đốt Nam Côn Sơn rất lớn, chỉ một dự án nầy đã chiếm hơn phân nứa toàn bộ vốn đăng ký của năm này. Do đó, về thực chất, chưa cỏ một sự xoay chiều trong FDI tại Việt Nam. So sánh vốn thực hiện của FDI tại các nước châu á (xem báng) cho thấy vốn thực hiện FDI tại Việt Nam mấy năm gần đây chưa giảm nhiều vì nhờ kết quả của vốn đăng ký trong những năm trước đó nhất là những năm từ 1996 trở vế trước: Tuy nhiên, với khuynh hướng giám nhanh và liên tục trong vốn đăng ký những năm gần đấy, vốn thực hiện trong những năm sau sẽ giảm trầm trọng. "Trong bản dự tháo Báo cáo chính tri của Đại hội IX sắp tới: trong kế hoạch năm năm lần thứ bảy (200l-2005), Việt Nam dự kiến sẽ cần mỗi năm 11,2 ti USD vốn FDI, bằng 18 – 19 % tổng vốn đầu tư (tý lệ này tương đương với tỷ lệ của mấy năm gần đây). Với tình huống vừa đề cập, Việt Nam rất có khả năng không đạt được mục tiêu này. Thứ hai, FDI vào Việt Nam cho đến nay tập trung vào. các ngành khai thác dầu khí, xây dựng, bất động sản (khách sạn nhà cao tầng...), du lịch..., còn các dự án phát triển công nghiệp thì còn ít. Tính đến cuối tháng 6-2000, công nghiệp chỉ chiếm 30% trong tống kim ngạch FDI đã được đăng kỷ cho đến thời điểm đó, và hơn nữa trong đó hơn hai phần ba là các ngành công nghiệp nặng là những ngành cần được bảo hộ, chú yếu sán xuất cho thị trường trong nước và ít tạo ra công ăn việc làm (xem bảng). Trong thời kỳ đầu của quá trình thu hút FDI, khuynh hướng tập trung vào các ngành phi công nghiệp cũng thấy có ở kinh nghiệm tại các nước khác như Trung Quốc. Lý do là các nhà đầu tư nước ngoài muốn nhanh chóng thu hồi vốn trong một thị rường còn rủi ro, chưa ổn định về hành lang pháp lý và cơ sở hạ tầng. Một lý do nữa là trong giai đoạn đầu có nhiều nhu cầu đầu tư vào các ngành khách sạn, dịch vụ, thông tin đề xây dựng cơ sớ hạ tầng phục vụ cho phát triển sán xuất kinh doanh (mà có thể gọi chung là business infrastructure- Bảng 2: Dòng chảy FDI vào các nước Châu á đây, FDI tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa chuyền sang giai đoạn tập trung vào ngành công nghiệp. Thời kỳ FDI tập trung vào business infrastructure tại Việt Nam có thể nói là chấm dứt khoáng năm 1995-1996, nhưng sau đó thay vì FDI triển khai mạnh mẽ sang các ngành công nghiệp, nhất là các ngành phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam, thì ngược lại, như đã thấy ở trên, FDI giảm mạnh và liên tục. Trước nhu cầu cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, đế thú hút lao động dư thừa hiện nay và trước nhu cầu cần du nhập nhiều công nghệ, vốn và tri thức quản lý, kinh doanh đề ngày càng có nhiều hàng công nghiệp cạnh tranh được trên thị trường thế giới, tình hình gần đây là đáng lo ngại vì sẽ ảnh hưởng đến chiến lược công nghiệp hoá sắp tới nếu không sớm có biện pháp đề khởi động một sự chuyển dịch cá lượng và chất của FDI tại Việt Nam. Đặc trưng thứ ba cửa FDI tại Việt Nam gần đây là ngày càng có nhiều dự án 100 % vốn nước ngoài, và các dự án liên doanh thì ngày cảng ít đi. Nếu chia 13 năm (1988-2000) thu hút FDI thành 3 giai đoạn thì thấy như sau: Nếu trong giai đoạn 1988-1992, số dự án 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 12% tổng số dự án được cấp giấy phép, thì tý lệ này táng lên 38% trong giai đoạn 1993- 1996 và !ên tới 64% trong giai đoạn gần đây nhất. Riêng trong năm 2000, tỷ lệ này là 78%, số dự án án 100% vốn nước ngoài lên tới con số 286, gấp 4, 5 lần số dự án liên doanh.(tác giả tính từ tư liệu của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư ): Ngoài ra, nhiều dự án nguyên là liên doanh đã xin chuyển sang hình thức 100 % vốn nước ngoài. Các trường hợp này bắt đầu từ năm 1997 (chi tính đen cuối tháng 4- 1999 đã có 39 dự án như vậy) và tăng nhanh trong những năm gần đây. * Liên doanh (Joint Venture) : người đầu tư và vốn là nước ngoài hợp tác với cơ quan Nhà nước, người đầu tư và vốn trong nước. * Đầu tư trực tiếp trong nước : người đầu tư và vốn là nước trong nước.
|
|
|
Post by Robot on May 28, 2004 18:04:16 GMT -5
b) Đầu tư gián tiếp
Đầu tư gián tiếp là loại đầu tư mà người đầu tư vốn và người sử dụng vốn không là 1 chủ thể
· Viện trợ phát triển chính thưc ODA ( Official Development Assistant)
ODA là nguồn vốn hổ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoảng viện trợ và cho vay với điều kiện ưu đãi. ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triểnđược các các cơ quan chính thức của chính phủ trung ương và điạ phương hoặc các cơ quan thừa hành của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia, được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ thông qua một hiệp định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hổ trợ vốn ký kết.Hiệp định ký kết hổ trợ nầy được chi phối bởi công pháp quốc tế.
Theo cách thức hoàn trả ODA có ba loại:
+ Viện trợ không hoàn lại
Là loại ODA mà bên nước nhận không phải hoàn lại, nguồn vốn nầy nhằm để thực hiện các dự án ở nước nhận vốn ODA, theo sự thoả thuận trước giữa các bên. Có thể xem viện trợ không hoàn lại như một nguồn thu ngân sách của nhà nước, dược cấp phát lại theo nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Viện trợ không hoàn lại chiếm 25% tổng số ODA trên thế giới và được ưu tiên cho những dự án về các lãnh vực như y tế, dân số, giáo dục, môi trường...
+ Viện trợ có hoàn lại (còn gọi là tín dụng ưu đãi)
Vốn ODA với một lãi suất ưu đãi và một thời gian trả nợ thích hợp, tín dụng ưu đãi chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số vốn ODA trên thê giới. Nó không được sử dụng cho mục tiêu xã hội, môi trường mà thường được sử dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng thuộc các lãnh vực giao thông vân tãi, nông nghiệp, thủy lợi, năng lượng...làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế. Các điều kiện ưu đãi bao gồm:
· Lãi suất thấp
· Thời gian trả nợ dài
· Có khoảng thời gian không trả lãi hoặc trả nợ
+ ODA cho vay hỗn hợp
Là loại ODA kết hợp hai dạng trên, bao gồm một phần không hoàn lại và tín dụng ưu đãi.
* Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao BOT (Built-Operation-Transfer)
Do thiếu vốn nên Chính Phủ có thể kêu gọi các công ty bỏ vốn xây dựng trước (Built) thông qua đấu thầu, sau đó khai thác vận hành một thời gian (Operation) và sau cùng là chuyển giao (Transfer) lại cho nhà nước sở tại. Hình thức nầy cũng được sử dụng ở VN, nhưng sau một thời gian có nhười ta có chung một nhận xét là thường các dự án dạng BOT giá thành thường được đẩy lên cao hơn thực tế nhiều do phía đầu tư biết rằng bên đối tác thiếu vốn để xây dựng để phát triển cơ sở hạ tầng và có quá nhiều nước đang phát triển cần vốn.
c) Các phân loại đầu tư khác
· Phân theo nhóm
Dựa vào vốn đầu tư, ngành nghề kinh tế mà các dự án đầu tư có thể phân thành ba nhóm A B C (chi tiết xem phần phụ lục trong phụ lục1)
· Phân loại theo trình tự lập và trình duyệt dự án
Theo trình tự lập và trình duyệt dự án được phân ra làm 2 loại:
+ Nghiên cứu tiền khả thi (xem phần IV của chương nầy)
+ Nghiên cứu tiền khả thi (xem phần V của chương nầy)
Tùy theo qui mô của đầu tư mà phải tiến hành nghiên cứu hai hoặc một bước trong trình tự nầy.
|
|