|
Post by danmoitruong on Oct 9, 2004 21:09:27 GMT -5
TTCN - Napoleon từng nói: “Quân lính hành quân trên cái dạ dày”, du khách cũng thế thôi. Người ta tận hưởng chuyến đi nếu nơi đến có thức ăn ngon và rẻ, nhưng họ sẽ thật bất bình nếu các bữa ăn đắt tiền và chán phèo.
Nếu một xứ sở nào đó không thể cung cấp được những bữa ăn xứng đáng và với giá cả phải chăng, đương nhiên phải chịu cảnh thua thiệt trong lĩnh vực hái ra tiền là du lịch.
Thường thì du khách có thể vừa tự hạ thấp được chi phí, vừa vui thích tận hưởng được các món ăn ngon nếu họ biết tính toán khôn khéo. Từ khá nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp cận với ẩm thực ở xứ lạ của các cây bút chuyên về du lịch quốc tế, có thể tổng kết được một số qui tắc hàng đầu sau đây:
Spaghetti của Ý, món ăn đã trở thành toàn cầu Hãy ăn cái gì người ta ăn
Tập trung vào những đặc sản địa phương như nui, mì spaghetti ở Ý; bánh nướng thịt và bồ dục ở Anh; cá trích ở Scandinavia; phở ở VN... Những món ăn được người địa phương được ưa chuộng ở bất cứ nơi đâu thường là những món ngon nhất trong đất nước ấy, được chế biến kỹ và lại rẻ. Nếu gọi những món quen dùng như hamburger kiểu Mỹ, rượu Martini, bánh nhân táo... bạn sẽ phải trả khá nhiều tiền mà thức ăn chẳng ngon lành gì.
Uống cái gì người ta uống
Trong những xứ quen uống rượu vang (Pháp, Ý), hãy gọi rượu thay vì gọi bia. Rượu nho ở đó tuyệt ngon và rẻ, trong khi bia rất tệ và chặt đẹp. Ngược lại, ở những xứ uống bia (Đức, các nước vùng Scandinavia), hãy uống bia chứ đừng uống rượu bởi bia rẻ mà chất lượng cực kỳ ngon.
Ăn món người ta ăn vào đúng thời điểm
Hãy theo đúng “mẫu ẩm thực” của quốc gia bạn đến. Nếu họ có tập quán ăn sáng qua loa để ăn một bữa trưa thịnh soạn (Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Hi Lạp), bạn hãy làm như họ. Nếu bạn làm khác đi bằng cách đặt một bữa sáng thịnh soạn ở các nước này, bạn sẽ có dịp trả tiền mệt nghỉ cho một bữa ăn chẳng tương xứng gì cả. Trái lại, với những nước có truyền thống ăn bữa sáng thật thịnh soạn (Anh, Israel, Úc), bạn hãy theo họ, và sẽ thấy rằng bữa sáng linh đình ấy là bữa ăn được chuẩn bị chu đáo nhất trong ngày, lại tương đối rẻ.
Ăn đúng theo lượng bạn cần
Trong khi du lịch, tất cả chúng ta đều ăn nhiều hơn so với khi ở nhà. Dường như do chúng ta cảm thấy bị “dọa dẫm” giữa những món ăn khác lạ, giữa những người phục vụ nước ngoài: liệu họ có nghĩ mình “nhà quê” không khi gọi món xúp này? Ở nhà chúng ta ít ai mơ đến một bữa trưa có bốn món khác nhau, nhưng đây là nước ngoài, chúng ta nghĩ mình có “bổn phận” đặt một bữa ăn cho ra vẻ và tự đẩy mình vào trong một tình trạng rất oải, với những chi phí đáng kể trong khi cư dân địa phương ở bàn bên cạnh rất thoải mái với những món ăn rẻ và đơn giản.
Tách ra, chia thành từng phần
Đi ăn hai người, hãy gọi một món cho cả hai hoặc một món khai vị và một món chính rồi chia nhau. Bạn cũng có thể trả lại nhà bếp những món chưa ăn. Những phần ăn ở hầu hết các nhà hàng du lịch đều đủ cho một gia đình (ngoại trừ những nơi hết sức sang trọng với những phần ăn chỉ để lấy hương lấy hoa). Đừng gọi một món thịt để rồi nhìn thấy một đĩa đầy ắp khổng lồ không thể nào ăn cho hết! Vậy thì khi gọi món hãy nói rõ: một miếng sườn thật ngon cho hai người, bạn sẽ xơi hết món sườn thật khoan khoái và tiết kiệm được khối tiền đấy.
Ăn dã ngoại mỗi ngày một lần
Thay vì đi đến nhà hàng ba lần/ngày và ngấu nghiến hết món này đến món khác toàn những thứ bổ béo, nóng hổi; hãy xen kẽ bằng một bữa ăn nguội, nhẹ như bánh mì kẹp thịt. Đến những cửa hàng địa phương có những món tương tự, hoặc đến một gian hàng thức ăn mua một miếng patê, một miếng phômai, hai ổ bánh mì, hai trái cà chua, một ít đồ chua và một chai rượu rồi mang tất cả ra một công viên hay bờ sông ăn một cách vui tươi, lành mạnh và tiết kiệm. Ôi thật là hạnh phúc!
|
|
|
Post by danmoitruong on Oct 9, 2004 21:09:46 GMT -5
Nhìn trước khi nhảy
Đừng bao giờ gọi một món nào mà mình chưa biết giá. Đừng bao giờ chiếu cố đến tiệm ăn nào không bày thực đơn ra bên ngoài. Cũng không gọi các món được liệt kê theo kiểu “theo giá thị trường hôm nay” hoặc “tùy theo trọng lượng”. Trao quyền chủ động cho nhà hàng, bạn sẽ phải trả một giá hãi hùng đấy.
Thận trọng với những người phục vụ mang theo quà
Không ăn bất cứ cái gì đặt trên bàn trước khi bạn đến (như một hũ patê chẳng hạn) vì giá sẽ vô cùng đắt. Từ chối bất cứ cái gì được tự ý mang đến bàn của bạn trong khi bữa ăn đang hào hứng diễn ra, trừ phi món ấy được nói rõ là miễn phí.
Tránh những “từ quen thuộc”
Nếu đột nhiên cái tên của một nhà hàng nào hiện ra trong đầu bạn, giữa một thành phố xa lạ, đó là bởi vì bạn đã nhập tâm cái tên ấy qua nhiều năm. Và điều đó có nghĩa là bạn đã đi sau nó 20 năm: những cái tên quen thuộc ấy đã nổi tiếng khắp nơi, đã nhàm, nhưng giá ở đó thường đắt khủng khiếp bởi bạn phải gánh cả cái chi phí của sự nổi tiếng ấy.
Không bao giờ ăn ở sân bay
Nếu chưa ăn đủ khi ra sân bay, hãy mang theo bánh mì kẹp thịt, bánh ngọt trong túi xách, giấu một trái chuối trong tờ tạp chí bạn mang theo. Làm cách gì cũng được nhưng đừng rơi vào cảnh phải ăn tại sân bay. Ăn uống ở sân bay vừa dở tệ hại vừa đắt kinh dị!
Chiếu cố các chợ
Khi ngần ngại không biết ăn ở đâu trong một thành phố lạ, bạn hãy tìm đến khu chợ lớn nhất, nơi có những hàng quán lợp vải bạt bên trong bán tất cả mọi nguyên vật liệu cho các bữa ăn. Bất cứ nơi nào có chợ sẽ có nhà hàng, quán ăn gần đó với thức ăn tươi và giá phải chăng: món ăn ở những quán hàng đó được nấu nướng từ nguyên vật liệu tươi mua tại chợ mỗi ngày nên giá rất rẻ.
Để dành tiền cho một cú tiêu pha lớn
Và cuối cùng, dè sẻn trong cả chuyến đi để dùng cho một việc đích đáng: hãy ăn một bữa nhớ đời khi kết thúc những ngày du lịch cùng gia đình; một kết thúc cần thiết cho một chuyến đi tuyệt vời. Có thể tại một nhà hàng ba sao ở Pháp, một nhà hàng sang trọng ở Tây Ban Nha, một nhà hàng cung đình ở Trung Quốc hay Hong Kong. Chẳng hạn, hãy gọi món gà nướng đất sét (Hong Kong), món “gà xứ Bresse” (gà được nuôi trong những cái chuồng tối, bằng ngũ cốc nghiền trộn với sữa chua ở Pháp), một con heo sữa được quay trên lửa than (Tây Ban Nha). Lúc đó bạn sẽ biết vì sao có nhiều người ghiền du lịch đến như vậy!
BÍCH GIANG
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 10:47:26 GMT -5
Đến Bali thuởng thức hương vị “bebek betutu” Trong các đặc sản của Bali - Indonesia có lẽ món vịt “bebek betutu” là món tuyệt vời nhất khiến nhiều du khách đã dùng một lần đều muốn trở lại nhiều lần để... tận hưởng. Theo nhiều du khách sành điệu, như chị Jennifer Joan Lee của tạp chí du lịch Destin Asian chẳng hạn, thì món vịt bebek betutu của đảo Bali không kém cạnh món “vịt quay Bắc Kinh” nổi tiếng của Trung Quốc. Bebek betutu không phải là vịt quay. Theo mô tả của bếp trưởng Nesa thuộc nhà hàng trứ danh Alila Ubud thì bebek betutu là món vịt vừa hầm vừa rán. Ông cho biết là phải chọn loại vịt nuôi trên ruộng đồng, độ 6 tháng tuổi, làm sạch rồi đem hầm 10 tiếng đồng hồ sao cho xương vịt mềm ra. Xong vớt để ráo nước mới đem rán giòn. Khi ăn nhai cả da, thịt, xương... ngon “nhức cả răng”. Bí quyết làm món này nằm ở cách hầm sao cho xương vịt mềm mà không bị nhão ra, đồng thời ở cách ướp gia vị mà các đầu bếp mỗi nhà hàng đều cố giữ bí mật. Món bebek betutu lịch sự thì ăn trên đĩa lớn. Nhưng theo nhiều người sành điệu thì để nhà hàng dọn món này trong những chén dĩa bằng lá chuối ăn mới có hương vị đặc sắc. (Theo TTVN)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 11:35:21 GMT -5
Ăn cá nóc trên đất Phù Tang Mùa đông Tokyo, những người khách quý phương xa đến Nhật sẽ được mời đi ăn cơm ở những quán ăn truyền thống. Trong những món ăn mà người dân xứ Phù Tang cho là quý hiếm có rau mọc trên núi và cá quý dưới biển, đặc biệt, món cá nóc sống được xem như cao lương mỹ vị Món ăn được dọn ra, bên cạnh nhiều chén nhỏ đựng nào là hành xắt, củ cải nghiền, ớt đỏ xay nhuyễn, chén giấm là một đĩa lớn được bày ở giữa, có in hình cô gái mặc kimono. Nhìn kỹ lắm mới thấy rõ là trên mặt đĩa có xếp một lớp cá sống có thịt màu trắng rất ngon. Nhấp một ngụm sake nóng, gắp lát cá sống nhúng vào chén giấm có hành, củ cải, ớt đỏ băm nhỏ - còn gọi là giấm ponzu - đưa vào miệng nuốt chậm mà cảm nhận vị lành lạnh thơm ngát ngọt ngào của món cá sống. Người Nhật giới thiệu đây là cá fugusashi, tức cá nóc ăn sống. Thật kinh ngạc vì đó là loại cá Việt Nam đang khuyến cáo - nếu không nói là cấm - không nên ăn. Fugu tức cá nóc. Tại các nhà hàng nổi tiếng, mỗi suất ăn giá từ 100-200 USD, tuy nhiên tại các nhà hàng bình dân thì chỉ 15-20 USD. Fugu được chế biến thành nhiều món ăn và được giới sành ăn đánh giá cao như fugusashi, fugu - zõsui, hiezake, chiri-nabé... trong đó, fugusashi là món cá nóc ăn sống, là món cao cấp nhất và được trình bày rất mỹ thuật. Fuguchiri: là món cá nóc ăn cùng mì sợi, lá hoa cúc, bắp cải, cà rốt, nấm, ăn kèm với xốt giấm ponzu. Fugu - zõsui: là món cháo cá gồm có: cơm, trứng, nước dùng - ăn kèm với xốt giấm ponzu. Hirezake: là món thức uống làm từ vây cá nóc phơi khô, rồi đem nước cho đến khi ngả màu vàng hơi cháy, sau đó ngâm vào rượu sake rồi uống nóng. Một người Nhật giải thích, con cá nóc chứa đựng điều nghịch lý. Món cá này tuyệt hảo, ngon từ trong ra ngoài. Xương thì chiên lên để ăn, da thì cắt vào trong món sashimi. Thế nhưng gan, buồng trứng và một số cơ quan khác của nó chứa chất độc gây chết người. Cá nóc có tên khoa học là Diodon holacanthus, nó chứa một số lượng Tetrodotoxin là một chất độc thần kinh rất mạnh, chỉ cần liều lượng bằng đầu kim đã có thể gây ngộ độc và cướp đi mạng sống của một người rất khỏe mạnh. Chất này độc hại hơn Cyanide gấp 1.200 lần và một con cá nóc chứa đủ chất độc để giết chết 30 người. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật, có hơn 100 loài cá nóc và tất cả đề có chứa chất độc. Có năm, gần 100 người Nhật đã chết vì độc tố của con cá lạ lùng này, hầu hết xảy ra nơi những vùng không được huấn luyện để chế biến loại cá độc. Một trong những người nổi tiếng nhất của Nhật về bộ môn Kabuki là nghệ sĩ Mitsugoro Bando VIII, đã bị chết bởi độc tố của cá nóc. Cá nóc là một món ăn duy nhất không được phép phục vụ Nhật hoàng. Trong cuốn từ điển cổ của Nhật Bản, người ta gọi cá này là huku, là một loài “thủy trư”, từ này còn có một nghĩa khác là hạnh phúc. Các nhà nghiên cứu xác nhận rằng văn hóa ăn cá fugu đã có từ 2.000 năm trước. Vào thời Minh Trị Thiên hoàng, món cá nóc bị cấm ăn, ai mà lén lút ăn, khi bị phát hiện sẽ chịu phạt nặng, đặc biệt là các Samurai (hiệp sĩ ) thì bị khai trừ và phạt nặng hơn dân thường. Cho đến giữa thế kỷ XIX, Thủ tướng Ito Hirofumi đã bãi bỏ lệnh này. Bởi một lần khi đến thành phố Shimonoseki thuộc tỉnh Yamaguchi, Thủ tướng Ito Hirofumi đã ghé dùng bữa tại nhà hàng Shupanro, tại đây ông được người bếp trưởng chế biến món cá nóc “để đãi khách quý”. Là người sành ăn, ông phát hiện vị ngon đặc biệt của con cá nóc và thấy việc loại bỏ nó như lâu nay là phí của trời. Từ đó, chính phủ cho dân chúng được ăn cá nóc nhưng kèm theo nhiều luật lệ quy định nghiêm khắc như chỉ có những đầu bếp được đào tạo qua trường lớp, có thời gian thực tập lâu dài mới được phép chế biến. Trải qua hơn một thế kỷ, nhà hàng Shunpanro ở Yamaguchi ngày càng nổi tiếng vì món ăn chế biến từ cá nóc và tính lịch sử của nó. Ngày nay, có rất nhiều chi nhánh nhà hàng Shunpanro ở các thành phố lớn của Nhật Bản, thực khách hầu hết là giới thượng lưu hoặc chính khách nổi tiếng tiếp đãi khách quý. Tỉnh Yamaguchi, đặc biệt là thành phố Shimonoseki thuộc đảo Honshu, nổi tiếng vì cá fugu mà dân trên đảo gọi là cá huku theo cổ ngữ. Ở đây có một chợ đặc biệt chỉ chuyên bán cá nóc. Chợ bắt đầu họp từ 3 giờ sáng, chỉ có những người đàn ông hiểu rành về con cá nóc mới được vào đây. Cá nóc được bán sống và không niêm yết giá. Việc mua bán diễn ra rất lạ lùng, các cuộc mặc cả giá không diễn ra bằng lời mà bằng các ra dấu bằng tay. Điều lạ lùng là người mua và người bán cùng luồn tay vào trong cái ống bằng vải màu đen được che kín để... mặc cả. Đắt nhất và cũng ngon nhất là tigerfugu (cá nóc cọp), giá hơn 100 USD một con. Tại chợ Haedoman ở Shimonoseki, chỉ riêng cá nóc, doanh số bán đã lên đến 40 triệu USD mỗi mùa đông. Ngay cả người Nhật, có dịp đến Yamaguchi thường ngạc nhiên không hiểu món fugusashimi là món cá nóc ăn sống rất đắt tiền lại bày bán tại siêu thị bình dân. Thành phố này nổi tiếng nhờ cá nóc đến nỗi người ta dùng con cá này để làm biểu tượng cho thành phố. Ngày nay, vì nuôi cá nóc có lợi nhuận cao nên nhiều vùng biển ở tỉnh Mie bên cạnh Osaka, ngư dân đã bỏ nuôi ngọc trai để chuyển qua nuôi cá nóc. (Theo Doanh Nhân Sài Gòn)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:01:42 GMT -5
Lễ hội ẩm thực Israel tại Hà Nội
Từ 20-25/5, lễ hội sẽ diễn ra tại khách sạn Melia. Đầu bếp nổi tiếng Roman Elizarov sẽ tới VN để chia sẻ hương vị bếp núc. Gian bếp Israel tập trung nhiều công thức chế biến mà người Do thái mang theo khi quay trở về miền đất của sữa và mật ong.
Về mặt lịch sử, các ngày lễ Do thái đều đi kèm với các món ăn quy định có liên quan đến truyền thống và sự tích của mỗi lễ hội. Các công thức chế biến món ăn đặc biệt, như món Blintzes (ăn trong lễ Shavuot) và món Latkes (ăn trong lễ Hanukkah), đã được truyền lại qua nhiều thế hệ và giờ trở thành một phần trong nghệ thuật nấu nướng Israel.
Khi đi dã ngoại ở vùng thôn quê, người Israel có phong tục mang theo món Shishlik, Kebab (một loại bánh kẹp nhân mặn làm theo kiểu phương Đông), hay bít-tết. Các món khai vị trong các bữa ngoài trời như vậy thường là món tehina và món hummus, các thực phẩm xuất xứ từ những người láng giêng Ả-rập, và đã được sáp nhập vào thực đơn của dân Israel.
Phong tục thứ hai là kiểu bữa sáng nhiều món của Israel. Nó gồm salad, nhiều loại phô-mai, ô-liu, bánh mỳ kiểu Israel, nước quả và cà phê. Kinh thánh kể lại rằng có ba thiên thần đã tới thăm lều của trưởng lão Abraham và vợ là Sarah, và được đãi một bữa thịnh soạn. Bữa chính trong ngày ở Israel được dọn vào buổi trưa, khi trẻ con đi học về. Bưa tối thường là bữa nhẹ, nói chung gồm các món sữa, salad và trứng.
Có rất nhiều quy định về ăn kiêng của người Do thái, bắt nguồn từ Kinh thánh, và là một phần hữu cơ trong di sản nghệ thuật nấu nướng của Israel. Theo quy định này, chỉ có một vài loại thịt và cá là ăn được. Ví dụ, thịt lợn và thỏ là không được ăn, cũng như món sò ốc. Ngoài ra, các món sữa phải được nấu và ăn tách riêng khỏi món thịt. Các thực phẩm như cá, trứng, hoa quả và rau có thể ăn với thịt hoặc sữa. Hai bộ bát đĩa dành cho các món sữa và thịt, được sử dụng, rửa và cất riêng.
T.T.
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:19:50 GMT -5
Quyến rũ hương vị bánh kem www.vnexpress.net/Vietnam/Doi-song/Am-thuc/2004/03/3B9D0380/banhkem.jpg[/img]Trứng, bột, đường, bơ, sữa, mứt..., quện vào nhau tạo thành hương vị không thể làm chùng lòng những chiếc lưỡi háo ngọt. Từ thời La Mã cổ đại, khi bánh bơ sữa thay thế loại bánh làm từ bột thì nhân loại đã ghi thêm vào danh sách các món ăn không thể bỏ qua cái tên: bánh kem (cheesecake). Đến năm 1872, những chủ trang trại nuôi bò sữa ở Mỹ đã biến chiếc bánh đó thành một công nghệ hái ra tiền, với những cái tên: cheesecake farms, gloria samples classic fruitcake, the ultimate baker. Trong mỗi gia đình, mỗi người, ít nhất một lần trong đời đều đã nếm qua món ăn này. Và trong các buổi tiệc sinh nhật, Giáng sinh, cưới hỏi thì luôn có thủ tục cắt bánh kem. Nhiều người đi ăn tiệc vẫn âm thầm chừa bụng để… ăn bánh kem. Công thức làm bánh kem rất khác nhau. Cũng trứng, bột, đường, bơ, sữa đó nhưng cho thêm ít rượu rhum hay cognac, phô mai... lập tức bánh có mùi vị khác hẳn. Mỗi người, mỗi gia đình lại có gu bánh kem của riêng mình. Nếu thấy hợp với tiệm nào thì thường mua bánh của tiệm ấy. Có người kỹ tính thì đặt bánh hoặc tự làm theo công thức riêng. Mặc dù rất thích món bánh này nhưng nhiều người vẫn ái ngại khi dùng nó, bởi thành phần của bánh chứa đầy đủ các thủ phạm của tội làm tăng cân. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của một trung tâm dinh dưỡng thì nếu ăn một miếng bánh kem trọng lượng khoảng 88 g, chúng ta sẽ nạp vào cơ thể 260 Kcal. Trong đó, về giá trị dinh dưỡng nó mang lại gồm: 5,2g protein, 9,0g lipid, 38,9g glucid. Về thành phần miếng bánh kem đó gồm: 23g trứng gà, 21g đường (tương đương một muỗng cà phê đường vun), 15g mứt thơm, 13,5g bột mì và 7,8g bơ. Với thành phần dinh dưỡng như vậy, một miếng bánh kem còn kém xa một chén chè bắp. (Theo Sài Gòn Tiếp Thị )
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:23:47 GMT -5
Cá đìa nướng
Những con cá mót được sau khi tát đìa, đem nướng lên thường có vị ngon lạ thường đối với bọn trẻ chăn trâu. Khi dọn cỗ, mỗi chú cá vừa tròn một đĩa. Cá xắn ra không hề bị vụn, thịt dai chắc, bùi và hơi ngọt tự nhiên, thơm như vừa mới nướng.
Vào mùa ruộng cạn nước hàng tháng liền thì cá cả cánh đồng chui hết vào đìa. Số cá thu được trong mỗi lần tát đìa là hàng gánh trĩu vai. Không ai bắt hết cá đìa nên bọn trẻ con, dù rét mướt, khi chủ đìa không còn bắt nữa liền nhảy ào xuống bùn đi "mót". Có đìa bùn sâu đến tận bụng, dưới vỉa ngầm ấy, không thiếu những chú cá kếch xù còn sót lại. Mỗi dịp tát đìa, hầu như cả làng đều có cá ăn. Cá đìa bao giờ cũng to, những con to nhất được chọn biếu các bậc trưởng lão, gọi là đi Tết.
Người dân quê thường không có điều kiện và hiểu biết để chế biến các món ăn cầu kỳ nhưng riêng về món cá, có lẽ không mấy món tuyệt vời như món cá quả tát đìa nướng than rồi đem kho khô.
Người ta vót những thanh tre đực cứng làm xiên, xiên con cá thành hình chữ U, đem nướng trên than củi rực hồng. Trong hơi nóng, cá chín thơm dần và tự cuộn tròn lại, đầu đuôi khép vào nhau. Để nguội, cá trở nên khô chắc, ướp tẩm gia vị rồi kho với nước mắm thật ngon, hơi đậm một chút. Cá có thể để lâu cả tháng.
Đồng quê Việt Nam không còn nhiều chim cá tự nhiên. Nhưng hương vị bùn quê và những kỷ niệm xưa vẫn mãi nồng ấm, bồi hồi trong tâm tưởng.
(Theo Nhân Dân)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:25:11 GMT -5
Tảo biển - nguồn rau tươi phong phú Với nguồn vitamin và khoáng vi lượng dồi dào, tảo biến có thể được chế biến thành nhiều món ăn ngon, từ nước sốt, món tráng miệng tới các món thịt ướp... Tại châu Á, tảo đã được dùng từ nhiều thế kỷ ở Nhật, Hàn Quốc, Trung Hoa như món lê ghim trong bữa ăn hàng ngày. Tại phương Tây, tảo thường được dùng làm phụ gia và việc dùng tảo làm thực phẩm ngày càng nhiều nhờ sự du nhập văn hóa ẩm thực Nhật và Trung Hoa. Tảo chứa nhiều sinh tố và vi lượng tố như nhiều beta-caroten (chất chống oxy hóa, tiền chất vitamin A). Một số tảo khác rất giàu protein nên được dùng giải quyết nạn suy dinh dưỡng trong một vài quốc gia. Ngoài ra, tảo được dùng vì một số đặc tính lý hóa của các phân tử được trích ly như năng lực kết nối, gen hóa hoặc nhũ tương hóa. Với hàm lượng lipid thấp, tảo tạo cảm giác giống các sản phẩm béo nên được sử dụng dưới dạng bột để thay thế chất béo trong nhiều thực phẩm chế biến. Tuy có rất nhiều chủng loại tảo nhưng chỉ có 12 nhóm tảo được dùng trong ẩm thực. Đa số được dùng tươi dưới dạng salad hoặc luộc, hấp bằng hơi nước. Một số được dùng dưới dạng nướng hoặc nấu xúp. Một số tảo thường được dùng trong ẩm thực: - Tảo spirulina platensis: Loại rong xanh dạng sợi xoắn này hiện nay đang sử dụng rất nhiều như là nguồn thực phẩm bổ sung với hàm lượng protein cao, thành phần acid amin giống với trứng, các glucid dễ tiêu hóa cũng như các acid béo không no cần thiết, giàu muối khoáng (calci, kali, sắt, phosphor), giàu vitamin A, B, C. Màu xanh của tảo cũng được ly trích dùng làm màu thực phẩm thiên nhiên. Đây là loại tảo đang được dùng nhiều nhất cho người lẫn trong chăn nuôi. - Rau dấp cá biển: Rất phổ biến, chứa nhiều iod, vitamin C và sắt. Được dùng thích hợp trong các loại thực phẩm và thường thêm vào món salad. - Đậu haricot biển: Giàu chất sợi, rất được ưa chuộng tại châu Á. - Tảo dulse: Loại tảo đỏ này rất giàu vitamin A, dùng dưới dạng salad hay kết hợp với các loại nghêu, sò, ốc... - Tảo porphyra: Rất được ưa chuộng vì được dùng để chế tạo món sushi nổi tiếng với tên tiếng Nhật là Nori. Tảo porphyra giàu vitamin A, B, được dùng như các loại nấm trên mặt đất. (Theo Sài Gòn Tiếp Thị )
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:27:35 GMT -5
Cơm thơm ăn với cá kho Hễ nói "cơm với cá" là người ta nghĩ ngay đến món cá kho - món ăn được coi là đặc trưng của người Việt Nam. Mỗi vùng, miền, thậm chí mỗi bà nội trợ lại có bí quyết kho cá riêng, ngon và hấp dẫn lạ lùng. Nguyên liệu chế biến cũng khá đơn giản, cũng chỉ là cá, rồi mắm muối, gia vị tương tự như các món thịt, nhưng nghệ thuật là ở cách kho. Thông thường, kho cá có hai kiểu: kho khô (hay còn gọi là kho tiêu) và kho nước. Kho tiêu thì chỉ có cá và gia vị, nhưng lại rất khó vì cách kho đòi hỏi mỗi loại cá cần những thứ gia vị khác nhau, như kho cá kèo dân Nam Bộ thường lót rau răm dưới đáy nồi, kho cá chạch lòng tong thì phải có củ nghệ tươi giã nhuyễn. Cá trê kho với lá gừng non, cứ xếp lớp cá, lớp lá gừng và hành lá. Dân Quảng Ngãi có cách kho cá bống Sông Trà điệu nghệ như sau: Cá bống nhỏ, phải còn sống, không cần làm ruột chỉ cần xát muối cho sạch nhớt rồi rửa sạch, giữ cho không chết. Trên bếp có sẵn xoong dầu hoặc mỡ đang sôi, nhấc xuống, khử với củ hành đập nát rồi đổ luôn mớ cá vào. Cá quẫy mạnh nên khi đổ cá xong phải nhanh tay đậy nắp vung lại. Khi cá hết quẫy, bắc xoong trở lại bếp, đổ nước mắm vào kho tiếp, cho thêm gia vị. Kho cách này mọi con cá đều cong và mồm há ngoác. Kho khô còn đòi hỏi nước mắm phải ngon và người kho phải thật tinh tế trong khâu ướp cá, sao cho vừa ăn bởi lỡ quá tay một chút thì chẳng có cách chi sửa chữa được. Kho nước thì thường là kho nước dừa, như cá lóc, cá thu, cá ngừ, với các loại cá da trơn như cá hú, cá bông lau, cá trê thường kho với tương hột v.v... Nhiều người chỉ cần ngửi mùi thơm là biết nồi cá kho mặn hay lạt, thiếu thứ gia vị nào, cá có được làm sạch hay không, kho đủ lửa hay chưa. Kho cá muốn ngon phải kho loại cá từ nho nhỏ đến vừa; kho cá to, gia vị khó thấm, thân cá không săn. Vì thế, để có một rổ cá được làm sạch sẽ, bà nội trợ mất rất nhiều thời gian. Tóm lại, với món cá kho, từ lúc chế biến đến lúc ăn không thể gấp gáp vội vàng. Ăn cơm với cá kho mà gấp gáp thì không chỉ có chuyện mắc xương, mà điều quan trọng là không cảm nhận được cái vị ngọt đã thấm đẫm gia vị từ con cá, hòa quyện vào miếng cơm. Chưa hết, văn hóa cá kho còn nằm ở chỗ ăn gì và bỏ gì, trên thân con cá. Có ông kén rể, mời cơm một anh chàng với món cá kèo kho tiêu. Thấy anh ăn cá bỏ đầu bỏ bụng, chê đắng, ông quyết... không gả con gái, vì lý do: ăn con cá kèo mà không biết chỗ nào ngon thì còn biết gì khác. Lại có chuyện một cô con dâu mới về nhà chồng, lên mâm cơm, cô cứ nhè ngay cái nọng cá trê, gò má cá lóc mà gắp bỏ vào chén mình... thì rõ cô là người không biết kính trên, nhường dưới, không được giáo dục đến nơi đến chốn. (Theo Phụ nữ TP HCM)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:29:39 GMT -5
Nộm Món nộm hiện hữu khắp nơi nơi, chốn mâm cao cỗ đầy lẫn cả hè đường buôn thúng bán bưng túi bụi cần lao. Có rất nhiều các loại nộm, nhưng dường như nộm thịt bò khô vẫn chiếm vị trí độc tôn.
Vài sợi đu đủ bào mỏng tang, trắng xanh. Vài hạt lạc rang cháy cạnh, cộng thêm ít nước trộn chua chua, ngọt ngọt. Thế thôi cũng thấy được sự hấp dẫn của món ăn. Trong thế giới vô vàn món nộm ấy, thì nộm thịt bò dường như thông dụng nhất và cũng được nhiều người ưa thích nhất. Những kẻ sành ăn nộm vẫn kỳ nèo cho được miếng gan khô thật hợp khẩu, kẻ yếu răng lại chê miếng gân sậm sựt. Dăm lá rau thơm. Dúm lạc rang thơm lừng đứng dầm chân thứ nước vừa đủ chua mặn ngọt. Điểm thêm thìa tương ớt - lạc chịu chương đỏ ngời lên như một vết son. Cuộc đời với đủ mùi vị hạnh phúc và khổ đau hóa thân trong hương vị của đĩa nộm.
Hàng nộm góc chợ để bán cho các bà, các cô loại "gái dở đi rình của chua". Quý ông nam nhi muốn ăn nộm có giang sơn riêng. Nộm là mồi đưa cay. Nguyên dọc con phố ngắn nhất Hà Nội, theo nhà văn Băng Sơn, thông từ đầu Cầu Gỗ chỗ cổng chợ Hàng Bè ra bờ hồ Hoàn Kiếm là giang sơn của nộm. Phấp phới áo lụa, lóng lánh sơn mài nơi cửa hiệu bán cho khách Tây. Nộm vẫn ngự trên hè đường, có biển hiệu cả chữ ta lẫn chữ Tàu đàng hoàng. Muốn hóng chuyện gì cứ ra đấy ngồi ăn hết đĩa nộm là nạp đủ thông tin. Có thêm giọng lè nhè quá chén cũng là sự thường.
Từ mấy chục năm nay, có một ông già đeo kính trắng vẫn đèo theo cả một giang sơn chua cay mặn ngọt đằng sau chiếc xe đạp cà tàng đêm đêm đi khắp 36 phố phường Hà Nội. Ông không cất một tiếng rao. Chỉ có nhịp gõ chiếc kéo cắt thịt bò khô lách cách và mùi tỏi phi thơm lừng như một ám hiệu cho khách quen.
(Theo Sành Điệu)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:31:07 GMT -5
Trà lễ, trà đạo
Hầu như mọi dân tộc, mọi xứ sở trên trái đất đều biết uống trà. Theo ước tính, đây là loại nước uống phổ biến nhất và mỗi ngày thế giới tiêu thụ không dưới một tỷ cốc trà các loại. Song có lẽ nhiều người chưa biết cây trà được phát hiện đầu tiên và tục uống trà của nhân loại bắt nguồn từ Trung Quốc.
Theo cuốn Trà kinh, viết năm 780, uống trà bắt đầu từ thời Thần Nông, truyền sang Chu Công nước Lỗ. Như vậy loài người biết uống trà vào khoảng năm 3.300-3.100 trước Công nguyên. Qua các thời đại Trung Quốc, tục uống trà và tác dụng của cây trà ngày được nâng cao và khai thác triệt để. Cách uống trà cũng theo những con đường buôn bán tơ lụa, đồ gốm và qua sự giao lưu của các thương gia toả ra khắp thế giới.
Thời nhà Đường (618-907) cùng với thi ca và các loại văn hoá khác, văn hoá trà Trung Hoa đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Nghệ thuật thưởng trà được coi là một trong những sinh hoạt "quốc hồn, quốc tuý" của dân tộc. Vào khoảng thế kỷ thứ VIII, một người là Lục Vũ viết cuốn Trà kinh và Lư Đồng soạn ra Trà ca nhằm ca ngợi và hướng dẫn cách dùng trà. Trong đó, những luận bàn phát minh về trà lễ có thể coi là chuẩn mực thưởng trà đầu tiên của loài người.
Tương truyền các loại trà quý hiếm cực kỳ thơm ngon như Trảm mã trà, Bạch mao hầu trà, Trùng điệp trà... mà người thường khó có điều kiện thưởng thức cũng sinh ra từ thời này. Trảm mã trà là loại trà mọc hoang lưu niên trên núi cao Vu Sơn tỉnh Tứ Xuyên. Sơn dân ở đây dùng các con ngựa núi từ nhỏ đã được luyện uống nước trà thành nghiện để thu trà. Buổi sáng các con ngựa còn đói được lùa lên ăn lá trà và uống nước suối ở đỉnh núi. Chiều đã no căng bụng, chúng kéo nhau xuống và bị bắt mổ bụng để moi trà. Rồi trà được đem sấy khô, ủ kín. Bạch mao hầu trà là loại trà ở núi Vũ Di tỉnh Phúc Kiến được hái nhờ những con khỉ trắng do người nuôi dạy. Trùng điệp trà là phân của các con sâu trà ở núi Ly Sơn, tỉnh Thiểm Tây sau khi ăn lá trà thải ra được thu về sao tẩm lại...
Cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với thiền, trà ở Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả hai thứ văn hoá vật chất và tôn giáo này, đem nó hoà quyện với văn hoá bản địa và nâng lên thành triết lý riêng của dân tộc là Trà đạo.
Trà đạo bao gồm những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm linh tôn giáo, khiến cuộc thưởng trà trở thành một cuộc lễ. Bất cứ một thiền thất nào của môn phái Trà đạo đều có những trà thất. Tuy được xây dựng hết sức giản dị, tự nhiên nhưng được coi là nơi thiêng liêng nhất. Đó là những gian nhỏ được ghép bằng tre, gỗ, lợp tranh rất nguyên sơ. Trong nhà bài trí một vài bức thư pháp cổ, hoặc tranh thuỷ mạc. Một bếp đun nước, một lò hương thơm, một lọ hoa cắm chỉ một bông như mọc lên từ kẽ đá. Ngồi trong căn phòng lặng im nghe tiếng nước sôi nhè nhẹ như tiếng gió. Người ta cảm thấy như ngồi giữa một thảo am nơi sơn dã, chỉ có mây trắng và tiếng nhạc thiên nhiên làm bạn, lòng cảm thấy thanh thoát. Con người như vượt lên trên những giới hạn tương đối và một thoáng nhìn vào vĩnh cửu. Ấm trà được sắp lên toả hương thơm thanh cao, tinh khiết. Uống chén thứ nhất thấy lòng tĩnh lặng, tâm không còn dao động, tự soi được vào cõi tâm mình. Nhà thiền gọi đó là trạng thái vấn tuệ. Uống xong chén thứ hai thấy nơi ấn đường ấm nóng, tư duy thiền sắp được khai thông. Uống xong chén thứ ba cả hai trạng thái trên đều biến mất. Thân xác như hoà vào trời đất. Đấy là đạt tới thiền và là Trà đạo.
(Theo Ăn Uống)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:36:20 GMT -5
101 kiểu ăn ớt
Cùng là trái ớt, nhưng mỗi vùng miền lại có cách chế biến, cách ăn khác nhau. Ở vùng này nó chỉ là gia vị, nhưng ở vùng khác lại là món chủ lực "đưa cơm". Nếu ai đã từng đến Lạng Sơn, sẽ không thể "làm ngơ" trước một đặc sản của vùng này, đó là món măng ngâm ớt.
Những lát măng trắng mỡ màng nằm chen lẫn với những quả ớt chỉ thiên nhỏ xíu mà cay xé lưỡi - hai món vốn kị nhau nhưng khi được kết hợp lại với nhau thì tạo nên những hương vị thật đặc biệt. Thêm vài quả móc mật thả lẫn vào lọ măng ớt để tăng thêm độ giòn thơm của măng. Đặc biệt trong những ngày đông tháng giá, bữa cơm, bát phở có thêm vài lát măng ớt, cái lạnh sẽ tự dưng biến mất; trong người dâng lên một cảm giác bừng bừng, phấn chấn thật dễ chịu. Vì vậy không quán ăn nào ở xứ Lạng xinh đẹp này lại có thể thiếu được món măng ớt "độc nhất vô nhị".
Tuy nhiên ở miền Bắc, không phải vùng nào cũng ăn ớt được như ở Lạng Sơn. Thông thường ớt chỉ là thứ gia vị thêm thắt cho bữa ăn, và cũng chỉ người nào ăn được cay mới nồng nhiệt với nó. Nhưng ở miền trung đây lại là món gia giảm quan trọng cho các bữa ăn. Ớt ở đây không thuần tuý chỉ ăn tươi (quả ớt ăn tươi) mà được chế biến rất cầu kỳ, có nơi trở thành một nghệ thuật chế biến... ớt mà không phải ai cũng làm được. Ở Quảng Bình và Quảng Trị, ớt được muối trong các hũ đất nung, sau một thời gian (thường là 2-4 tuần) mới đem ra thưởng thức. Nhà nghèo thì ăn ớt muối với cơm gạo mới, có thể ăn bay 5-7 bát không cần thịt cá. Nhà khá giả thì ăn ớt muối với thịt chân giò luộc, hay các món cao lương mỹ vị khác. Bữa nào không có ớt ăn thì thấy nhạt mồm nhạt miệng, ăn không thấy ngon. Về sau, ớt muối càng ngày càng được khách quốc tế ưa chuộng, và được xuất khẩu từng container sang tận trời Âu.
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:36:38 GMT -5
Vào đến Huế, ớt càng được chế biến công phu, kiểu cách hơn. Nào ớt bột, nào tương ớt, nào ớt xào, ớt chưng, ớt làm nước mầu cho một số món ăn; thức ăn nào ở đây cũng đều bỏ ớt bột. Nhiều du khách đến Huế, mong muốn thưởng thức các món ăn ở đâu nhưng khi ngồi trước các đĩa thức ăn đỏ lừ ớt đành lắc đầu chịu... thua vì cay quá. Người Huế thường ăn ớt xanh: cắt lát thả nổi trên tô nước mắm pha lợt ngọt ngọt, ăn với bánh bèo, bánh lá, bánh nậm, mỏng dé và nhỏ xíu. Đặc biệt có hũ dưa món: củ cải dưa gang, cà rốt xắt nhỏ, ớt trái nhỏ, trong nước mắm nấu có đường.
Vào tới Quảng Nam, ớt lại được ăn một cách nguyên sơ. Ớt trái chín cắn rùm rụp, với nước mắm không pha, mắm nêm không pha. Ta bỏ ớt chín trong thịt, cá kho ăn càng ngon, càng thơm. Nhưng có loại cá không kho với ớt mà lại kho với tiêu: cá ngừ kho với hột tiêu đập giập, nước sền sệt, chan bún ăn thì tuyệt. Có loại mắm cao cấp phải ăn với tiêu mới đúng vị. Khác với tô mì Quảng ngày nay, đã cải biên rất nhiều. Trên mặt tô mì trước đây là một bức tranh siêu hiện đại, mầu sắc rất hòa hợp, nhịp nhàng. Hành xanh nhỏ rí rắc như cỏ non lún phún. Chen vào đó một ít tóp mỡ mầu sữa đục và bánh tráng mè bẻ vụn. Tất cả nằm trên một nền vàng lợt của sợi mì bóng loáng. Một trái ớt chín (ớt sừng trâu) cắm xiên, dáng nghênh ngang như thách thức. Trộn lên lùa một đũa, nghe đủ hương vị thấm thía, cắn một miếng ớt dòn rụm.
Ở Hội An, có dưa món được chế biến rất tỉ mỉ, nghệ thuật. Trông ngon lành, không mặn quá nhưng không ngọt như dưa món Huế. Thành phần thì có thêm tỏi, cà rốt (sau này), ăn hấp dẫn, giòn thơm và hơi the vì có ớt. Món dậy mùi thơm nhờ nước mắm nguyên chất, không pha bột ngọt, đường như ngày nay. Nhất là khi ghé tới đấy, bạn chớ có quên tương ớt (không phải ớt tương) cay, tương béo, bùi được nhốt vào một cái hũ chao hay một hũ bằng nhựa trong. Có người khách nước ngoài mê hương vị tương ớt Hội An, nên trét trên bánh mì, cho đó là loại patê rất ngon, vừa ăn, vừa xuýt xoa, nước mắt ràn rụa. Ở miền Nam, bà con thường ăn ớt hiểm còn xanh, trái rất nhỏ, ngâm trong giấm, có khi thêm tỏi để thêm ngon miệng hoặc khi có món nhậu, hoặc ăn với hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Nam Vang. Cũng như ở các vùng cao, vùng núi non, rừng rậm ngoài sắc, miền trung, một số tỉnh có rừng núi người dân ở những nơi đó ăn ớt từng bụm, nhai rau ráu, coi như là một cách chống lại khí hậu khắc nghiệt, chống lại nước độc.
Gần đây, ở Trảng Bàng (Tây Ninh) nổi lên một hàng ớt, cũng thu hút được khách du lịch. Đến đây không chỉ ăn món bánh tráng phơi sương, còn mua một keo bằng nhựa trong, đựng một thứ ớt bột, ăn vào thấy ngon ác. Mầu ớt bột không đỏ lắm, gồm: muối, ớt khô, bột ngọt, tôm khô nghiền nhỏ trộn lẫn. Cách thức chế biến, và có thêm chất gì không thì chỉ người làm mới biết được. Ớt bán riêng từng bịch 200gr, 500gr... được nhiều người tìm mua.
Muối ớt là một gia vị đặc biệt không thể thiếu trong nhiều món ăn ở một số tỉnh phía nam... Muối phải là muối cục rang lên, rồi giã với ớt. Ớt trắng quyện với mầu đỏ của ớt trông vừa đẹp mắt, vừa muốn ứa nước miếng. Món ớt này ăn với các trái cây có vị chua như: sơ ri, thơm, bưởi chua, mận... thì càng ngây ngất hơn nữa.
Nhìn chung, với các món mặn, muối ớt tăng phần hấp dẫn: thịt rắn xé phay, cà-ri gà vịt, cháo gà, thịt gà xé phay, cá nướng, cá kèo nướng, gà nướng... ngon lạ lùng: Phải nói thêm là các món canh chua phải có muối ớt ăn mới đậm đà, các vị chua cay, mặn, ngọt đều được đi qua đầu lưỡi.
Ớt có rất nhiều loại như ớt hiểm, ớt xiêm, ớt nải chuối (một chùm ớt dính nhau như nải chuối), ớt sừng trâu, ớt giấy, ớt bi (còn gọi là ớt bị, nhỏ như viên bi trẻ em chơi, hôi nỉ, không ai ăn chỉ để trồng kiểng), trái ớt có góc cạnh, không được tròn trịa, ớt Đà Lạt v.v. Nhưng có một giống ớt trái rất tròn, gần bằng trái bồ quân, trông rất đẹp. Trái tròn, không góc cạnh. Cũng mầu xanh, đổi qua vàng, rồi cam đến đỏ ối. Đó là ớt bơ. Đặc biệt khi chín dằm nước mắm có mùi thơm như bơ, gốc ở Sóc Trăng. Giống này đã tuyệt chủng. Với mỗi loại ớt này đều có thể chế biến với nhiều loại món ăn khác nhau, cho những mùi vị đa dạng, khó quên cho các món ăn Việt Nam.
(Theo Văn Nghệ Trẻ )
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:37:45 GMT -5
Ngày Tết, rủ nhau 'ăn đụng' thịt
"Ăn đụng lợn" là tục ngả chung lợn ăn Tết giữa nhiều nhà trong làng, trong xóm ở nhiều vùng quê. Đó là sự gắn bó giữa bà con làng xóm, anh em, họ hàng, cùng chung vui mỗi khi xuân về. Lợn Tết được thả nuôi từ lúc giêng hai. Phải là lợn cỏ.
Thường thì trong bầy chọn một hai con mông nở, chân thon, háu ăn nhất. Lợn được nuôi bằng rau, cám gạo. Lợn nuôi trên mười tháng hoặc hơn năm nhưng chỉ đạt ba bốn mươi cân là vừa. Vậy mới nạc, mới ngon. Nuôi lợn Tết khác với nuôi vỗ béo để cân cho hàng thịt. Vào cỡ khoảng tháng mười, mười một, người ta đã rủ nhau "ăn đụng" thịt.
Sau khi đã đủ người "ăn đụng", người ta thống nhất với nhau ngày mổ lợn. Thường thì giáp Tết, khoảng hai tám, hai chín, hoặc ba mươi. Chủ lợn là người cẩn thận thì chọn cả giờ... hợp. Hôm mổ lợn, những người tham gia "ăn đụng" đến nhà chủ lợn. Người thì chuẩn bị dao thớt, cân; người đun nước sôi; người thì vào chuồng trói lợn, bỏ lên miếng ván khiêng ra thềm giếng chọc tiết. Không khí rộn ràng, nhộn nhịp. Lợn làm xong, phần đầu để riêng cho chủ lợn luộc cúng. Trên chiếc nong phủ lá chuối xanh, các phần thịt, xương được một người khéo tay pha ra thành các phần đều nhau theo số người và tỷ lệ "ăn đụng". Ai nhận phần nấy. Tiền bạc trả cho chủ lợn cũng không phải vội theo kiểu "tiền trao cháo múc" như mua ngoài chợ. Bởi vì những người "ăn đụng" đều là anh em, bà con xóm giềng, có thì trả, chưa có thì cứ để thong thả ra Giêng. Cũng có khi trả bằng tiền, cũng có khi đổi bằng gà, vịt, thóc, gạo tùy thỏa thuận. Cái chính là tình cảm xóm giềng, họ mạc, là sự hỗ trợ nhau cùng vui vẻ đón Tết.
Ngày nay, điều kiện sống khá hơn trước rất nhiều. Chợ búa khắp nơi, họp cả ngày lẫn đêm, hàng hóa thông thương nhiều hơn, phong phú hơn. Song, ngày Tết, người dân thôn quê vẫn thích "ăn đụng". Người thì bảo nó tiện lợi với người nhà quê. Người thì bảo thích cái không khí rộn ràng, vui vẻ, chan hòa với hàng xóm. Thẳm sâu nữa là sự kết gắn, tương hỗ giữa bà con, anh em họ mạc, xóm giềng, cùng chung vui với nhau mỗi khi Tết đến, xuân về. Năm nào cũng vậy, ra Giêng lại chọn trong bầy vài con ưng ý, gần đến Tết lại ngồi chuyện vãn, hỏi thăm nhau, giáp Tết lại rủ nhau cùng ngả lợn, chia phần, tiếng cười nói rộn ràng thôn xóm, tình cảm anh em, bà con xóm giềng như bát nước đầy. Có thể xem việc "ăn đụng" thịt ngày Tết là nét văn hóa đẹp trong đời sống cộng đồng.
(Theo Văn Hoá Nghệ Thuật Ăn Uống)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 12, 2004 13:39:29 GMT -5
Những món khoái khẩu năm 2003
Một sự kiện ẩm thực khá thú vị trong năm là vào độ tháng 9, trên khắp các nẻo đường thành phố xuất hiện hàng loạt xe bán khoai lang nướng. Một khay than hồng, một chiếc vỉ, một chiếc quạt và một thau khoai lang, nhiều người nướng không kịp khoai để bán.
Có người đi tìm người đầu tiên làm dậy lên phong trào và kết luận đó là một người phụ nữ quê Trà Vinh ngồi bán ở ngã tư Tú Xương -Trần Quốc Thảo. Rồi cũng vì cái thói cả thèm, chóng chán, phong trào khoai lang nướng bỗng biến mất.
Trong trào lưu ẩm thực của năm 2003, khoai lang nướng chỉ là một trong những món ăn dân dã được dân Sài Gòn chấp nhận. Nhiều món ăn quê mùa khác đã được nâng cấp, đưa vào những nhà hàng sang trọng. Có thấy người ta chầu chực để ăn buffet gánh ở nhà hàng Bông Sen, ăn món ba miền ở quán Ngon mới thấy được sức hấp dẫn của các món ăn dân dã.
Chè Thái, đang là mốt hiện nay của dân thích ăn chè lề đường. Trên đường Nguyễn Tri Phương, ban đầu chỉ một hai quán, nay đã thành một xóm chuyên bán chè Thái. Rồi bây giờ có thêm mấy quán trên đường Nguyễn Văn Đậu, chưa kể nhiều quán khác rải rác khắp Sài Gòn. Có người gọi đây là thingytail sữa, bởi nhiều người nhớ lại, trước đây một vài năm, cũng trên đường Nguyễn Tri Phương, tại địa chỉ 380 có một quán lấy bảng hiệu thingytail sữa và nguyên vật liệu của loại thingytail này không khác gì chè Thái bây giờ. Thông thường chè ăn bằng tô, chè gồm có sữa, các loại mứt trái cây và trái cây tươi xắt nhỏ.
Nếu như dân khoái ngọt rủ nhau đi ăn chè Thái thì dân nhậu cũng rủ rê nhau ăn thử món thịt chó Hàn Quốc. Ngay trên đường Phạm Văn Hai, vương quốc của cái thú ẩm thực này, cũng đã có hai nhà hàng do người Hàn Quốc làm chủ, chuyên bán các loại thịt chó chế biến theo kiểu Hàn. Thịt chó kiểu này không nhiều món, chỉ có món lẩu và món hấp, nhưng cũng đủ để tạo thành một phong trào. Món lẩu thịt chó theo kiểu Hàn Quốc được người Hàn gọi là lẩu bổ dưỡng - thịt chó nấu chung với củ hành tỏi ớt, mù tạt và các loại rau. Món hấp cũng tương tự như của Việt Nam, nhưng nước chấm gồm mù tạt, dầu mè, mè đen, giấm… Nhiều người ăn thử món lẩu nấu từ thịt chó Hàn Quốc xong phát biểu: rau quá nhiều nên không ngon mấy. Có lẽ, cái mùi mắm tôm, lá mơ, riềng kèm với thịt chó đã không thể tách rời khỏi khẩu vị của người Việt.
Hồi đầu năm người ta đua nhau ăn cá saba, cá trứng Nhật. Thực ra, con cá saba xuất hiện tại Việt Nam cũng đã gần chục năm, nhưng chúng chỉ quanh quẩn tại các nhà hàng khách sạn lớn. Cho đến hồi đầu năm nay, ông chủ ở nhà hàng Hoa Viên trên đường Mạc Đĩnh Chi đưa món này ra tiếp thị cùng với bia Tiệp thì chúng mới lan ra một cách nhanh chóng và phổ biến. Lúc cao trào, giá một con cá saba đã chế biến nặng chừng nửa ký giá hơn 100.000 đồng, cá trứng 12.000 -15.000 đồng/con. Đến nay cá saba, cá trứng đã trở nên quen thuộc với các bà nội trợ, giá cả cũng hạ khá nhiều.
Sự thành công mà không cần tiếp thị của con cá saba khiến cho nhiều người không khỏi ngậm ngùi với thân phận của con cá basa Việt Nam. Xuất khẩu đi năm châu bốn bể nhưng quên đi một thị trường nội địa gần tám chục triệu dân. Cho đến khi chúng bị thị trường nước ngoài làm khó dễ thì những người kinh doanh con cá này mới nghĩ đến chuyện quay trở về thị trường nội địa.
Năm 2003 cũng là năm được ghi nhận như là thời điểm ăn buffet thâm nhập một cách hết sức mạnh vào đời sống ẩm thực của người Việt, đặc biệt là ở TP HCM. Và có lẽ chỉ ở Việt Nam mới hình thành những loại hình buffet riêng theo cách của người Việt như buffet gánh, buffet cơm trưa, buffet chay, buffet khẩn hoang, buffet cuốn, buffet ốc, buffet lẩu, buffet món ăn đường phố…
Và giá một phần ăn của bữa tiệc dạng này đã xuống tới mức bình dân, mặc dù chúng vẫn được tổ chức trong những không gian sang trọng. Như ở khách sạn Quê Hương 1, buffet cơm trưa chỉ 30.000 đồng/người, hay Đồng Khánh với buffet Trung Hoa 35.000 đồng, buffet chay 55.000 đồng; Quê Hương 2 đưa ra buffet sáng dành cho thương nhân 45.000 đồng; tại khách sạn Thiên Hồng, chỉ với 35.000 đồng bạn đã có một phần buffet chay.
(Theo Sài Gòn Tiếp Thị )
|
|