|
Post by Oshin on Oct 13, 2004 10:22:16 GMT -5
Gié bò Tây Sơn
Món ăn lạ miệng này có nguồn gốc ở hai huyện vùng cao An Khê và Vĩnh Thạnh (tỉnh Bình Định), của đồng bào Ba Na. Gié là món ăn bổ mát, rất bình dân và hợp với túi tiền của mọi người. Tuy nhiên, nó có mùi khó ngửi và vị đắng khó ăn.
Gié nấu phần lớn bằng ruột non của bò. Để khử bớt vị đắng và mùi hôi, người nấu dùng nhiều ớt chín và lá giang rừng, cay và chua khiến cho món gié càng lạ miệng và dễ tiêu hóa vào mùa nắng nóng. Đầu tiên, người ta nấu xoong nước cốt gồm huyết, gan, phổi của bò. Xong vớt huyết, phổi, gan ra để dùng riêng, còn nước cốt chủ yếu nấu với ruột non. Ruột non của bò cứ để nguyên, không lộn ruột, chỉ bóp với muối hạt rồi đem rửa sạch bằng nước nóng, sau đó cắt ra thành từng khúc. Gié nấu chín, thêm gia vị như nước mắm ngon, bột ngọt, ớt, lá giang... Nước cốt bấy giờ trở thành nước mầu sẫm đục.
Để cho gié thêm hương vị, người ta còn bỏ thêm một ít rau thơm như mùi tàu, rau răm, rau húng... rồi trộn đều. Mùi thơm của rau bốc lên tận mũi và vị cay nồng của ớt, vị chua chua của lá giang và vị đắng của gié sẽ lôi cuốn thực khách.
Gié ngon là gié vừa ăn, không mặn quá mà cũng không nhạt quá, nước tuy đắng mà không chát, béo nhưng không ngậy đã làm vừa lòng những vị "thượng đế" khó tính nhất. Gié ăn với bánh tráng gạo nướng chín nhâm nhi với ly rượu Bàn Đá.
ST
Cháo hàu Bình Định
Đây là món đặc sản của Bình Định. Mặc dù mỗi người nấu lại có một bí quyết riêng nhưng đặc điểm chung của món cháo hàu là ngọt, bùi, béo khiến ai đã một lần thưởng thức đều không thể nào quên.
Món cháo hàu ở Bình Định lúc nào cũng có, vì con hàu khai thác được quanh năm ở rạng đá cửa sông nước lợ và vùng biển. Cháo chín bưng lên còn nóng hổi, mùi hàu thơm phức. Có nơi dọn cháo từng chén cho mỗi thực khác, nơi khác lại đặt cả tô to giữa bàn, mỗi thực khách tùy sức ăn mà múc vào chén. Món này ăn nóng mới ngon. thịt hàu mềm, bùi thơm, không dai cứng như một số loại hải sản khác. Người ăn múc từng muỗng cho vào miệng, nuốt đến đâu vị ngọt thấm đến đó. Ăn xong mồ hôi toát ra, khỏe người, thêm sảng khoái.
(Theo Văn Hóa Nghệ Thuật Ăn Uống)
Bánh bảy lửa
Đây là một món ăn khá lạ của người dân Bình Định. Việc làm bánh cầu kỳ thể hiện ngay từ cái tên (phải trải qua 7 lần chế biến trên bếp), nhưng bù lại nó rất giòn, thơm.
Cách chế biến bánh "bảy lửa" khá công phu, phải tập trung tâm trí, chứ sao lãng một chút là hư ngay. Trước hết là đãi, vo gạo nếp cho sạch, để ráo và rang. Đây là lần đầu tiên bánh tiếp xúc với lửa. Mè trắng mua về cũng đãi, vo, để ráo, rang. Như vậy là đã tiếp tới lửa thứ hai. Nếp rang rồi được xay, giã thành bột. Thứ bột nếp này vẫn phải rang lại và bánh đã đi qua lửa thứ ba. Rồi bột nếp ấy được trộn với đường đã sên dẻo, để dện (đúc) thành những cái bánh có hình viên trụ, với đường kính khoảng hai phân rưỡi, chiều dài khoảng bảy phân. Sau đó thì xếp bánh lên một cái mâm, đặt lên bếp than vừa lửa và sấy - lửa thứ tư.
Để bánh nguội, hạ nhỏ lửa, rồi sấy tiếp. Bánh tiếp tục "giao lưu" với lửa thứ năm. Đừng nôn nóng làm gì, cứ từ tốn để cho bánh nguội cái đã. Rồi chậm rãi gắp bớt than trong bếp đi và lại sấy. Bánh lại làm bạn với lửa - lửa thứ sáu. Rãi đều mè đã rang lên một cái mâm. Ngay lúc bánh còn nong nóng, lăn từng cái một lên mè và sấy lần sau chót. Như thế là bánh đã đi qua lửa lần cuối cùng - lần thứ bảy.
Do sấy quá kỹ, "bảy lửa" có cứng nhưng được cái rất giòn và giòn rất lâu, nên người già vẫn có thể thưởng thức được loại bánh này. Đó là chưa kể người ta có thể nhâm nhi "bảy lửa" cho tới vài tháng sau mà vẫn thơm, ngon.
ST.
|
|
|
Post by Oshin on Oct 13, 2004 10:36:04 GMT -5
Ớt dầm Câu Nhi
Đây là thứ đặc sản… đắng cay của làng Câu Nhi (huyện Hải Lăng, Quảng Trị). Món ăn thường kèm với ớt dầm là ngọn rau lang. Rau trồng ngoài vườn xanh non hái về luộc rồi trộn với ớt dầm. Cái vị chua chua, cay cay của ớt dầm làm cho người ta ghiền không chịu nổi.
Làm ớt dầm cũng là một nghề lắm công phu, qua nhiều công đoạn. Nếu muốn ăn vội thì hấp ớt, trộn đường, chỉ cần dầm sơ là mang ra ăn ngay. Khoái khẩu nhất là món ớt trái dầm muối.
Bà Phạm Thị Đớt, năm nay ngoài 70 tuổi, chuyên làm nghề dầm ớt, cho biết: Vào tháng hai, tháng ba ớt chín đỏ đồng. Sau khi hái quả, đem cắt cuống, rửa sạch, để khô rồi trộn muối vào ớt với tỷ lệ bảy ớt một muối. Nhẹ tay, bỏ ít muối, ớt sẽ mau chua, chất lượng kém. Gia muối đúng tỷ lệ, quả ớt dầm lâu ngày vẫn cứng, ngon. Trộn đều ớt xong đem bỏ vào chum sành, phía trên miệng chum được cài kỹ bằng nhiều lớp mo nang tre, nếu là nang của măng cày thì tốt hơn. Ớt dầm để được cả năm, càng lâu càng thơm.
(Theo Sài Gòn Giải Phóng)
Mít non trộn tép
Những sản vật của vùng quê nghèo miền trung đôi khi lại hợp thành món ăn hấp dẫn và khó quên. Món mít non trộn tép vừa thay cơm, vừa làm thức ăn những khi mùa mưa chưa tới, mà cũng rất dễ thực hiện.
Chỉ vài miếng mít gọt vỏ, bỏ cùi, luộc với chút muối ăn cho chín tới, để nguội, cắt thành sợi nhỏ theo thớ mít; tôm rửa sạch bóc vỏ, thịt ba chỉ cắt sợi nhỏ. Ướp tôm thịt với nước mắm, hành tím, tiêu, chút đường. Xào nhanh tay cho tôm thịt chín. Đậu phộng rang vàng, giã dập, rau răm cắt mịn. Pha nước mắm đường tỏi ớt. Cho mít non, tôm, thịt, rau răm vào thố rồi rưới nước mắm lên, trộn đều. Ăn với bánh tráng nướng bẻ miếng…
(Theo Sài Gòn Tiếp Thị )
|
|
|
Post by Oshin on Oct 13, 2004 10:37:16 GMT -5
Cốm hộc Phan ThiếtĐây là thứ quà vừa ngon vừa rẻ không chỉ nổi tiếng ở Phan Thiết mà hiện nay nhiều người cũng biết đến đặc sản này. Cốm hộc được làm từ gạo nếp ngon rang nở bung (còn gọi là nổ ) và đường sên dứa, gừng. Cốm hộc làm với đường cát. Có nhà thích chế biến với đường tán hơn. Phụ liệu thêm phần hấp dẫn nữa là gừng và thơm (dứa). Gừng lột vỏ, rửa sạch để ráo nước rồi mang đi giã vừa nát. Trái thơm gọt vỏ, bỏ mắt, xắt từng miếng nhỏ, mỏng. Cho đường lên bếp lửa để thắng với tỷ lệ: 10 kg đường bằng 2 chén nước trộn với 8 kg nổ. Lúc thắng đường, vắt một trái chanh cho vào để khỏi lại đường. Đường sôi khoảng 2 phút, dùng chiếc đũa thử thấy đường kéo lên thành dây là được. Trước khi nhắc đường xuống, cho gừng và dứa vào, đợi nguội hẳn rồi đổ vào thau nổ, trộn đều khoảng 20-30 phút rồi bắt đầu công đoạn đóng cốm. Khuôn cốm là những hộc gỗ vuông, hai bề mặt rỗng, có thêm một miếng gỗ rời để khi đóng cốm họ dùng miếng gỗ này ép nổ xuống cho cốm chặt và bằng phẳng. Cẩn thận hơn, trước lúc đóng cốm, một người xúc nổ vào chiếc cân, cân đúng trọng lượng rồi cho vào từng cái rổ nhỏ còn người đóng cốm cứ lấy từng rổ nổ đó mà cho vào hộc đóng. Thường thì thanh niên lo việc đóng cốm, họ dùng sức đẩy cây đòn tay dài, ấn mạnh xuống hộc cốm. Miếng cốm vuông vức một khối thành hình, được nhấn xuống, đưa ra khỏi hộc, tiếp tục đóng các hộp khác. Hộc cốm được chuyền đến tay một người khác cạnh đó. Công việc của người này khá đơn giản, chỉ với một tấm thớt và một con dao. Với động tác nhanh, gọn, họ đặt miếng cốm lên tấm thớt nhỏ, dùng con dao bén gọt bỏ những cốm không đều ở bốn cạnh, để hộc cốm được vuông vức. Tiếp đến là phần phơi cốm. Từng hộc để đều trong một cái nia tre lớn, đem phơi 1-2 lần nắng cho cốm thật khô. Lúc phơi, họ chuẩn bị những tấm vải mùng để phủ lên các nia, tránh bụi bặm, ruồi nhặng. Cốm đã khô, đưa qua công đoạn sau cùng: bao gói. Những tờ giấy màu, giấy bóng kính, giấy hoa văn đủ mầu sắc được sử dụng bao hộc cốm. Bằng động tác nhanh nhẹn, đôi tay khéo léo, họ cắt giấy vừa vặn với hộc cốm để gói thật thẳng nếp. Ở hai đầu hộc, trang trí hai hoa giấy (loại hoa dán hộp quà) để trưng bày lên bàn thờ ông bà hay trưng bán tại các sạp cho đẹp mắt. Cốm hộc để được khá lâu, 1-3 tháng, khi dùng, lấy dao cắt thành 4 hay 6 miếng, ăn vào mùi vị vẫn thơm ngon như khi mới làm. Một hộc cốm khá rẻ, chỉ có 4.000 đồng hộc lớn và 3.000 đồng hộc nhỏ. Chợ Phan Thiết có bán hạt nổ làm cốm. Họ rang sẵn lúa nếp thành những hạt nổ, cho vào từng bao lớn, mỗi bao khoảng 10-15 kg nổ rồi chở ra chợ bán với giá 7.000-10.000 đồng/kg tùy nếp thường hay nếp ngon. Người mua chỉ việc sên đường, đóng và gói cốm rất tiện lợi. (Theo Văn Hóa Nghệ Thuật Ăn Uống)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 13, 2004 10:52:50 GMT -5
Đặc sản biển Quy Nhơn
Ở Quy Nhơn nói đến đặc sản biển, trước hết phải nói đến món đỉa biển, còn gọi là đồn đột hay hoa mỹ hơn là hải sâm. Đỉa biển làm sạch nhớt, lộn trong ra ngoài, bỏ ruột, luộc chín, xắt mỏng trộn rau thơm, đậu phộng sẽ trở thành món "đưa cay"... tuyệt vời.
Tiếp đó là món ốc biển. Ốc biển có nhiều loại có con lớn lên tới cả kg thịt. Ốc làm sạch, luộc chấm muối tiêu, vắt chanh hoặc nước mắm gừng. Cầu kỳ hơn, xắt ốc thành lát mỏng, thái chỉ, phơi khô, cho tí dầu, khử hành cho thơm, chiên giòn thì còn tuyệt hơn cả bánh phồng tôm.
Món cầu gai hay còn gọi là con nhum, nhỏ hơn nắm tay, gai tua tủa. Nó được làm sạch, lộn từ trong ra, sẽ cho một món giống như lòng đỏ trứng gà; đặt lên bếp, thêm tí muối tiêu, phết lên bánh mì. Đến Quy Nhơn, du khách cũng đừng bỏ qua món hàu. Hàu được tách vỏ, đặt lên lò than, cho vào muỗng cà phê mỡ và gia vị, ăn nóng thật hết chê.
S.T
Nhum - quà tặng từ những rặng đá ngầm
Nhum còn gọi là cầu gai, sống ở vùng biển cạn Quảng Ngãi, Bình Định, nước trong, có nhiều rong rêu hoặc san hô hay đá ngầm. Vào tháng 6-7 âm lịch, nhum rất chắc thịt, nhìn chúng dễ sợ nhưng ăn béo ngọt mà không tanh.
Để bắt nhum, người ta lặn theo các gành đá, dùng móc sắt giật khẽ, rồi nhặt bỏ vào bao. Nhum bắt về, rửa sạch, dùng dao chặt đôi, cắt bỏ túi dạ dày, lấy thanh tre mỏng nạo thịt ra khỏi vỏ. Thịt nhum kết thành năm hoặc tám múi như múi cam, mầu trắng hồng, có thể kho để ăn cơm hoặc trộn vào trứng chưng cách thủy, tráng chả, nhưng thú nhất là ăn sống - thịt nhum tươi chấm với muối tiêu và chanh, kèm theo mấy cọng rau thơm, thêm vài hớp rượu đế là hết ý.
Chỉ cần tách đôi "quả chôm chôm đen đen" ấy bằng lưỡi dao mỏng. Trước mắt sẽ là một thứ như gạch ghẹ, lầy nhầy mầu vàng, vắt múi chanh, thêm chút muối tiêu và vọc chiếc muỗng nhỏ múc ra và húp. Một vị béo, chua mặn ngon tan thật nhanh trên lưỡi, người ăn vừa chỉ kịp cảm nhận vị béo, ngọt (mà không tanh chút nào), cái vị ấy đã biến mất. Chỉ còn cách cầm vội lấy một con khác. Có người bảo ăn nhum kiểu ấy như dân ghiền ăn măng cụt, không thể một trái mà thôi được...
Nếu không thích ăn sống như thế thì cháo nhum cũng lại là một món tuyệt hảo. Nồi cháo ngọt một vị khó tả, không giống thịt gà, càng không phải thịt bò cứ sì soạt húp cháo nóng sau những giờ vẫy vùng với sóng nước, ăn dã chiến ngay trên bãi cát làng chài. Cháo nhum là một sản vật dâng tặng con người từ biển.
(Theo Sài Gòn Tiếp Thị )
|
|
|
Post by Oshin on Oct 13, 2004 10:54:54 GMT -5
Cao lầu Faifo
Đây là món ăn gắn liền với phố cổ Hội An (Faifo là tên người Pháp đặt cho vùng thương cảng xưa), được biết đến qua nhiều lời kể. Không nhiều người được thưởng thức vì món ngon này vốn khiêm nhường như phố cổ, thầm lặng vang danh mà ít phổ biến.
Sợi cao lầu được chế biến công phu. Dùng gạo tại địa phương, chọn gạo không cũ, không mới (tránh quá khô hoặc quá dẻo). Đem ngâm với nước tro lấy từ củi tràm ở Cù Lao Chàm. Dùng nước giếng ở khu Bá Lễ để làm bột thì mới được sợi cao lầu dai và chắc. Sau đó gạo được xay, bồng, rã nước, nhồi bột, hấp sơ qua rồi xắt sợi và hấp chín. Sợi cao lầu chỉ giữ được trong ngày, khi ăn trụng với nước sôi, để ráo. Trong các công đoạn làm sợi, cách nhồi để có bột dẻo và khô quyết định chất lượng sợi. Sợi có màu gạo lứt hoặc nhuộm vàng.
Để làm nhân, chọn thịt đùi lợn nạc, ướp gia vị và ngũ vị hương để làm xá xíu. Dùng sợi cao lầu xắt từng đoạn dài cỡ ngón tay, phơi khô rồi chiên giòn. Lạc rang giã nhỏ phi với tỏi. Các thứ này đặt trên sợi cao lầu. Nước sốt khi làm xá xíu rưới lên, ai cần đậm đà thì thêm nước mắm thấm.
Cao lầu "kết bạn" cùng rau húng lủi. Kèm theo có bánh đa nướng, loại bánh miền Trung tráng dày với nhiều mè trắng và một ít nước cốt dừa. Cũng không thể thiếu rau đắng hoặc cải con (loại cải ngắn cỡ gang tay, cọng nhỏ, ăn giòn ngọt) đi theo cho đủ bộ. Ngày nay cao lầu được cải tiến thêm chén nước súp nấu từ xương gà, phần nhân thêm thịt gà nạc xắt vuông xào cho thấm và tép bạc luộc lột vỏ đặt lên.
Món ăn cao lầu tuy không phổ biến khắp mọi miền đất nước, nhưng ở Sài Gòn hương vị cổ vẫn còn giữ được thuần chất tại quán Phố Xưa, 156/19 Đặng Văn Ngữ - Phú Nhuận.
(Theo Du Lịch)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 13, 2004 10:55:28 GMT -5
Trà cam khổ
Ở vùng Vạn Hội, núi Chúa thuộc huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, có hai thứ trà mọc hoang dã trên đồi gò hoặc ven chân núi, không ai trồng cả nhưng lại rất quý. Một loại gọi là trà cam, còn loại kia là trà khổ.
Trà cam lá nhỏ, có vị ngọt như đường, nên mới gọi là cam (ngọt). Trà khổ lá to, xanh, dày và cứng, ngắt đọt non nhai thấy đắng nhân nhẩn, nấu nước uống thì rất đắng. Bởi thế mới có tên khổ (đắng), như khổ qua (mướp đắng), khổ cự (rau diếp), khổ thái (rau đắng) v.v…
Rễ trà cam có tác dụng hồi sức cho phụ nữ sau khi sinh nở. Còn nước trà khổ làm cho người say tỉnh rượu. Uống thường xuyên trà khổ, gan hoạt động tốt và có khả năng phòng ngừa bệnh sốt rét.
Ngày xưa, người ta dùng cả hai loại trà cam và khổ để tiến vua. Trộn 2 ngọt 1 đắng thành trà cam khổ. Cam khổ còn có nghĩa là phải rất vất vả gian khổ, "nếm mật nằm gai" mới kiến được thứ trà này.
Trà cam khổ bây giờ rất hiếm. Người ta đã trồng thử trong vườn nhà nhưng cây rất khó sống. Có lẽ nó ưa chen chúc nơi hoang dã. Đây là một thứ trà quí nhưng chưa mấy người biết, chưa ai quan tâm trừ người dân địa phương. Người dân mong mỏi được các nhà khoa học nghiên cứu, di thực, thuần hóa được thứ trà này để nhân giống trồng đại trà, mở ra hướng sản xuất kinh doanh để trà cam khổ trở thành hàng hóa, thành một thứ "đặc sản" kinh tế giá trị của địa phương.
Cá kho, chả cá Bình Định
Tết đến, người dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định thường chuẩn bị một nồi cá ngừ kho - món "đặc sản" vùng biển miền trung - và dăm ba giề chả cá hấp tròn tròn với đường kính khoảng hơn một gang tay.
Để làm món cá kho phải chọn cá tươi, làm sạch và xắt thành từng khúc. Giã hành với muối hột, tiêu... ướp cá, để chừng một giờ đồng hồ cho ngấm, đun một nồi nước sôi, thả cá vào cùng mấy trái ớt chín đỏ, khi ăn thì dầm nhuyễn ớt. Bát cơm gạo trắng thơm lừng mùi lúa mới ăn cùng miếng cá ngừ kho đậm đà, vị bùi béo của cá, vị cay của tiêu, ớt, thoang thoảng hương thơm của hành...
Ngoài nồi cá ngừ kho ngọt, dù bận rộn đến đâu cũng người dân ở đây làm dăm ba giề chả cá để hấp. Chả cá có thể làm bằng cá thu, cá mối, cá chuồn, cá nhồng, làm sạch, nạo thịt cá, đem băm nhuyễn, nêm chút gia vị, rồi bỏ vào cối quết mạnh, chắc và đều tay. Thoa dầu lên đĩa làm khuôn để cho khỏi dính và bỏ vào nồi hấp. Cá vừa chín tới hương thơm tỏa ra thơm lựng khắp gian nhà. Ba bữa Tết người dân vùng biển có món chả cá, mời bạn bè thân thiết đến lai rai hay để làm món ăn dự phòng. Làm mồi uống rượu thì xắt hình con thoi, hình chữ nhật chiên giòn hoặc để nguyên khi vừa hấp...
ST
|
|
|
Post by Oshin on Oct 13, 2004 10:57:16 GMT -5
Bánh cặp
Hai chiếc bánh mướt trắng được đặt nõn lên tấm bì cói, tiếp đó là một chiếc bánh tráng nhỏ và cuối cùng là một lớp bánh mướt nữa. Gập đôi lại rồi vỗ ba cái. Các lớp bánh dính chặt vào nhau, chính vậy mà nó có tên là bánh cặp (hay bánh đập bẹp).
Đây là món ăn có tiếng ở thị xã Hà Tĩnh. Làm bánh cặp phải chọn gạo ngon nhất, đó là thứ gạo quê mới gặt còn thơm mùi lúa. Bánh tráng dày, ủ nóng, giòn tan và bùi ngậy. Bánh mướt phải tráng mỏng, ngọt đậm và dậy mùi thơm. Hai thứ này khi đập kết dính vào nhau, giòn mà không bị khô, đậm đà mà không ngán.
Đặc biệt, bánh cặp ngon chính là nhờ ở bát nước chấm. Nước mắm để pha phải là loại nước mắm chắt, vàng óng và thơm lừng, khi nếm còn có vị ngọt đậm ở đầu lưỡi. Nước mắm ngon đã đành, nhưng phải pha không nhạt, không mặn vừa đủ vị ngọt thơm, lại có vị cay nồng của ớt, của tỏi, chấm bánh mới mê.
ST
Bánh rế
Bánh có có mầu nâu đỏ, hơi giống mầu cánh gián, hình dáng giống thứ đồ mà người ta dùng để đặt xoong, nồi nhưng nhỏ nhắn hơn rất nhiều, với vô số những sợi rất mảnh xoắn xuýt, đan bện vào nhau. Bánh rế xuất xứ từ vùng Phan Thiết, Phan Rang.
Để làm bánh rế việc đầu tiên là lột củ mì (sắn), gọt vỏ củ khoai lang. Rồi sò (bào) thành sợi. Do quá mỏng và dài nên những sợi củ ấy quấn lấy nhau. Cái độc đáo của bánh nằm ở chỗ đó.
Khuôn để đổ bánh tựa như là cái vá (môi) múc canh. Dầu phải đổ cả chảo cho ngập bánh và phải để cho sôi mới bỏ sợi củ lang, củ mì vào khuôn. Bỏ thật nhanh tay và cũng phải rất nhanh tay để ép từng búi sợi xuống khuôn và dàn cho thật mỏng. Rưới đường đã sên sẵn, ngay khi vừa vớt ra.
Những chiếc bánh được xếp chồng lên nhau, khi đã nguội, y hệt như đồ chơi con nít. Nhìn, rất thích mà ăn lại càng thích hơn. Bánh cho ta một hương vị rất là đặc biệt. Đó là sự hòa lẫn, quyện chặt của một hỗn hợp những hương vị: cái bùi bùi của tinh bột, cái beo béo của dầu, cái ngon ngọt của đường mật và không thể thiếu độ giòn tan.
ST
|
|
|
Post by Oshin on Oct 13, 2004 11:02:07 GMT -5
Gỏi cá mai Ninh Thuận Theo nhiều người sành ẩm thực thì nói đặc sản biển Ninh Thuận phải nhắc tới gỏi cá mai, một loại cá nhỏ trông hơi giống cá cơm, thịt trong veo và không có máu nên không tanh. Có hai loại gỏi cá mai: gỏi khô và gỏi ướt. Gỏi khô thì người ta vắt chanh lên để làm cá chín, trộn với rau thơm xắt nhỏ, đậu phụng rang và xúc bánh tráng nướng. Gỏi ướt thì dầm cá trong một loại nước chấm đặc biệt làm bằng đậu phụng và mè xay, xong cuốn bánh tráng cùng với các loại rau thơm. Thịt cá mai ngọt, dai và dòn chứ không bở hoặc mềm như những loại cá thông thường khác, đã làm nên hương vị của món hải sản này. Ngoài ra, Ninh Thuận có đủ chủng loại hải sản như cá, mực, cua, ghe, nghêu, sò, ốc, rất ngon vì rất tươi. Lẩu cá mú là một món được thực khách ưa thích. Mực một nắng rất ngọt và thơm, khô hơn nên dai hơn mực một nắng của Phan Thiết. (Theo Du lịch) Rau muống xào tỏi Món ăn được xếp vào hàng đặc sản Ninh Thuận bởi thực tế trên bàn ăn, đĩa rau to tướng bao giờ cũng hết trước những món khác. Thực khách luôn cảm thấy hấp dẫn với vị đậm đà, giòn mà không dai, không nát của cọng rau, thơm của tỏi phi. Cọng rau muống ở đây to đặc biệt, đường kính gần 1 cm rất mềm và rất dòn. Đó là rau muống trồng ở nơi nước chảy, đảm bảo không hề có chút thuốc trừ sâu. Đĩa rau xanh mượt điểm những tép tỏi trắng như những cánh hoa. Góp thêm phần đem đến hương vị đặc biệt cho rau muống xào ở đây chính là nhờ tỏi thơm của Ninh Thuận. Tuy chỉ là món ăn dân dã nhưng đã đem đến hương vị thật khó quên cho mỗi thực khách. (Theo Du Lịch) Thịt dông 7 mónĐây là đặc sản của vùng đồi cát, thịt dông trắng như thịt gà, mà lại ngọt, bùi và mềm hơn. Xương rất mềm, gần như là sụn. Còn da thì dòn sừn sựt. Từ con vật này, người Ninh Thuận chế biến thành 7 món: nướng, rô ti, hấp, chả, gỏi, cháo và nấu dưa hồng. Món nào cũng ngon. Món gỏi dông để nguyên xương được bằm nhỏ, xào chín và trộn với cóc hoặc xoài xắt chỉ, rau thơm, đậu phụng rang dòn, nước mắm pha và đặc biệt phải có lá xào dông, một thứ lá trông giống lá chùm ruột non, sống trên vách đá vùng khô hạn, mùi thơm thoảng vị chát. Gỏi dông ăn với bánh tráng nướng, thứ bánh tráng dày, nhiều mè, nướng vàng rụm, xúc mãi không chán. Theo dân sành điệu thì thức ngon nhất trong con dông là mật và trứng. Mật có vị béo nhân nhẫn và để lại cái hậu thật ngọt. Trứng dông rất béo, rất bùi mà không ngậy, được xem là một loại sơn hào hải vị. Chẳng thế mà chuyện ngày xưa kể rằng ở làng Mỹ Tường, trong lễ vật thách cưới phải có một thúng trứng dông, những cái trứng chỉ to bằng đầu ngón tay út. Hầu hết các nhà hàng, quán đặc sản ở Phan Rang đều có món dông, giá bình dân thì 15.000 đồng, giá cao cấp 30.000 đồng một đĩa. Một số quán nhậu ở Sài Gòn cũng có những món này, nhưng khi mang về đây dông ốm đi, không thể sánh với dông tại chỗ. ST
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 7:15:03 GMT -5
Yến sào
Ở Việt nam, Khánh Hoà là tỉnh có nhiều yến nhất, chiếm tới 70% sản lượng cả nước. Yến sào là thứ đặc sản hiếm hoi quý giá. Chế biến yến có nhiều cách nhưng tựu trung chỉ có 3-4 cung cách ăn yến mà thôi.
Cách thứ nhất gọi là "yến thả". Đây là cách "ăn mặn", dùng như món khai vị trước bữa tiệc. Để ăn, trước bữa tiệc vài giờ người ta cho tổ yến vào ngâm nước lã (muốn nhanh thì ngâm nước sôi). Ngâm trong vòng 1 giờ hoặc hơn một chút. Khi thấy tổ yến bắt đầu tơi thì vớt ra, nhặt sạch rong rêu hoặc lông chim dính vào. Sau đó rẽ ra từng sợi nhỏ. Các sợi này trắng xanh như sợi miến. Gà chín tới đem xé thành từng miếng nhỏ. Tiếp đó đặt sợi yến vào bát con cho vào nồi hấp cách thủy cho chín rồi rắc thịt gà xé lên. Khi ăn, múc nước dùng thật trong, nóng chan vào.
Cách thứ hai gọi là "yến tần". Món này công đoạn 1 giống như yến thả, nhưng không dùng gà mà dùng chim câu. Chim mổ moi rồi cho sợi yến cùng với đậu xanh đãi vỏ, một nhúm nếp hoa vàng và một ít mộc nhĩ. Sau khi nhồi khâu lại đặt vào bát to rồi hầm cách thuỷ thật nhừ rồi mới ăn.
Cách thứ 3 là "chè yến". Cũng ngâm tơi nhặt sạch, hấp chín (hấp ngoài cách thuỷ để không bị tiết chất bổ ra ngoài). Lấy đường trắng hoà với nước đem đun, lọc sạch. Thứ nước đường sau khi lọc trong vắt như pha lê. Lúc này lại đem đun sôi rồi múc vào từng bát đã có sợi yến ở trong.
Cách thứ 4 là "yến hấp đường phèn". Ngâm và tước sợi yến như trên. Chọn mua đường trắng muốt thì tốt. Lấy bát sạch cho 1 cục đường phèn ở dưới rồi rắc sợi lên trên. Đôi khi lấy 1 lát nhân sâm đặt vào rồi đem hấp chừng nửa giờ thì được.
Người ta bảo yến là một món ăn rất bổ thần kinh và lại mạnh cả gân cốt. Trước đây chỉ dành cho những gia đình quý phái giàu có, còn ngày nay thì cũng không quá khó khăn để có thể thưởng thức món ăn sang trọng này.
ST
Mắm cá cơm, thơm chợ Đồn
Phú Yên nổi tiếng bởi hai đặc sản mắm cá cơm và dứa (còn gọi là quả thơm) chợ Đồn. Điều đặc biệt là có thể kết hợp hai hương vị này với nhau và ăn với cơm thì thật tuyệt. Có người ăn mãi không biết chán.
Cứ khoảng tháng chạp, tháng giêng âm lịch, biển Phú Yên rộ mùa đánh bắt cá cơm. Người ta cứ mua cả thúng về làm mắm, chứ không mua theo kiểu cân lạng. Cá để cá hơi ươn, cho vào thùng gỗ cao đến ngập đầu, đựng được 300-400 kg. 6-7 tháng sau, mắm ra nước. Người làm mắm bắt đầu lấy nước nhất, nhì, pha nước màu để lấy nước ba, bốn. Nấu xác mắm còn lại để lấy nước năm. Con mắm sau khi lấy nước nhì, thịt đỏ au, dùng để ăn hoặc bán rất thơm và ngọt thịt.
Chợ Đồn còn nổi tiếng bởi đặc sản dứa. Thứ quả này mọc ở đất Sơn Hoà, Phú Yên mắt rất thưa, nhiều nước, ngọt, xắt ra tứa mật. Ăn sống vừa mát vừa chua. Nếu không thích ăn kiểu đó, bạn có thể xắt nhỏ trộn với mắm cái cá cơm, ăn có mùi vị đậm đà, kích thích tiêu hoá. Những ngày mưa, chỉ cần bát mắm cá cơm trộn với dứa chợ Đồn ăn cùng cơm rất ngon miệng.
Dứa ngon là vậy, nhưng lại chỉ có mùa. Để lưu giữ loại quả này, bạn hãy gọt vỏ, cắt khoanh tròn, dày độ 1-1,5 cm, đem muối vào ang mắm cá cơm. Nước dứa hoà với cá sẽ giảm độ chua. Ngược lại cá được ngấm nước dứa sẽ thơm ngon, hai mùi vị bổ sung cho nhau. Dùng dứa muối kiểu này nấu canh chua, kho cá càng đậm đà thi vị như kiểu uống nước đường chanh muối.
ST.
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 7:22:58 GMT -5
"Xí mà" Hội An
Đó là món chè bột mịn màu đen nhánh được đựng trong mỗi bao nilon còn nóng hôi hổi. Chỉ cần cắn một góc nhỏ bao nilông để đưa vào miệng một thứ bột sền sệt vừa ngọt vừa có mùi dịu cay của các loại lá cây dược liệu.
Các loại thực phẩm để nấu nồi "xí mà" rất đơn giản: gồm lá mơ, lá rau má đem nấu thành nước rồi trộn với thục địa, đường và mè đen (đã được giã nát). Tất cả được nấu cho quánh lại, đến mức sền sệt thì đạt yêu cầu, vì nếu để lỏng quá thì không ngon mà đặc quá thì có mùi cháy. "Xí mà" không những ăn ngon miệng mà còn là liều thuốc quý thích hợp với bốn mùa trong năm vì nó giúp nhuận trường, kiện tỳ, và điều trị bệnh kiết lỵ.
"Xí mà" ở Hội An được bày bán nhiều trên phố hay các cửa hàng. Những người dân lâu đời ở phố cổ khó có thể quên được món ăn độc đáo này. Ngồi bên lề chùa Cầu hay dưới bóng mát một góc phố cổ nào đó, bưng trên tay chén "xí mà" đen nhánh với cái thìa nhỏ xíu, múc từng thìa nhỏ đưa vào miệng nghe vị ngọt ngào tan biến ở đầu lưỡi bạn sẽ quên đi mọi nỗi nhọc nhằn của đời thường giữa những ngày hè nóng bức hay mùa đông lạnh giá.
ST
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 7:23:40 GMT -5
Canh rau ranh ốc đá
Đây là một món ăn "độc nhất vô nhị" của đồng bào các dân tộc thiểu số: Hrê, Ca Dong, Co... ở vùng núi phía tây Quảng Ngãi. Vị mát, ngọt, béo của nồi canh rau ranh, ốc đá ngan ngát hương vị núi rừng.
Cây rau ranh mọc nhiều ở những thung lũng, bìa rừng, nơi gần nước. Thân và lá rau tựa như cây chè, nhưng lá non trên đọt có mầu tím. Còn loài ốc đá sinh sống, đu bám nơi có đá, dưới những con sông, con suối ở thượng nguồn.
Để có một nồi canh ngon như ý, người làm phải chọn những lá rau ranh non tơ ở gần đầu đọt và tìm loại ốc đá từ những con sông, con suối có nguồn nước thật trong. Một đòi hỏi cần thiết nữa: rau ranh ốc đá phải tươi, không bị héo, bị ươn. Rau ranh rửa sạch, xắt nhỏ, ốc đá ngâm nước, cho nhả hết chất nhờn, bùn đất. Muốn cho tiện ăn, ốc đá có thể chặt đầu cuối. Dân nơi đây có thói quen, hễ nấu canh gì cũng bỏ chút tấm gạo, nồi canh rau ranh ốc đá thêm nhuyễn, nhừ và ngọt hơn. Nấu chín cho gia vị tiêu, ớt, hành ngò vào, không cần cho bột ngọt vì món này đã quá ngọt rồi.
Canh rau ranh ốc đá không chỉ dùng cho bữa ăn thuần túy mà còn dùng cho cả những bữa ăn của bạn bè, anh em lâu ngày mới gặp. Nó đơn giản, mộc mạc như khí chất người dân tộc vùng cao mà lại thân thương, cuốn hút.
ST.
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 7:33:58 GMT -5
Bánh hỏi
Bánh hỏi bày bán ở khắp chợ quê ở Bình Định, giá chỉ 4.000-5.000 đồng một ký. Mỗi bữa ăn sáng cả nhà chỉ cần một ký bánh với vài cái bánh tráng nướng cũng đủ no bụng. Nếu tiếp đãi bạn bè, bà con thân thuộc thêm vài đĩa thịt heo luộc nữa thì tuyệt.
Ăn món bánh này chẳng cần có rau thơm mà chỉ cần nước chấm với mắm cái hay nước mắm nhĩ thơm ngon, trong khi người miệt đồng thì dùng nước chấm bằng mắm cua đồng hay nước mắm chấm lạc. Nhiều gia đình còn dùng bánh thay các bữa cơm, no bụng lại rẻ tiền.
Bánh hỏi làm bằng bột gạo, phải chọn gạo lúa cũ đem xay lấy bột rồi "sú" để qua đêm cho bột nở đều. Sau đó đem nhồi thành từng khối lớn hình bầu dục, gọi là "vặn", nặng chừng một ký.
Khuôn bánh làm bằng thiếc hay bằng đồng hình khối lăng trụ cao từ hai đến ba gang tay, đường kính chừng một gang tay. Khuôn bánh được gắn vào khung gỗ vững chắc có bề cao vừa tầm thắt lưng. Trên khung còn gắn thêm đòn nén bằng gỗ. Phía đáy khuôn được đục thành nhiều lỗ nhỏ li ti đều đặn để bột bánh khi bị nén sẽ thoát ra ngoài. Khi làm bánh người thợ bỏ một "vặn" bột vào khuôn rồi dùng đòn nén nén thật chặt. Bột bánh thoát ra khỏi khuôn thành từng sợi dài. Người bắt bột chỉ ngồi chờ sẵn, nhẹ nhàng đưa tay bắt lấy từng đoạn xếp lên chiếc vỉ nan tre. Khi nào sắp đủ một vỉ thì đưa đi hấp cách thuỷ.
Bánh chín đưa ra để nguội dùng dầu lạc đã khử sẵn thoa lên mặt bánh để khỏi bị khô và dính chùm lẫn nhau. Sau đó, xếp bánh ngay ngắn thành nhiều lớp trong chiếc thúng tre đã lát sẵn lá chuối rồi đậy kín. Khi nào có ai mua, người bán mới bắt bánh sắp lên đĩa, rồi thoa lên mặt một lớp lá hành hay lá hẹ thái nhỏ đã xào dầu bay mùi thơm phức.
Bánh ngon là khô ráo, sợi nhỏ, vừa dai và dẻo, không bị nhão hoặc bị chua. Nghề làm bánh đòi hỏi nhiều công sức và kinh nghiệm trong nghề, quan trọng nhất là khâu chọn gạo và sú bột.
Bánh hỏi rất được người Bình Định ưa thích. Trong các bữa tiệc ở nông thôn thường có món bánh hỏi thịt heo luộc, nếu sang hơn thì có món thịt heo quay vừa bình dân nhưng cũng vừa trang trọng. Thực khách vừa ăn vừa thăm hỏi lẫn nhau, rôm rả, thắm đượm tình bà con làng xóm.
ST
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 7:50:05 GMT -5
Lang thang cùng những món ăn đêm ở Huế Đã từ lâu, khi nhắc tới cố đô, ngoài những di sản văn hóa, kiến trúc của một thời vàng son đã làm nên một di sản thế giới của Việt Nam, người ta không thể không nói tới những món ăn Huế. Sau khi đi nghe ca Huế trên sông Hương, khá đông du khách có nhu cầu ăn uống và đó là lý do cho sự sôi động của những quán ăn đêm ra đời ngày một nhiều...
Ở khu vực cổng chợ Đông Ba hay gần Nhà Văn hóa Trung tâm thành phố, khách đến ăn rất đông, hơn bất cứ nơi đâu, bởi lẽ nơi này hội tụ đủ người vãng lai từ mọi nơi về buôn bán vặt, lao động kiếm sống.
Nếu đã từng đến Huế, du khách chắc đã có lần thưởng thức món nem lụi. Món này chỉ là thịt nạc lợn băm nhuyễn trộn với gia vị, nước mắm, hành, tiêu... rồi bao viên xiên vào từng que và khi có khách ăn người ta mới nướng cho nóng. Món này có thể ăn ngoài, hoặc quấn vào bánh đa nem, chấm với nước lèo và ăn cùng rau sống, chuối xanh, vả... Về đêm những quán nem lụi đông nghẹt khách và đông nhất là các cô cậu học sinh, sinh viên. Cái giá 1.500 đồng/xiên nem lụi quả thực là quá bình dân vì thế các cô cậu học sinh, sinh viên tha hồ mà đãi nhau cũng chỉ hết vài, ba chục nghìn là cùng.
Huế có tới hơn 300 món ăn, nhưng bạn nên thử một lần ăn món bánh canh xem sao. Đây là món bình dân nhất ở Huế và nó phù hợp với những người lao động có thu nhập thấp. Thế nhưng, món ăn này cũng khiến bao người khá giả "nghiện" nó. Bánh canh nấu bằng bột mì, bột gạo với da lợn, thịt băm nhuyễn bỏ thêm ít thịt cá rán gỡ xương. Khi ăn rắc tiêu, bột ớt và hành lá thái nhỏ. Chỉ với 1.000 đồng/tô là bạn đã cảm thấy chắc dạ cho một giấc ngủ đêm.
Khách có thể dùng bữa tối bằng cơm hến tại các quán hay gánh cơm vỉa hè ở phố Bà Huyện Thanh Quan. Cơm hến là món ăn đặc trưng của Huế nhất, gánh cơm hến ở Huế đếm cũng không xuể, bởi hầu như phố nào cũng có. Các quán cơm hến thường nghỉ hàng sớm hơn các quán bún, cháo (cỡ 22h khuya), bởi lẽ ngay từ buổi chiều tối các gánh cơm đã dọn ra. Cơm hến cũng thực là rẻ chỉ 1.000 đồng/bát bao gồm đầy đủ các món ăn tổng hợp như: cơm trắng, thịt hến, khế chua, đậu phộng rang, dầu mè, bì lợn... Chẳng cần nói thì ai cũng biết là từ lâu món cơm hến Huế đã được xếp vào danh mục những món ăn ẩm thực Việt Nam, vì vậy đến Huế bạn đừng quên ăn món cơm hến.
Ngoài những món ăn đặc trưng đêm như: cháo gà, bún bò giò heo, nem lụi, bánh canh và cơm hến... thì Huế về đêm còn có vô số những món bánh như: bánh bèo, bánh khoái, bánh ít, bánh ram, bánh bột lọc...
Huế là xứ sở của những lăng tẩm, đền đài, thành quách và nét sơn thuỷ hữu tình mộng mơ, nhưng Huế cũng còn là quê hương của những món ăn ngon mang phong vị rất... Huế. Tạm biệt Huế chắc lòng du khách sẽ ít nhiều vương vấn về hương vị của các món ăn đêm ở thành phố di sản văn hóa thế giới này.
(Theo Du Lịch)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 8:19:20 GMT -5
Bánh bèo xứ Huế
Không biết có từ bao giờ, nhưng bánh bèo đã là một đặc sản, một món ăn không thể thiếu của người dân xứ Huế. Bánh bèo có mặt từ mâm cơm dân dã ở mỗi gia đình cho đến các bữa tiệc, ngày lễ, ngày Tết và các dịp đãi khách trọng thể.
Bánh bèo làm không khó, nguyên liệu làm bánh chỉ là gạo xay thành bột mịn, đem ngâm nước vài phút để có độ dẻo, lỏng vừa phải, sau đó múc vào từng chén nhỏ, xếp vào vỉ đem hấp chín bằng hơi. Khi bánh chín cho thêm gia vị như: tôm giã thật nhỏ, một ít dầu béo thực vật tưới lên chén bánh trước khi ăn. Nước chấm bánh bèo được nấu từ tôm tươi nên vừa có vị ngọt, vừa béo. Khi ăn, tùy khẩu vị từng người mà dùng ớt cho vừa...
Có dịp đến Huế, mới thấy bánh bèo gắn bó với đời sống sinh hoạt của người dân cố đô như thế nào. Khoảng từ 3 đến 5h chiều, đâu đó trên các ngõ phố những phụ nữ gọn gàng trong bộ áo dài thong thả bách bộ với quanh gánh nhẹ trên vai hoặc chiếc thúng nhỏ cắp ngang hông, đi bán bánh bèo, bánh lọc đến từng nhà. Người Huế rất thích và đã thành thói quen dùng loại bánh mang đậm hương vị quê nhà này cho các bữa ăn phụ, chỉ cần 1.000 đồng là đã có một đĩa bánh bèo lót dạ thơm ngon.
Bánh bèo cũng không thiếu trong các bữa "cơm vua" phục vụ khách du lịch và trong các bữa tiệc "cơm cung đình" chiêu đãi các khách quý.
Cơm hến Huế
Thiên nhiên đã hào phóng ưu đãi cho đất cố đô một loại hến ngon nổi tiếng. Loại hến này không biết vì sao từ xưa đến nay lại ưa thích tụ tập nơi Cồn Hến để định cư. Người Huế từ thế hệ này sang thế hệ khác rất ưa dùng hến ở Cồn Hến để nấu món cơm hến nổi tiếng của đất kinh kỳ.
Cơm hến Huế có một phong vị rất riêng, rất khó lẫn với các nơi khác và không biết từ bao giờ đã thâm nhập một cách sâu đậm vào khẩu vị và lòng người xứ Huế. Ăn cơm hến muốn đúng điệu phải ăn vào buổi sáng, lúc cơ thể có thể thưởng thức được tận cùng của chữ "ngon" sau một đêm dài. Buổi sáng tinh mơ khí trời lành lạnh, gánh cơm hến với nồi canh ngào ngạt toả hương quyện theo bước chân kĩu kịt của các mệ, các o rồi đậu xuống từng góc đường quen thuộc.
Bưng bát cơm hến nóng ấm toả mùi thơm quyến rũ trên tay vừa nghe các mệ, các o nhỏ to tâm sự về cách chế biến món ăn này bằng cái giọng Huế ngọt ngào của mình, du khách sẽ có cảm giác như thể mình là người thân quen từ bao năm xa cách trở về dù rằng mới chỉ lần đầu "đến với Huế mộng mơ".
Hến xúc ở dưới sông lên, luộc rồi tách cái (con hến) và nước hến thành hai món chính. Cơm trắng để nguội, đơm vào đọi (bát) rồi bày rau sống, bắp chuối, đậu phụng (lạc), mè (vừng) rang giã nhỏ bày lên trên. Một tô nước hến múc ra có màu lam đục, nhưng đã kịp đổi sang một màu đỏ gạch của ớt khi được chan vào bát cơm. Khách ăn có thể nêm thêm gia vị như mỡ, ruốc, muối rang, mè... và ăn kèm khế chua, rau sống, chuối sứ xắt nhỏ tuỳ theo khẩu vị của từng người. Lúc đó, các mùi vị hỗn hợp như ngọt, bùi, chát, chua, cay tưởng như xung khắc mà lại rất hữu ý với nhau sẽ cùng toả trên bát cơm hến làm cho người có cái "gu" ẩm thực dù kỹ tính đến mấy cũng phải hài lòng.
(Theo VHNTAU)
|
|
|
Post by Oshin on Oct 14, 2004 8:38:14 GMT -5
Hương vị Quảng Nam
Đến Quảng Nam mà không tận hưởng hương vị đặc biệt của tô mì Quảng, không biết đến thịt lợn cuốn bánh tráng thì quả là thiếu sót. Với người dân xứ Quảng vào những dịp giỗ chạp, đón khách quý, mì Quảng là món ăn khó có thể thiếu.
Mì được làm bằng bột gạo mùa xay mịn, tráng thành bánh, quét lên một lớp dầu lạc mỏng, xắt thành sợi. Nước dùng được làm từ thịt gà, có nơi dùng thịt lợn, tôm tươi. Nước dùng của mì Quảng ít chứ không như nước phở Bắc, nhưng rất ngọt và đậm đà. Rau sống thường là rau thơm, rau húng quế cùng với bắp chuối sứ non xắt mỏng. Nhìn tô mì, dưới là rau sống, bên trên trải đều những sợi mì trắng, được chan nước với những miếng thịt gà hay thịt lợn, tôm béo ngậy, thơm lừng, thêm ít lạc rang vàng ắt hẳn bạn sẽ nghe thấy lời "réo gọi tha thiết" từ cái dạ dày. Có thể cho thêm ít tiêu, mấy lát ớt chín, vắt múi chanh, thêm chút mắm, một thìa dầu lạc phi hành tùy theo khẩu vị. Với những người sành điệu thì còn phải thêm một cái bánh tráng nướng giòn bóp vụn vào mì. Mì Quảng ăn nóng mới ngon.
Cùng với mì Quảng, Quảng Nam còn có một món ăn độc đáo nữa là bánh tráng cuốn thịt lợn. Chuẩn bị cho món này đơn giản, chỉ cần rau sống, bánh tráng, thịt lợn luộc, nước chấm. Thịt lợn luộc xắt mỏng, phần da và mỡ trắng ngần nhưng phần nạc thì luôn giữ được màu hồng, thịt mềm và thơm lừng, cái độc đáo, khác thường đáng nói là không biết bằng cách nào họ lại để phần ngon này ở giữa còn hai bên là hai lớp da và mỡ mà không hề có điểm nối. Rau sống được làm từ giá và xà lách, các loại rau thơm và không thể thiếu bắp chuối sứ non xắt mỏng, rau muống chẻ. Bánh tráng bây giờ được dùng tùy theo khẩu vị từng nơi nhưng thường thì người ta hay dùng một loại bánh tráng làm riêng để cuốn. Loại bánh này không mỏng như bánh đa nem của người Bắc nhưng cũng không dày, có độ dai vừa đủ. Trước khi ăn, ta tráng qua một lớp nước mỏng để bánh dịu lại, khi quấn không bị rách và không bị cứng lúc ăn. Nước chấm phải chọn được từ mắm cái cá cơm, vừa thơm, vừa ngọt có độ mặn và chua vừa đủ lại hơi cay cay. Người ta không dùng đũa mà chỉ dùng tay. Trải bánh tráng lên lòng bàn tay bốc rau sống rải đều theo chiều ngang của bánh, tiếp đến là để miếng thịt cùng chiều rau, cuốn trên cái bánh như cách quấn nem, dùng kèm với nước chấm thế là bạn đã có một quấn bánh tráng cuốn thịt lợn đậm đà hương vị đồng nội Quảng Nam.
Với người dân xứ Quảng khi sống xa quê hương, mì Quảng và bánh tráng thịt lợn có thể tự làm ăn trong gia đình khi nhớ về quê cha đất tổ nhưng có một món chỉ có thể tìm thấy ở quê hương vào đúng ngày tết đó là bánh tổ. Bánh tổ làm bằng bột trộn đường đem hấp, muốn ngon thì bột nếp phải là thứ thơm và mè, đường dùng là đường bánh, thắng lên cho thêm ít gừng bỏ phần cặn, đổ nước đường vào bột quấy thật đều để khi hấp khỏi bị nhão. Sau đó cho bột vào lá chuối, đặt vào rọ đem hấp. Khi hấp, phải giữ cho mặt bánh không bị rỗ. Mè đem rang. Khi bánh đã chín, rắc mè lên trên, đem phơi để tránh bị mốc. Bánh tổ có thể ăn ngay sau khi hấp chín. Thường là người đất Quảng hay để bánh lâu, trước khi ăn, đem bánh rán trong mỡ hoặc dầu.
|
|