|
Post by Oshin on Apr 8, 2004 8:39:09 GMT -5
Hoa Lily - Bách Hợp (hoa Loa Kèn hay Huệ Tây) Và trong ánh bạc sáng lung linh Những đóa Loa Kèn trang nghiêm đứng đó Như những nữ tu trinh bạch, ngọc ngà Trong bài kinh cầu nguyện Những làn hương thanh khiết Khiến không trung trở nên thánh thiện Và tràn ngập màn đêm, thơm ngát. Julia C.R.Dore Tên tiếng Việt : Bách Hợp, Loa Kèn, hoa Huệ Tây Tên tiếng Anh : LilyTên tiếng Pháp : Lis, Amaryllis (Red Lily) Tên Latin : LiliumTên khoa học: Lilium LongiflorumHọ : Liliaceae (Hành tỏi) Ý nghĩa : Lily : Sắc đẹp - Đức hạnh - Thanh cao, quý phái - Kiêu hãnhLily trắng : Thanh khiết, trinh nguyên, ngọt ngào, chân thành. Thông điệp : Thật tuyệt vời khi bên em (It's heavenly to be with you)Lily vàng : Lòng biết ơn, sự vui vẻ. Lily cam : Sự căm hờn. Lily Tiger : Sự giàu có, kiêu hãnh. Lily có nhiều loài và nhiều biệt danh khác : Asiatic Lily, Oriental Lily, Madonna Lily, Easter Lily, Bermuda Lily, Trumpet Lily, Snow Queen, Mary''s Tear, Tiger Lily (Turks Cap Lily)...Lily, Bách Hợp, Loa Kèn hay hoa Huệ Tây trắng là bông hoa rất quan trọng và ý nghĩa đối với Cơ Đốc giáo, biểu tượng cho sự trinh trắng và đức hạnh. Trong Kinh Thánh, Lily được nhắc đến bằng cái tên "vị tông đồ khoác áo choàng trắng hy vọng" (the white robed apostles of hope). Lily mọc trong vườn Gethsemane sau khi Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá. Easter Lily được cắm trong nhà thờ suốt mùa lễ Phục Sinh để mừng sự hồi sinh của Chúa Jesus. Lily trắng được dâng hiến cho Đức Mẹ Đồng Trinh (Madonna Lily - Hoa tượng Thánh Mẫu), và là biểu tượng của sự thanh khiết, trong trắng. Truyền thuyết kể rằng trước kia Lily màu vàng, sau khi được Mẹ Maria cúi xuống hái nó lên, Lily mới hóa thành màu trắng.Trong những bức họa xưa, người ta thường vẽ thiên thần Gabriel cầm trong tay một cành hoa Lily trắng đến báo tin cho Mary rằng bà sẽ là mẹ của Chúa Hài Đồng. Những bức họa khác còn vẽ các thánh đem những bông Lily trắng đến cho Mary và Jesus. Chuyện kể rằng, Thomas nghi ngờ, khăng khăng đòi mở huyệt để xem Người có thật sự đã được lên Thiên Đàng. Khi huyệt mở ra, ông thấy trong huyệt đầy ắp hoa Hồng và hoa Huệ Tây trắng xinh đẹp. Cùng với hoa Hồng, Lily trở thành những bông hoa của Mary. Đối với những người Cơ đốc giáo, Lily trắng còn là bông hoa truyền thống cho mùa lễ Phục Sinh, lễ Truyền Tin như là biểu tượng hân hoan vui mừng trước vẻ đẹp, niềm hy vọng và cuộc sống. Người La Mã và Hy Lạp cổ đại đã từng tôn vinh Lily trắng lên ngôi cao nhất của các loài hoa. Trong các lễ cưới Hy Lạp và La Mã bấy giờ, người ta đội lên đầu cô dâu vòng vương miện hoa Lily trắng trang hoàng với lúa mì như biểu tượng của sự thanh khiết. Vậy mà Lily cũng là biểu tượng của cái Chết và được đặt trên những ngôi mộ. Ngày xưa, người ta còn tin rằng Lily tự mọc trên những ngôi mộ của những người trong sạch, vô tội mà bị xử oan. Truyền thuyết Tây Ban Nha cổ kể rằng ăn cánh hoa Lily sẽ giúp cho người bị biến thành quái vật được trở lại thành người. Lily cũng là một bông hoa phổ biến trong văn minh Do Thái cổ (từ Hebrew - Do Thái cổ của Lily là Shusan) và là bông hoa thiêng của người Assyria cổ. Nó từng được nhắc đến trong kinh Tân Ước. Thời Trung Cổ, theo những quan niệm mê tín, nếu mơ thấy Lily vào mùa xuân báo hiệu một cuộc hôn nhân hạnh phúc và sung túc, ngược lại, nếu mơ thấy Lily vào mùa đông, sẽ là điềm báo sự thất vọng hay sự chết yểu của người yêu. Cũng ở thời kì này, người ta còn dùng Lily trắng (củ của nó), để chữa bệnh. Thế nhưng, khoa học ngày nay đã chứng minh rằng Lily thực ra không có dược tính và những phương thức chữa bệnh từ Lily vì thế chỉ là huyền thoại. Trong thần thoại Hy Lạp, Lily trắng được sinh ra chính từ những giọt sữa của nữ thần Hera (Queen of Heaven) - vợ thần Zeus. Chuyện kể rằng, Hercules là con trai của Zues với một phụ nữ bình thường Alceme. Vì muốn cho con trai mình có thêm sức mạnh thần thánh, Zeus để Hera ngủ say rồi đặt cậu bé bên cạnh nữ thần cho bú sữa. Khi Hera tỉnh dậy, bất ngờ và tức giận, bà đẩy đứa trẻ khỏi mình. Những giọt sữa thừa lúc ấy phun trào xuyên qua bầu trời tạo nên dải Ngân Hà (the Milky Way), còn vài giọt rơi xuống mặt đất, từ đó mọc lên những bông hoa Lily trắng đầu tiên...[/img][/center]
|
|
|
Post by Oshin on Apr 8, 2004 8:41:03 GMT -5
Lily là bông hoa thiêng của văn minh Minoan * , biểu tượng đặc biệt của vị Nữ Thần thống lĩnh thời kỳ Minoan, Britomartis hay Dictynna, khởi nguyên từ thời Đồ Đá. Bà duy trì uy quyền của mình ở Crete cho đến khi trận Đại Hồng Thủy huyền bí xảy đến với nền văn minh Minoan vào giữa thế kỷ 16 trước Công Nguyên. Khi giáo phái của nữ thần dần dần bị đồng hóa vào tôn giáo của người Hy Lạp, bà trở thành tiền thân của nữ thần Mặt Trăng - Muông Thú - Săn Bắn Artemis trong thần thoại Hy Lạp (chị em sinh đôi của thần Mặt Trời Apollo, tương ứng với nữ thần Diana trong thần thoại La Mã). Ngày nay, người ta tìm được những mảnh gốm cổ mang hình ảnh hoa Lily của nền văn minh Minoan ở đảo Crete. Các nhà khoa học cho rằng những mảnh gốm Minoan chính là di tích của nền văn minh Atlantis huyền thoại. **Lily cho mùa lễ phục sinh (Easter Lily) xuất xứ từ Nhật Bản và mọc dại tự nhiên ở nhiều nơi khác như Trung Quốc, Formosa, quần đảo Lichu (?)... Lily đã từng được nhắc đến trong một cuốn sách về vườn cảnh Nhật Bản từ năm 1681. Easter Lily đến vương quốc Anh năm 1819 và chẳng bao lâu sau đó, nó đã trở thành một bông hoa quen thuộc được ưa chuộng. Những củ hoa Huệ Tây được xuất khẩu sang Anh, Mĩ từ Bermuda, bấy giờ là trung tâm sản xuất Hoa Huệ Tây thương mại đầu tiên ngoài Nhật Bản. Các củ Huệ Tây lúc đó còn được gọi là "Vàng Trắng" (White Gold). Ah, Lily cũng được vẽ trong một bức tranh nổi tiếng của cố họa sĩ Tô Ngọc Vân của Việt Nam mình, các bạn nhớ không, tác phẩm "Thiếu nữ bên hoa Huệ". Bức tranh đã bán cho một người sưu tầm đồ cổ với giá 15,000 USD rồi bị tráo ra nước ngoài. vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/My-thuat/2002/04/3B9BAABF/Lily có thể chưng trong bình được khá lâu, từ 14-20 ngày. Muốn hoa tươi bền, ngay khi hoa mở cánh, người ta cắt bỏ bao phấn vàng để hạt phấn không lem vào cánh hoa. * : nền văn minh rực rỡ thời kì Đồ Đồng ở đảo Crete (thuộc Hy Lạp, trên Địa Trung Hải), khoảng năm 3000 - 1100 trước Công Nguyên. ** : Trong bản anh hùng ca nổi tiếng "Timaeus và Critias", hiền triết Hy Lạp Plato đã miêu tả rất tỷ mỷ về sự sụp đổ của thành phố Atlantis. Theo đó, khoảng 11.000 năm trước, toàn bộ nền văn minh Atlantis này đã bị nhấn chìm trong một thảm họa động đất và núi lửa dưới chân những cột đá của Hercules. Huyền thoại về một nền văn minh có tên là Atlantis đã ám ảnh nhân loại từ mấy nghìn năm nay. Khi tìm ra châu Mỹ, người ta đã ngỡ rằng đó chính là miền đất hứa này. Sau đó, người ta lại nghi ngờ tam giác Bermuda, đảo Thera (Hy Lạp)... là nơi chôn giữ Atlantis. Và đến bây giờ là... Gibraltar! vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2001/09/3B9B4A4B/www.atlan.org/
|
|
|
Post by Oshin on Apr 8, 2004 8:44:29 GMT -5
Hoa loa kèn tháng Tư (Phan Đan) Một vệt trắng hình lưỡi mác Trên nền xanh Đổ gập xuống nỗi kinh ngạc Hoa loa kèn,
Ngữ pháp lập thể của cây trombone thực vật Thổi trong bóng chiều Rung những sợi lông mi vàng óng Bay qua khung cửa sổ,
Không có ai bên bàn Trên tường không có bức phiên bản Tô Ngọc Vân Không có cả tiếng khóc Của chiếc lọ men rạn,
Phố vắng hút theo tiếng kèn siêu âm Tôi là con ong lạc lối Tìm câu chuyện cổ tích Andersen Ngủ trong đoá hoa lớn của mùa hè,
Giấc mơ tháng Tư gọt từ đá Trồi lên những vòm cửa gothic Sao em dầy vò mãi hai bàn tay gầy guộc Madonna Lily?Hoa Loa Kèn tháng TưThiếu nữ bên hoa huệ Ngày còn nhỏ xíu, ngắm bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ của danh hoạ Tô Ngọc Vân, tôi từng thắc mắc: "sao lại là hoa huệ? Phải là loa kèn mới đúng chứ". Cha tôi rằng: "hoa này người Pháp mang tới trồng ở Việt Nam, các cụ gọi là hoa huệ Tây, để phân biệt với loài hoa huệ thường hay dùng để cúng. Sau này, người ta thấy hình dạng hoa giống chiếc loa kèn, nên gọi luôn thành thế". Hoa loa kèn tháng tư- thứ hoa chỉ rộ lên một mùa trong một năm rồi thôi. Lỡ qua mất mùa hoa thì cũng đành để người ta phải chờ đợi một tri âm. Những ngày nắng mới, Hà nội oi nồng, chỉ có những nụ loa kèn trắng xanh, nghiêng mình trên miệng giỏ rong ruỗi sau xe đạp hay lắt lẻo nằm chơi trên đôi đầu quang gánh đi khắp phố phường. Và chỉ cần một cơn gió nồm sớm luồn qua khung cửa, là đã thấy cả một trời hương. Mùa hoa cũng là mùa ve sầu bắt đầu râm ran trên những ngọn bàng, ngọn sấu. Mới chỉ kịp để mắt trông theo thì loa kèn đã thôi không còn nở nữa. Hoa loa kèn gắn với tuổi thơ Hà Nội của bao nhiêu đứa trẻ cũng như tôi? Ngày bé rình hoa nở ngắt nhuỵ phấn vàng bôi lên má búp bê. Rồi lớn lên, nâng niu trên tay những nụ hoa giấu kín những ước mơ đầu đời. Cha tôi hay mua loa kèn cắm trong chiếc bình gốm men ngọc. Ông bảo: "màu ngọc men tông xuyệc tông với màu hoa lá". Còn tôi lại thích ngắm những đoá loa kèn xoè cánh trắng trong chiếc bình đất nung. Màu nâu của bình gợi lên màu đất ấp ủ, nuôi nấng trăm ngàn loài hoa thảo mộc. Hoa đã đẹp thì hãy để chúng đẹp một cách tự nhiên nhất, dù vẫn biết rằng cắm một bài hoa giữa mọt căn phòng cũng là một cách đem thiên nhiên vào đời sống vốn nhiều hệ luỵ... Năm tháng qua đi, bao hình sắc nhạt nhoà, nhưng những nụ hoa loa kèn thì cứ trắng tin khôi như thủa nào. Vẻ tinh khôi không thể che dấu hay bôi xoá. Sài Gòn tháng tư. Trời xanh không một gợn mây. Tôi chạy xe trên đường Lê Thánh Tôn, ngang những hàng hoa bên hông chợ Bến Thành. Lẫn giữa trăm ngàn sắc màu của những loài hoa đắt tiền, những đoá loa kèn khiêm nhường và kiêu hãnh. Tôi gặp lại Hà Nội của tôi, tuổi thơ của tôi trong bóng dáng những đoá hoa. Tôi không dám hỏi người bán hàng về xuất xứ của những bông hoa loa kèn nọ. Tôi sợ phải nghe một câu trả lời. Tôi chỉ muốn tự an ủi, vỗ về giấc mơ tôi bằng những đoá hoa mà thôi. Tháng tư, một người nhạc sỹ đã trả hết nợ trần gian, về làm cát bụi. Những lời hát của ông cũng tinh khôi như những đoá hoa loa kèn bởi nó chắt từ con tim nhân hậu. Chính ông, bằng những lời hát của mình đã dạy tôi biết yêu Sài Gòn, biết nhặt niềm vui để sống mỗi ngày. Tôi muốn mang những đoá hoa trinh trắng đặt trên mộ ông để tỏ lòng tri ân và cũng bởi ông từng yêu Hà Nội vô cùng. Lưu Việt Thảo
|
|
|
Post by Oshin on Apr 8, 2004 8:50:15 GMT -5
Em yêu hoa loa kèn. Người ta chê “hoa loa kèn vô duyên”, em lý sự “hoa loa kèn trắng tinh khôi, thơm tinh khiết và nở hết mình”. Nhưng đây là trước kia, còn bây giờ em tự nhủ “Việc gì mình phải thanh minh với người không hiểu”. Những ngày tháng tư, lúc nào trong phòng em cũng có hoa loa kèn. Vậy mà đến khi hoa loa kèn được bán quanh năm trong các shop hoa thì chính em lại là người buồn nhất. Với em, nó quý vởi chỉ nở có một mùa, trọn vẹn trong một tháng. Em bảo “Thứ hoa công nghiệp kia chỉ là cái bóng của hoa loa kèn tháng tư”. Trích "Kẻ Mạnh" - Phạm Kim AnhHoa Loa Kèn - tác giả Hoacomay Mùa hoa loa kènDu nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ 20, hoa loa kèn (còn gọi là huệ tây) trở nên rất hợp với Hà Nội. Hoa loa kèn mùa rất ngắn, nở vào dịp cuối xuân đầu hạ, nhưng để lại nhiều ấn tượng trong lòng người Hà thành. Khi Hà Nội còn một chút rét se se, có khi lai rai mấy buổi mưa phùn. Mùa xuân còn muốn lưu lại. Nhưng chen vào đó một ngày thoáng nóng bức đầu hè. Nắng sáng hơn, trời sáng hơn. Ra đường, bỗng reo lên một tiếng như thể lần đầu tiên phát hiện: Hà Nội, đã mùa hoa loa kèn. Hình như hoa này là của người Hà Nội... Xưa các cụ từng yêu hoa hồng, hoa cúc, và có người cũng đã chỉ thích hoa huệ. Khoảng đầu thế kỷ trước, trong phòng khách của người Hà Nội thường có độc bình hoặc song bình, đó là để cắm hoa huệ lúc đến mùa. Huệ ta cũng đẹp, hoa vẫn như vương mầu hoang dại, thô tháp từ cành từ lá. Nhưng huệ ta cánh trắng, nhị vàng ươm, thơm đậm mà ngát... Thứ hoa này chơi cũng được, mà cúng cũng được. Huệ thường phải mua cả chục... Có thế, mới đủ mùi thơm cho một căn phòng... Loa kèn cũng là một thứ huệ, huệ tây. Loa kèn có lẽ là một thứ hoa di thực... Tôi hỏi những ông già sống từ hồi đầu thế kỷ trước, mỗi khi loa kèn nở, rằng huệ tây có ở nước ta tự bao giờ? Có cụ nói: khoảng những năm hai mươi, có cụ bảo khoảng những năm ba mươi, cùng với hoa phăng (hoa cẩm chướng). Hoa phăng, thực ra gọi đủ là oeillet de France (cẩm chướng của Pháp), sau này quen gọi tắt là hoa phăng... Hoa phải trồng bằng hạt, đem từ Pháp sang, đến gần đây cũng thế... mà trước đây chỉ có Ðà Lạt mới trồng được, chắc là hoa phăng thuần chủng... Huệ tây có lẽ trồng đầu tiên cũng từ Ðà Lạt, vì nơi đây có khí hậu ôn đới, sau mới di thực sang các tỉnh khác. Hoa loa kèn với Hà Nội là một thứ hoa sang, quyền quý... Trong các thứ hoa di thực, du nhập, như các thứ hồng, cẩm chướng, violet, v.v., loa kèn dễ được nhập hồn với người Hà Nội nhất... Trước Cách mạng Tháng Tám, hầu như huệ tây là thuộc thú chơi của nhà giàu, có một chút gì hướng ngoại, hướng về phương Tây. Chẳng là nước Pháp xưa vốn được gọi là vương quốc của huệ tây (Royaume de lis). Với người Pháp, huệ tây là biểu thị của lòng trong trắng, trinh tiết. Người đàn bà đẹp thì được khen là có nước da mầu hoa huệ... Nhiều cô gái Pháp được mang cái tên rất dễ thương Li-li, đó cũng là cha mẹ vốn rất yêu huệ tây mà đặt tên con như thế... Những người tù Pháp thì xăm hoa huệ tây trên cánh tay... Huệ tây được lớp trẻ trước Cách mạng Tháng Tám rất quý, chẳng thế mà họa sĩ Tô Ngọc Vân đã để lại bức danh họa lừng lẫy: Thiếu nữ bên hoa huệ... Thật hạnh phúc cho cô gái nào được làm người mẫu, ngồi bên hoa huệ tây ngày ấy. Dáng ấy, người ấy, đã trở thành biểu trưng cho cái thanh lịch của Hà Nội, không chỉ đương thời... Trước đây, mùa loa kèn, tôi chỉ được nhìn các bà, các cô Hà Nội đi chợ mua hoa về cắm, chứ chưa được nhìn kỹ. Duy có lần đến thăm một người bạn gái, gặp mùa huệ tây, hầu như bữa ấy tôi thần người, ngắm mãi bình hoa ngưỡng mộ từ lâu. Một căn buồng nhỏ. Cả nhà đi sơ tán. Bình huệ tây đặt trên một chiếc bàn nhỏ, bộn bề sách vở, mà sao vẫn đẹp thế. Cánh hoa trắng ngần thành điểm sáng của cả căn phòng. Mùi hoa sang trọng lan tỏa. Chén trà rất ngon, xanh mầu mật ong đã rót... Chợt một hồi còi báo động nổi lên... Tự nhiên, bốn mắt chúng tôi nhìn nhau, rồi cùng lặng thầm cúi xuống. Tay tôi và tay em cùng đang ôm lấy tách trà... Chúng tôi cùng ngồi bên hoa huệ, ở cái tuổi trẻ thật trong trắng của năm Hà Nội hiên ngang đánh Mỹ... Cái phút thiêng liêng ấy, bỗng trở nên đồng cảm. Và, tôi không đừng được đưa tay ra nắm lấy bàn tay ngần trắng, một làn da mầu huệ... Sau này đêm nào ngủ, gặp mùa huệ tây, tôi cũng đặt hoa trong phòng, và mới thấy thêm một điều... Các loại hoa mầu trắng thường rất đẹp dưới ánh trăng, và cái thơm của huệ, của quỳnh, của nhài dưới trăng, thứ hương của hoa giấu mình hay thấp thoáng trong đêm, mới thật đúng với chất của loài hoa trắng... Có đêm, tôi tắt đèn, đặt bình hoa trên một bàn nhỏ, dưới ánh trăng đầu tháng tư, thưởng hoa một mình. Và sau đó ngủ trong ánh trăng khuya, để hoa và trăng dẫn mình vào giấc ngủ... Và, tôi lại nhớ cái đêm chiến trận. Thật bất ngờ tôi đã có được những phút có một không hai, bên bình huệ tây và bên người đẹp. NGÔ VĂN PHÚ
|
|
|
Post by Oshin on Apr 10, 2004 13:13:54 GMT -5
Là loại cây thân mềm sống chủ yếu ở dưới nước. Sen có giống màu đỏ, cánh kép gọi là quì. Một giống khác có thân, lá, hoa đều nhỏ gọi là sen tịch thượng, được trồng vào chậu nước hay bể cạn. Có thuyết cho rằng sen đã có mặt trên trái đất hàng trăm triệu năm trước đây.
Ở Việt Nam, hoa sen được xếp vào bộ tứ quí (bốn mùa): lan, sen, cúc, mai và còn là biểu tượng của mùa hạ và được xếp vào hàng "tứ quân tử" là tùng, trúc, sen, cúc. Hoa sen có mùi thơm dịu nhẹ. Cây sen có rất nhiều tác dụng. Hoa sen thường dùng để thờ cúng. Nhụy sen có những hạt trắng dùng để ướp với trà làm thành trà sen. Lá sen dùng để gói hàng, gói cốm. Hạt sen dùng làm một vị thuốc bổ, để nấu chè, hầm chim, gà... Tâm sen phơi khô, sắc uống có tác dụng an thần.
Cây sen rất ưa ánh sáng. Hoa sen nở về mùa hè. Vào mùa hoa sen nở, hương sen thoang thoảng thơm trong gió bay xa hàng trăm mét.(Du Lịch Việt Nam) Bông sen "Tháp Mười đẹp nhất bông sen..." Đó là một trong nhiều điều tôi tò mò muốn biết khi về thăm Đồng Tháp Mười, vì từ bé đến giờ tôi chưa hề thấy sen mọc hoang. Ở Huế cũng như khắp các làng quê miền Bắc, miền Trung tôi đã đi qua, sen được trồng trong những đầm, hồ dành riêng, không xen lẫn với các loài thủy thực vật khác, và nhất là không tự mọc theo kiểu cây dại. Mùa thu mặt hồ xanh biếc vắng lặng làm bâng khuâng, tưởng như linh hồn bông sen đã lặn về ẩn náu đâu dưới thủy cung. Về Đồng Tháp Mười mới biết, ở đây sen nở mênh mông chi địa, chung sống không nề hà cùng lau sậy, cỏ lác, cỏ năn... tự mình thơm ngát giữa đầm lầy. Liên tưởng tới câu ca dao ngợi khen phẩm chất bông sen thuộc lòng từ nhỏ, "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn", tôi chợt thấy buồn cười vì một điều vô nghĩa đã tồn tại quá lâu trong văn chương. Không thể bảo rằng bông sen "gần bùn" bởi vì sen chính là từ bùn ngoi lên, được bùn nuôi dưỡng, thậm chí được dành một cọng riêng không chung với lá nhờ thế mà đủ sống, mà thơm tho gởi hương cho gió. Mẹ vắt mình nuôi con khôn lớn thành đạt làm quan, con bước lên thượng lưu xã hội, cúi xuống ngửi ngửi mùi mồ hôi trên áo mẹ, chê là hôi hám. Ăn ở bất hiếu bất nghĩa như vậy, đâu phải là phẩm chất của bông sen? Đó là điều thứ nhất. Thứ hai, chỉ bùn cống rãnh mới dơ bẩn; còn bùn dưới đáy hồ sâu nơi sen mọc, tinh sạch thế, có gì đâu mà "hôi tanh"? Có lần tôi về tận chót Mũi Cà Mau, bì bõm lội giữa bãi bùn mênh mông, chỉ thấy ngất ngây một mùi phù sa đôn hậu. Về Tháp Mười lần này, tôi được nếm món thịt chuột ram mỡ nhấm với rượu đế nơi một quán cóc ven kênh Tư Mới. Thú thực, vừa nghe tới "chuột" là tôi thấy ớn; nhưng ăn vào thì lại là chuyện khác! Chỉ chuột cống rãnh mới ghê tởm, còn con chuột đồng, ngẫm lại có khác chi con thỏ? Đem liên kết hai ý niệm "bùn" và "chuột" này, tôi kết luận rằng những người dân thị thành (như tôi) không được phép lầm tưởng những thứ cống rãnh phố phường với bùn đất đồng nội, nếu không muốn mang tội "trịch thượng" đối với cội nguồn. Câu nói "gần bùn, hôi tanh" gì gì đấy về bông sen quả là phảng phất miệng lưỡi của gã trịch thượng loại đó. Thế không lẽ ca dao lại dạy cho trẻ em sự vong ơn bội nghĩa hay sao? Tôi không tin, vì ca dao tục ngữ vốn đuợc sáng tạo nên bằng đạo lý của nhân dân. Chẳng qua là mấy anh đồ Nho tự cao tự đại nào đấy đã chen vào, chính họ đã thở ra cái khẩu khí hãnh tiến và bội bạc kiểu thế này: "Một ngày dựa mạn thuyền rồng- còn hơn chín tháng nằm trong thuyền chài". Bài ca dao "Trong đầm gì đẹp bằng sen" cũng thuộc loại "khẩu khí" nói trên. Theo Dương Quảng Hàm, trong Việt Nam Văn học Sử yếu, bài ca dao này được kết hợp bởi hai thể Phú và Tỷ, "vừa tả hoa sen (phú), vừa ví quân tử với hoa sen (tỷ )". Quân tử bị bắt quả tang ở đây đích thị là đồ Nho rồi, còn ai vào đấy nữa! Sự lỡ miệng nằm trong câu cuối (gần bùn, hôi tanh) để phá vỡ hình tượng cao quí của bông sen trong toàn bài, khiến thi sĩ Phùng Quán đùng đùng nổi giận "Tất cả là trong cái chữ gần. Chỉ một chữ mà ta thấu gan thấu ruột "những manh tâm bội nghĩa vong ân", và bởi thế, Quán đòi: "Nhân danh bùn- nhân danh sen- Tôi đề nghị đuổi câu thơ phản trắc này ra khỏi kho báu nhân dân" (Thơ Phùng Quán- NXB Hội Nhà văn). Thực ra, Bông Sen vẫn là biểu tượng tâm linh của Phật giáo; nhưng Phật giáo không nói "gần bùn", mà nói "từ bùn mọc ra- liên hoa xuất ư nê" như bài kệ của thiền sư Minh Lương (thế kỷ XVII). Tiếc thay, hình tượng bông sen được tôn vinh theo kiểu đó đã tiếp tục lừa dối quá lâu trong sách vở xưa nay. Đó là câu chuyện Nhàn đàm giữa anh Hồ Bông và tôi trong chuyến giao du về xứ Đồng Tháp Mười quê hương anh. Nhạc sĩ Hồ Bông nguyên là Trưởng đoàn ca múa nhạc Bông Sen, suốt đời nâng niu lòai hoa đẹp nhất Tháp Mười này. Vậy nên mỗi lần mở màn giới thiệu đoàn nghệ thuật của mình trước công chúng, anh vẫn đọc bài thơ Bông Sen, với câu cuối đầy trìu mến như sau: "Nhụy vàng bông trắng lá xanh Từ bùn nên vẫn đạm thanh hương bùn" Tất nhiên câu khẩu hứng của anh Hồ Bông chưa hay, thậm chí chưa đủ sức thay thế nguyên bản. Nhưng tôi tâm phục tấm lòng "biết ơn bùn- đất" nơi con người nghệ sĩ Hồ Bông. Đúng, sen có đức giáo hóa, có đức khiêm nhường, thanh khiết hơn mọi hoa khác, dù nó mau tàn, người ta vẫn thích chọn hoa sen làm hoa dâng chúng Phật. (Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)
|
|
|
Post by Oshin on Apr 10, 2004 13:16:27 GMT -5
Lá senCứ mỗi độ hè về, hết mùa hoa gạo tháng 3 đỏ đường làng, sau những cơn mưa đầu hè như trút nước, bầu trời ầm ầm tiếng sấm. Trên các hồ ao ven làng quê lại ngát xanh những chiếc lá sen. Lá sen ngoi ra khỏi mặt nước là xoè ngay ra hứng lấy ánh nắng mặt trời và những hạt sương rơi đêm đêm, lá sen biến chất diệp lục thành màu xanh sẫm bền vững giữa nắng mưa, để lại dấu ấn cho miền quê phong quang và yên tĩnh. Cuối tháng 4 đầu tháng 5, mùa sen trổ hoa, bông hoa sen mang hình đài sen trắng phớt tím, biểu lộ sự trong trắng, đợi chờ thuỷ chung... hương sen thơm thoảng một vùng. Lúc đó sức sống từ cây sen trên đầm sen bộc lộ hết mình, khoe sắc đua chen cùng với nắng, gió. Trong cái đẹp tuyệt vời từ ngó sen trắng nõn, đến hoa sen tuyệt vời, nào ai có biết đến lá sen. Lá sen dung dị và gợi cảm nơi miền quê yên lành. Lá sen dập dềnh ru hát trên thoáng nước tĩnh lặng. Nơi có lá sen ta chỉ nghe tiếng gió ru, cỏ non reo, tiếng ríu ríu lách tách loài côn trùng bờ nước đùa vui, hay tiếng hát lành vui của cô gái má hồng nào ngắt lá sen đội đầu trên thuyền tre lướt nhẹ giữa đầm làng hái hoa sen, thật thanh bình lá sen. Lá sen hai mặt khác nhau, mặt trên biếc thẫm xanh xanh, mặt dưới bạc mờ phấn bụi như soi đáy nước trong veo. Thường thì lá sen vươn toả như chiếc đĩa ngọc, hứng nắng và mây trời, đảo đưa đón gió gợn lay, tô điểm cho búp sen hồng lồng lộng. Lô xô sóng gợn đẩy lá dập dềnh. Tiếng lá sen đêm đêm hứng gió mát mơn man từ bầu khí quyển, hứng cái nóng hầm hập bốc lên từ mặt nước sau một ngày nắng gắt, chúng chuyển mình xô đẩy đùa vui nhẹ lắm, cứ xào xạc và nghe lách tách lách tách, chỉ có người trồng sen là nghe rõ hơn cả. Mùa lá sen nõn là mùa hè, sen chưa đơm hoa, mùa của nắng rực rỡ nhất trong năm. Nắng tưới xuống lá sen, hứng thổi hắt lên cao làm dịu đi màu lửa mùa hạ. Vì thế, mùa hạ ai một lần đến bên đầm sen nhìn ngắm đều thấy tâm hồn trong sáng, ngắm sen và suy tư. Cứ thế lá sen tươi mãi đến mùa thu mới chịu ngả màu ly biệt chuyển dời về với nước, lắng sâu xuống lòng hồ làm bùn nuôi cho ngó sen trắng ngần ngủ ngon dưới bùn nước suốt mùa đông, để đến khi nghe tiếng sấm mùa hè, vươn mình lên mặt nước đón chào một mùa sen mới. Lúc đó dưới trời thu, đầm sen trở nên buồn bã lắm, nước cứ ngẩn ngơ đến trong veo. Lá sen che mặt nước, làm thành chiếc nôi ngọc dịu dàng đong đưa ru ngủ giữa trưa hè cho những chú nhái bé bỏng thích nằm trên lá nhai cỏ, đớp sương. Lá sen cũng là mái lều đơn sơ mà thanh lịch của những chú ếch xanh lười lên bờ, ngồi nghe mưa roi, như tiếng trống chèo đêm hội bên làng. Lá sen đùa vui cùng với ếch nhái, thỉnh thoảng nơi lá sen che còn có những đàn cá rô đen nhánh uốn đuôi đớp bèo tấm làm tung lên những giọt nước trong veo như hạt thuỷ tinh lóng lánh. Ðêm đêm mẹ lại chèo thuyền ra đầm, mở những bông sen ướp chè, tinh mơ, khi con gà vừa gáy canh tư, mẹ lại chèo thuyền, lướt nhẹ trên đầm, lách qua từng khe nhỏ, đôi bàn tay khéo léo, nghiêng chiếc lá sen, mẹ hứng lấy những giọt sương tinh khiết sau một đêm đọng lại như viên ngọc bích, để có hàng nghìn giọt sương đem về, mẹ pha chè ướp sen mời ông bà nội và bố uống. Dù đi đâu, nơi góc bể chân trời, khó ai quên nổi đầm sen, hương sen và những chiếc lá sen che đầu bọn trẻ lúc tắm lội nơi hồ, lúc ngồi trên lưng trâu chăn trâu gặm cỏ bờ đê... Không chỉ thế, mỗi phiên chợ quê, ai chẳng gói lá sen mùa hạ. Những hôm trời nắng, nửa buổi sáng đàn con chờ mẹ đi chợ về, chúng háo hức, mở gói xôi bọc bằng lá sen ra, mùi xôi thơm phức, hấp dẫn, hương lá sen tinh khiết sạch sẽ. Có lẽ ngoài lá sen bọc xôi ra, khó mà có lá gì, giấy gì bọc xôi ngon hơn. Ngoại thành Hà Nội từ xưa, có làng Phú Gia (phường Phú Thượng, Tây Hồ bây giờ ), hàng năm có hàng trăm người đem xôi vào nội thành bán, họ chỉ mong sớm đến mùa sen mọc, để có lá gói xôi. Xôi Phú Gia ngon có tiếng, nếu được gói vào lá sen thì hương vị còn ngon hơn lên. Dân làng mua lá sen được chuyển từ Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Tây... về. Xưa cũng chính do Hồ Tây sen mọc quanh bờ, nhiều lắm, cũng nhờ có sen nhiều mà dân ở đây mới có nghề bán xôi nổi tiếng ở Hà thành. Nhiều gia đình sống được, khá giả lên nhờ buôn bán lá sen, lá sen về đến đâu, sáng hôm sau đã chuyển sang người bán xôi bằng hết, cây sen có thể dùng vào các vị thuốc nam, từ ngó sen, tơ sen, đài sen, hạt sen và kể cả lá sen. Lá sen bánh tẻ còn làm được vị thuốc mát tì vị, điều hoà âm dương, hái lá sen đem về thái nhỏ, sao vàng nấu nước uống có thể giảm được huyết áp cao, bớt chóng mặt, nhức đầu, ăn ngon miệng, ngủ dễ. Công dụng của cây sen là vậy nhưng thực tình đến hôm nay sen đang bị mai một đi nhiều, đầm sen Tây Hồ còn rất ít, đang biến thành những đầm hồ câu cá, các vùng quê ao hồ cũng bị lấp đi nhiều. Sen ít đi cũng ít nhiều làm ảnh hưởng đến nhân hoà địa lợi, không khí bớt trong lành. Hãy có quy hoạch để đầm sen mãi mãi là biểu tượng của phong cảnh Việt Nam và để chiều chiều em gái tóc thơm mùi sả, thả xuồng lá tre, nhẹ nhàng cắt từng chiếc lá sen tươi nhất xếp vào thúng, để sáng mai tấm lá sen tròn trịa, rộng mở bao dung gói nắm xôi thơm cho học trò đến trường. Hay mớ rau tươi, cọng giá giòn tươi của các mẹ, các chị được giữ bọc khôi nguyên trong chiếc lá sen. Phiên chợ quê lại thơm thoảng, ồn ã màu lá sen và lá sen vẫn mãi có ích cho đời. Lá sen chẳng lộng lẫy, chẳng sắc màu, nhưng rất dung dị như cô gái làng quê bước trên cánh đồng rợn lúa. Qua tháng năm, lá sen vẫn thoảng đưa trong tâm hồn ta. Minh Nguyệt
|
|
|
Post by Oshin on Apr 10, 2004 13:18:59 GMT -5
Hoa súng Cây súng là một giống cây mọc ở dưới nước (ao, hồ, đầm, phá). Thân củ to bằng quả trứng dưới mặt đất, lá nổi trên mặt nước. Hoa súng màu tím có nhiều lá noãn gắn vào nhau thành một bầu nhiều ô, hoa có 4 lá dài, 10 - 30 cánh hoa, 10 - 50 nhị. Hoa súng để làm cảnh trong các bể trước chùa hay ao đình. Những gia đình có bể nước với hòn non bộ, người ta hay trồng hoa súng. Trên một gốc súng, bao giờ cũng có một cặp hai bông súng mọc và tàn cùng. Vì hoa mọc trong nước nên khi cắt hoa để cắm vào lọ sẽ không được bền lâu. Có hai loại cây súng: súng sen được trồng ở trong các hồ nước ở đình, chùa, ao làng, cho hoa tím đỏ và to; súng dại là loại cho hoa màu trắng hoặc tím. Cây súng dại cuống lá nhỏ, hoa nhỏ mọc dại ở các đầm, phá, mương nước (có vùng gọi cây này là cây trang). Người miền Nam hay dùng thân cây súng sen để làm rau sống. Củ súng sen là một vị thuốc bổ thận có tên là khiếm thực, có thể luộc ăn rất ngon và bùi. Muốn ăn bông súng, mắm kho Thì vô Ðồng Tháp ăn no đã thèm.(Ca dao) (Du Lịch Việt Nam) Vì sao lá cây súng vua có thể đỡ được một người? Lá cây súng vua. Nếu bảo rằng có một loài cây mà 1 chiếc lá của nó có thể đỡ được sức nặng của một người, hẳn bạn sẽ lắc đầu không tin. Nhưng quả thật có một loài cây như thế. Tên nó là súng vua, sống ở Vân Nam, Trung Quốc. Súng vua sinh trưởng trong ao hồ. Lá cây súng vua có đường kính trên 2 m, có khi trên 3 m, nổi trên mặt nước chẳng khác gì chiếc mâm ngọc khổng lồ. Chiếc lá này có thể chở một người nặng 75 kg mà không chìm. Sức mạnh của nó chính là do cấu tạo đặc biệt của mặt dưới lá. Nếu lật ngửa lên để quan sát, ta sẽ thấy một kiểu cấu trúc đặc biệt: gân lá vừa to vừa khỏe, đồng thời xếp như kiểu xương sườn, rất giống cấu trúc dầm cầu thép, cho nên khả năng chịu lực đặc biệt lớn. Cây súng vua có nguồn gốc ở Amazon, Nam Mỹ. Tháng 8 hàng năm, nụ hoa nhô lên khỏi mặt nước, bắt đầu nở. Bạn hãy tưởng tượng hình dáng hoa giống hệt với hoa súng thông thường, nhưng được "phóng đại" lên nhiều lần, chỉ riêng gai lông trên cuống hoa đã to như cái đinh. Thời gian hoa nở rất ngắn, chỉ trong 2 ngày. Buổi tối ngày thứ nhất, khi mới nở hoa có màu trắng, tỏa mùi thơm như hoa bạch lan. Sáng ngày thứ hai, cánh hoa khép lại, chập tối lại nở ra, khi ấy hoa từ màu trắng chuyển dần sang màu hồng nhạt đến đỏ sẫm. (Theo 10 vạn câu hỏi vì sao)
|
|
|
Post by Oshin on Apr 10, 2004 13:57:12 GMT -5
Chuyện hoa
Hoa có một vị trí trang trọng đối với con người. Nó không thể thiếu trong các nghi lễ, giao tiếp, thưởng ngoạn. Hoa là biểu hiện cao khiết trong đời sống tinh thần .
Mỗi loài hoa có một vẻ đẹp riêng. Có điều, ngoài màu sắc, dáng vẻ, hương thơm… hoa thực sự toát lên tinh anh ở những thời điểm, vị trí nhất định. Bạn có bao giờ ngắm hoa dằng dưới trăng chưa? Dằng phủ trên gai dại khắp các đồi, gò một màu trắng loá những bông hoa thanh tú rắc từng chùm sáng sinh động dưới trăng, chừng như chỉ chiếu sáng cho riêng chúng, còn hương thơm toả ra ngây ngất cả vùng. Lúc này, mọi loài hoa sang trọng khác phải xin nhường. Mai chiếu thuỷ nở rộ vào tháng hai. Sáng sớm, khi sương chưa tan, khí trời trong lành, thoảng nhẹ hương thơm, hoa thanh khiết và duyên dáng lạ thường. Bởi cuống hoa thật mảnh và dài nên những nụ lớn tròn căng những chấm trắng cùng hoa nở đều cúi mặt như e thẹn, cuống hoa lại như chùm tia sáng toả xuống tạo nên vẻ hư thực kỳ lạ. Trưa càng nắng, bông trang, bông bụt càng ngời sắc đỏ. Bông chuối nước chỉ đẹp khi đứng ở góc vườn, bờ rào. Đi qua vùng cỏ may, nghe mang mang mùi nắng, biết chiều đang xuống vội vàng …
Không phải ngẫu nhiên dân gian có thành ngữ: “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Thậm chí thời Bắc Tống, danh sĩ Lâm Pha yêu mai say đắm, trồng mai để sớm chiều bầu bạn. Còn Tống Huy Tôn (1108–1135), ông vua đam mê nhan sắc và hoa mai đến nỗi mất cả ngai vàng nhưng đã để lại cho đời bức danh hoạ két 5 màu đậu trên cành mai hiện là một báu vật ở viện mỹ thuật Boston. Hoa mai làm ông bất tử!
Người phụ nữ thường được sánh với hoa: mặt hoa, lệ hoa, giấc mơ hoa… cụ thể là những cành phù dung, đoá trà mi, bông hoa lài… Nhưng có lẽ ở phương diện so sánh sắc đẹp người và hoa, phái đẹp gắn với hoa hồng là sát hợp nhất. Hãy xem nụ hồng tinh khôi mơn mởn xinh xắn. Cái e ấp vẫn còn hồn nhiên lắm. Rồi rạo rực nhoài ra mãnh liệt bằng những mộng mơ, chợt ngạc nhiên trước chập chờn vài cánh bướm khi kín đáo thoảng nhẹ làn hương vào tuổi dậy thì. Hàm tiếu đây, nét môi thắm, má ửng hồng, nét tròn căng nguyên trinh thiếu nữ, hương dù còn kín vẫn mãnh liệt xiết bao! Bán mãn khai… rồi mãn khai: này đây hương này đây sắc, tôi đây, dữ dội và mãnh liệt buổi hồi xuân, loé sáng cuối cùng. Và kia, từng cánh hoa bắt đầu nhàu nhò, đổi sắc, tàn phai… Một đời hoa!
Chẳng biết có phải vì sợ sự liên tưởng tàn nhẫn ấy không mà xưa nay các nhà thơ ít tả hoa tàn. Hoa nở đẹp phơi phới bao nhiêu thì hoa tàn úa xấu xí và thật buồn bấy nhiêu. Bởi vậy, cảm xúc sẽ không hề suy giảm khi ngắm cảnh tàn hoa. Mỗi loài hoa có cách nở khác nhau thì cũng tàn, chết không giống nhau. Những cánh cúc vàng lả tả rơi trong gió xuân vẫn còn nguyên sắc – luyến tiếc gì chăng hoa? Mặc chu lan sầm mặt giận dữ còn đoá hồng hom hem đau đớn quặn lòng! Duy chỉ có quỳnh hoa không tàn mà chết trên cành xanh. Hoa xuôi tay gục xuống, ngút lên nỗi đau rất thật trong ta.
Tào Tuyết Cần đưa một chi tiết thật đắt vào Hồng Lâu Mộng: nàng Lâm Đại Ngọc gom nhặt rồi khóc chôn những cánh hoa tàn! Trên đời này, đã mấy người thực sự khóc hoa? Và Tố Như, chúng tôi hiểu ông, nước mắt đã nhiều, xót thương đã lắm nên mới “tìm thấy” cảnh hoa tàn mà lại thêm tươi. Vâng, chỉ có trái tim cực kỳ nhân hậu mới toả thành ánh nhìn hiếm hoi ấy!
Ai đã từng trồng hoa hẳn biết rằng công lao chăm sóc, tưới bón một ngày nào đó cây sẽ đền ơn. Vậy mà hầu hết cứ sững sờ, lòng bật lên tiếng reo vui lúc phát hiện chồi hoa đang nhú ra. Ngạc nhiên đến ngây ngô trước hương trước sắc, rằng: nó từ đâu đến, giữa lá cành, gốc rễ với chậu đất ẩm đen sì? Cây mai thường làm nhiều người mất ăn mất ngủ. Chăm chút cả năm trời, những ngày tháng chạp quyết định sự thành bại. Gặp thời tiết diễn biến thất thường, người mỏi mắt thắt lòng chờ mãi nụ chưa trồi ra khỏi áo, kẻ đếm hoài số ngày còn lại khi mới rằm, hoa đã rực cây. Đâu chỉ người kinh doanh, ai có một chậu mai mà hoa vào tết không đạt, chẳng buồn? Loay hoay “chữa chạy”, thắc thỏm trông mong, sáng sớm đầu năm, vài bông rưng rưng hé nở là phút giây hạnh phúc vô cùng! Rất nhiều lần, vì hoa, tôi chứng kiến tiếng reo vui trẻ thơ và nỗi buồn chết lặng của những người bạn. Hoa gần gũi, thân thiết với con người xiết bao! Chẳng thế mà Abutalip, nhà thơ nhân dân của Đaghextan nói rằng người đàn ông chỉ quỳ xuống trong hai trường hợp: uống nước suối nguồn và với hoa !
Thuở nhỏ chăn bò, nhiều lần nằm trên vạt cỏ chiều, tôi thử nhá ngọn cỏ mềm mà chẳng hiểu vì sao bò ăn ngon vậy, mê mẩn ngắm hoa rau đắng trắng li ti, dí cái mũi khổng lồ như thằng tồ bên những ngôi sao bé xíu. Lớn lên một chút, có lần giữa trưa hè, đứng bên bờ đầm, cầm lòng không đậu, tôi lội ra ngắt trộm một búp sen hồng, áp môi mình lên lớp cánh mềm ấm nắng, lòng ngất ngây mơ mộng …
Giờ ngồi viết những dòng này giữa một vườn hoa: tố tâm lan, từ bi, hồng, sứ… lòng chợt dâng lên một ước muốn chân thành rằng: Tặng hoa là hành vi thật đẹp con người đã nghĩ ra… Và mọi người sẽ còn tặng hoa nhau mãi mãi, mỗi người ít nhất trong đời tìm thấy một lần cảm xúc:
Người về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cám ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ nỗi lẻ loi (Tô Thùy Yên)
Lê Hoài Lương
|
|
|
Post by Oshin on May 8, 2004 5:29:54 GMT -5
LỤC BÌNH - CÂY BÈO NHẬT BẢN (BÈO TÂY) Ai hát chi điệu lý qua cầu Cho lắt lẻo trái tim tôi nồng cháy Con nước chảy cuộn mình con nước chảy Nhớ thương em tôi tím nở nhánh lục bình... Lục bình, lục bình ơ...(Hồ Tĩnh Tâm) Lại sắp mùa bông lục bình nở tímTím lục bình là tím tim, tím xốn xang xao xuyến, tím tới chạnh lòng, tím tới muốn khóc lên nỗi buồn vô cớ.Nhớ quá, câu thơ của Lê Anh Xuân viết thuở nào : Nước ròng Gặp em đi xúc cá Tưởng lại về nấu canh chuaTuổi thơ của tôi, tôi vẫn thường đi xúc cá với bạn bè. Lội theo kênh rạch xúc cá lúc nước ròng, mỗi đứa cái rổ cầm tay, kéo lê theo bên người chậu thau nhôm móp méo. Túm lấy một túm lục bình kéo lên, rồi giũ giũ vô cái rổ tre. Những con cá bống nhỏ như đầu đũa rớt xuống lả tả, đen xám màu vui mắt. Những con tép mòng nhảy xoi xói nghe vui tai. Xúc được chừng tộ cá, cả bọn hè nhau lội bẻ bông lục bình. Trên đường về xóm, chiếc rổ nào cũng tím biếc lên màu tím bữa cơm quê dân dã. Cơm trắng, cá bống kho, bông lục bình chấm mắm. Tuổi thơ tôi trôi trong bình dị của lục bình tím tim, tím biếc. Lớn lên, theo những nhịp cầu tre tôi đi miết vào đời. Bông lục bình đeo đuổi cùng tôi. Nổi trôi, nổi trôi những giề lục bình trôi theo con nước. Bạn bè tôi từng trầm mình dưới lục bình "thả mài ốc" công đồn đánh giặc. Lục bình thành đồng đội thân thương, những mảng lục bình dày che đầu cho bộ đội qua sông những năm Mĩ càn quét, tàu nó đậu chật sông, soi đèn suốt đêm. Một thoáng nhớ nhà giữa chừng hai trận đánh, dõi theo lục bình miên man trên con nước, câu ca dao dội về rưng rưng nhóm lửa. Nước chảy liu riu lục bình trôi líu ríu Anh thấy em nhỏ xíu anh thương.Giờ lại sắp mùa lục bình tím nở. Hội hoa này ai sẽ cắm bông lục bình làm nao lòng viễn khách. Ai xa xứ nhớ về nguồn cội, có thương chăng mực lục bình nhuộm tím những dòng kênh, nhuộm tím những tâm hồn, sao mà nao niết vậy ! Lục bình, lục bình ơ...Một loài hoa vừa đi vừa nở. Xứ sở mình thương lắm, lục bình ơi !...
|
|
|
Post by Oshin on May 8, 2004 5:31:06 GMT -5
Mắt của lục bình Ngày còn bé có một lần tôi dỗi và khóc, ông nội hái cho tôi một nắm lục bình cầm đầy tay rồi hai ông cháu đi loanh quanh khắp làng. Để rồi một buổi chiều 16 năm sau, giữa nơi ồn ào chật chội này, tuổi thơ quay lại khi bắt gặp đóa lục bình tím… Mỗi một bông lục bình có một cánh chính. Ở giữa cái cánh ấy là một chấm vàng, tròn, rồi đến viền màu tím sậm, lớp ngoài cùng mới là tím nhạt. Nhìn thật gần, thật kỹ, mỗi cánh hoa lục bình giống như một con mắt. Nếu chỉ dửng dưng lướt qua lục bình như lướt qua một đoá hoa dại thì không cảm thấy gì cả giống như khi thời gian trôi làm mình dửng dưng với những ánh mắt tưởng như đã cũ kỹ lắm rồi. Nhưng nếu nghĩ rằng lục bình là mắt, và ngắm lục bình là nhìn sâu vào mắt thì sẽ thấy nhiều, như mỗi lần nghĩ về ánh mắt của ông nội 16 năm về trước. Tôi biết trong mình có thứ tình yêu nồng nàn với âm nhạc là từ ánh mắt của lục bình ấy. Ông nội tôi biết chơi nhị. Tôi cũng không biết mình được nghe ông chơi nhị nhiều đến mức nào - tội của cái trí nhớ trẻ con đáng giận - chỉ mơ hồ rằng khi nào tôi chạm được vào góc trầm và u uẩn nhất của một bản nhạc, thì đó là nhờ những tiếng đàn nhị tôi đã nghe thời thơ ấu. Ngày ông đi xa tôi không có mặt, chỉ có tiếng nhị tiễn ông, tiếng của một người bạn đã theo ông trong cuộc đời đưa chân ông. Tôi về đến nơi tiếng nhị đã im hẳn, và từ ấy tiếng nhị của lục bình không còn vang lên nữa, không bao giờ còn vang lên nữa… Chỉ còn ký ức về nó đeo đẳng trí nhớ như một nỗi ám ảnh mờ ảo. Thi thoảng trên đường đi tôi bắt gặp những cánh lục bình tím. Gió không ngừng lặng trên mặt ao như sợi dây cứa vào những đoá lục bình run rẩy, phảng phất đâu đó tiếng nhị… Cái hồn của âm thanh ấy, chỉ có thể tìm thấy ở thật sâu trong mắt lục bình… chiaki_ruanhoc
|
|
|
Post by Oshin on May 8, 2004 8:37:59 GMT -5
Hoa Bồ Công AnhLời tiên triSẽ không thể nào quên Sau một lần được thấy Những nụ hôn vàng cháy Của hoa Bồ Công Anh Trên má cánh đồng xanh Ngất ngây và bát ngát Henry Ward Beeche Loài hoa dại nhỏ bé quen thuộc này không chỉ cực kì hữu dụng trong nhiều món ăn mà còn đối với mục đích y học. Huyền thoại kể rằng nó có khả năng bí ẩn làm cho những đôi mắt của bạn trẻ đang yêu sẽ sáng hơn hay mờ đi với những giọt nước mắt báo trước. Bồ Công Anh cùng những cánh hoa vàng thường được chọn để tiên đoán xem "Anh ấy yêu mình" hay "Anh ấy không yêu mình" trong trò chơi đếm cánh hoa tiên đoán tình yêu. Tuy nhiên, Bồ Công Anh không chỉ được xem là lời sấm truyền đối với những vấn đề của trái tim. Vì hoa nở và tàn vào những giờ giấc nhất định nên từ xưa nó đã được những người chăn cừu cô đơn xem như chiếc đồng hồ thiên nhiên. Tên tiếng Anh của bồ công anh dường như có nguồn gốc từ Pháp. Vì lá của loài hoa này có khía sâu nên người ta liên tưởng đến hàm răng của sư tử, cho nên nó được gọi là dent de lion hay răng sư tử. (Trích Ngôn Ngữ của Loài Hoa)Đã vào tháng năm, mùa hái hoa Lũ trẻ tung tăng và nghịch ngợm Dọc hai bên đường hoa nở sớm Mặc cho bụi cát lá vàng rơi Là vật làm tin khắp mọi nơi Hoa nở vàng ươm xao xuyến cỏ Như những kỳ tình trong chuyện cổ Cướp biển được vàng chia muôn dân James Russell Lowell
|
|
|
Post by Robot on Jul 27, 2004 10:50:54 GMT -5
Tuyết tan giữa mùa hè www.tatunet.ddo.jp/uhip/fuki-a.jpg[/img]TTCN - Bây giờ ở VN đang vào hè. Còn ở Nhật Bản tuyết đang tan. Khi trời đã ấm dần lên, người Nhật lại kéo nhau vào rừng bày tiệc saké ngay dưới bóng cây anh đào để “khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”. Cũng vào thời khắc này, ngược lên vùng Hokkaido đầy băng giá ở mạn bắc, từ trong lòng tuyết một loài hoa dại mọc trồi lên bằng tất cả sức mạnh của mình với nỗi háo hức muốn mang đến cho người dân xứ tuyết một sứ điệp thiêng liêng: mặt trời đã thức giấc! Fuki - tên loài hoa dại - trồi lên ở nơi nào, tuyết ở nơi đó sẽ tan sớm. Ở xứ tuyết không có cảnh uống rượu saké để thưởng hoa fuki. Chỉ là một loài hoa dại, sinh trưởng khỏe, trông có vẻ tầm thường nhưng loài hoa màu vàng nở ra từ trong lòng tuyết này lại được người dân vùng Hokkaido yêu quí như người Việt yêu quí hoa sen. Theo câu chuyện cổ tích của tộc người Ainu ở vùng Hokkaido xưa kia, ở đâu đó trong rừng cây fuki luôn có những vị bụt tí hon sẵn lòng giúp đỡ người nghèo. Bụt sẽ mang hơi ấm đến những gia đình không có lò sưởi, đem lương thực đến cho những người thiếu đói và mang niềm vui đến với trẻ em. Lá của cây fuki có thể hái về nấu canh, còn hạt của nó thì rất được trẻ em ưa thích. Trẻ em xứ tuyết cũng ưa chơi trò trốn tìm trong rừng fuki. Chúng sẽ nấp dưới bóng những “cây dù” là tán cây fuki xòe ra. Sự thân thuộc của nó đã khiến người dân xứ tuyết từ lâu tin rằng hoa fuki là hiện thân của bụt, hiện thân của hạnh phúc cuộc đời. Với niềm tin vào một thực tại có hậu trong câu chuyện cổ tích, một người phụ nữ Hokkaido đã quyết định mang fuki sang VN. Fuki của chị không phải là hoa mà là một bé gái năm tuổi mang tên loài hoa xứ tuyết ấy. Gạt nước mắt sau cuộc hôn nhân tan vỡ, chị gượng đứng dậy như cách mà loài hoa fuki đã mọc trồi lên từ trong lòng tuyết. Chị đã cùng bông hoa fuki của mình bắt đầu một cuộc phiêu lưu đến VN, nơi mình đã từng đến cách đây mười năm để sưu tầm tài liệu thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài về ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương. Ở Nhật, chị chưa từng nghĩ đến công việc viết báo, dù cha và chồng cũ của chị là những nhà báo. Thế nhưng công việc khó khăn đó, và cả việc dạy tiếng Nhật, phiên dịch, biên dịch chị đã phải làm để có thu nhập nuôi con ăn học tại VN. Gần một năm trước, tôi đến nhờ chị dịch một bài viết để sử dụng trên một tạp chí xuất bản bằng Nhật ngữ. Sau đó, chúng tôi nhanh chóng trở thành những cộng sự tốt. Còn bây giờ chúng tôi đã là bạn. Vào những ngày của mùa Noel năm ngoái, trong khi mọi người Nhật khác đang vui Giáng sinh và chuẩn bị đón mừng năm mới, chị vẫn tất bật với những công việc thường ngày của mình. Chị còn phải dịch bài nhiều hơn để có thể có thêm tiền chữa bệnh cho con. Đó là khoảng thời gian bé Fuki nằm trong bệnh viện Nhi đồng vì bị viêm phổi. Sổ mũi, biếng ăn, sốt, rồi viêm phổi đã làm cho bé Fuki kiệt sức. Chị kể rằng bé nằm trên giường bệnh, mắt thiêm thiếp, thỉnh thoảng nhìn ra cửa sổ, dường như đang đếm lá trên cây dây leo trường xuân rơi cho đến chiếc cuối cùng ở một góc sân của bệnh viện. Sáu giờ chiều hôm đó, đang dán mắt vào màn hình vi tính ở trong phòng biên tập, tôi chợt nghe có tiếng gõ cửa, tiếng gõ cách quãng và nghe rất yếu ớt. Sau đó, hiện ra bên cánh cửa là thân hình tiều tụy của người thiếu phụ Hokkaido. Đôi mắt chị trũng sâu dán trên khuôn mặt héo hắt, thần sắc mất hẳn vẻ linh động khiến tôi không nghĩ đó là một phụ nữ 30 tuổi. Với giọng khàn đục như giọng của đàn ông nghiện thuốc lá nặng, chị hắt ra những lời nặng nhọc: “Tôi đến để đưa cho anh những bài đã dịch”. Rồi lẳng lặng quay đi. Cũng từ chị mà sau này tôi mới biết đến nguyên tắc sống trở thành một đức tính của người Nhật: “công việc trên hết”. Một người Nhật khác đang làm việc cùng chúng tôi đã phải cố gắng hết sức mình để hoàn thành công việc được giao trong lúc người mẹ vừa mới qua đời tại Nhật. Khi tôi đến bệnh viện để thăm bé Fuki thì được cô y tá cho hay hai mẹ con vừa ra viện cách đó chỉ chừng một tiếng. Câu chuyện của hai mẹ con bé Fuki đã đẩy tôi lạc vào một cuộc viễn du tưởng tượng đến miền đất của một loài hoa kỳ diệu để tôi biết rằng xứ tuyết không chỉ có hoa anh đào. Khi Fuki rời khỏi xứ tuyết để đến một vùng đất nóng, thế giới trong mắt bé dường như bị phá vỡ thành nhiều mảnh: chia ly, cõi lạ, nỗi buồn. Fuki rất thích vẽ, và cô nhỏ đã vẽ để làm lành những vết rạn đó. Cô bé toàn vẽ chân dung những người mình gặp bất chợt mà với bé, dường như chỉ những hình người đó mới có thể hiểu được tâm trạng của một cô bé không có bạn đồng ngôn ngữ. Nhưng niềm tin vào thực tại có hậu như trong câu chuyện cổ tích về loài hoa fuki và ước vọng về một vị bụt hiện tiền đã giúp cho hai mẹ con bé Fuki có đủ nghị lực và sức mạnh để sống tại một vùng không có tuyết... TRẦN VĂN THƯỞNG
|
|