|
Ung thư
Apr 21, 2004 14:34:09 GMT -5
Post by Oshin on Apr 21, 2004 14:34:09 GMT -5
Phối hợp thức ăn để chống ung thư
Theo kết quả nghiên cứu khoa học mới đây, nếu biết phối hợp một số loại thức ăn có tác dụng chống ung thư sẽ tăng tác dụng lên nhiều lần so với khi ăn riêng rẽ. Thức ăn có chứa selen khi phối hợp với thức ăn có chứa sulforaphane tác dụng chống ung thư tăng mười ba lần so với ăn riêng rẽ.
Các loại thức ăn có chứa selen: Ngũ cốc nguyên hạt (chưa xát cám); đậu (quả và hạt); các loại quả hạt (lạc nhân, đào, mơ, mận), táo, hạt hướng dương, củ cải, nấm ăn các loại; các loại thủy sản (cá, tôm, ốc, tép v.v...); thịt, trứng, gan (thịt trắng như gà vịt nhiều selen hơn thịt đỏ ).
Các loại thức ăn có chứa sulforaphane: Cải bắp, xúp lơ xanh, cải xoong v.v... Dưa cải bắp là thức ăn tốt vì có chứa sulforaphane và acidlactic.
Có nhiều cách phối hợp, như: Nấu chung với nhau trong một món ăn. Trong một bữa có nhiều món chứa selen và sulforaphane được ăn vào. Thức ăn có sulforaphane, món tráng miệng có selen (táo, mận, đào ).
Cùng lượng thức ăn và chi phí như nhau, do biết kết hợp giữa thực phẩm giàu selen và thực phẩm giàu sulforaphane mà tác dụng phòng, chống ung thư tăng gấp hàng chục lần. Việc đó có thực hiện được không? Đó là điều mà cả gia đình đều trông vào người nội trợ.
DS TRẦN XUÂN THUYẾT (ĐĐKCT)
|
|
|
Ung thư
Apr 23, 2004 12:23:48 GMT -5
Post by Robot on Apr 23, 2004 12:23:48 GMT -5
Aspirin có thể gây ung thư tụy tạng
Một nghiên cứu mới đây của Trường Y khoa Harvard và Bệnh viện Phụ sản Brigham, tại Boston, bang Massachusetts (Mỹ ) cho thấy có sự liên quan giữa việc dùng thuốc aspirin và nguy cơ mắc bệnh ung thư tụy tạng. Tụy tạng là một cơ quan nằm gần dạ dày có nhiệm vụ tiết ra dịch làm tiêu hóa thức ăn.
Bác sĩ Eva Schernhammer, người dẫn đầu nhóm nghiên cứu, cho rằng điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ dùng aspirin nữa, bà ta nói aspirin vẫn còn có tác dụng quan trọng, nhiều người sẽ phải dùng nó để ngăn ngừa bệnh tim và đột quỵ.
Cuộc nghiên cứu này được thực hiện trên hơn 88.000 người và kéo dài trong 18 năm. Kết quả cho thấy rằng những người dùng từ 14 viên aspirin trở lên trong một tuần có nguy cơ mắc bệnh ung thư tụy tạng cao hơn 86% so với những người không bao giờ dùng aspirin; những người dùng từ 6 đến 13 viên aspirin một tuần có nguy cơ mắc bệnh ung thư tụy tạng cao hơn 41% và những người dùng từ 1 đến 3 viên aspirin một tuần có nguy cơ mắc bệnh ung thư tụy tạng cao hơn 11% so với những người không bao giờ dùng aspirin.
Các nhà nghiên cứu thuộc Trường Đại học Y khoa Pasteur, Paris (Pháp) đã tiến hành nghiên cứu đối với những người mắc bệnh tim hoặc có những vấn đề nghiêm trọng khác liên quan đến tim. Tất cả họ được cho dùng aspirin mỗi ngày và kéo dài ít nhất trong 3 tháng để kiểm soát bệnh tim. Kết quả cho thấy aspirin có thể làm giảm nguy cơ tạo ra các cục máu đông cản trở việc cung cấp máu đến tim. Theo các nhà nghiên cứu, nếu những người bị bệnh tim ngừng sử dụng aspirin sẽ có thể gặp nguy hiểm.
Các nhà nghiên cứu của Pháp cũng đã tiến hành nghiên cứu trên 1.200 bệnh nhân và ghi nhận rằng 51 người dùng aspirin trong số đó có tình trạng sức khỏe được cải thiện hơn so với những người không dùng aspirin sau một tuần.
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hằng năm trên thế giới có khoảng 17 triệu người chết vì bệnh tim và có khoảng 216.000 người chết vì bệnh ung thư, trong đó chết vì ung thư tụy tạng chiếm tỉ lệ khá cao.
Như vậy có thể nói rằng thuốc aspirin có tác dụng tốt đối với những người bị mắc các bệnh liên quan đến tim, mạch nhưng cũng có khả năng gây ra ung thư tụy tạng. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng nói thêm rằng cần có sự nghiên cứu sâu hơn nữa để xác định rõ vấn đề này.
HOÀI NAM (Theo Health Report)
|
|
|
Ung thư
May 11, 2004 4:29:36 GMT -5
Post by Robot on May 11, 2004 4:29:36 GMT -5
Ăn rau cải có thể chống ung thư
Những rau thuộc họ cải: Cây mù tạc, bông cải xanh, cải bắp, Horseradish, súp lơ, búp cải, củ cải Thụy Điển, xúp cải và Wassabi... Ăn búp cải có thể bảo vệ cơ thể chống lại ung thư TTO - Các nhà khoa học vừa tìm ra những bằng chứng cho thấy những rau như cải bắp và cải búp có thể chống lại ung thư ruột kết. Và chỉ cần ăn 2-3 bữa rau mỗi tuần là bạn có thể bảo vệ mình trước bệnh ung thư ruột kết.
"Đây hoàn toàn không phải là một phương thuốc kỳ diệu, hợp chất AITC có trong rau cải có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư", Giáo sư Ian Johnson, phụ trách nghiên cứu cho biết.
AITC là sản phẩm của quá trình phá vỡ hợp chất sinigrin trong các loại rau họ cải, nó xuất hiện băm nhuyễn, nhai, nấu chín, chế biến và tiêu hóa rau cải. Ngoài khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư ruột kết, AITC còn có thể ngăn chặn sự phát triển của các khối u, các chuyên gia cho biết.
Kết quả nghiên cứu được tuyên bố đúng vào thời điểm Quỹ Ung thư Thế giới (WCRF) thông báo kế hoạch triển khai một nghiên cứu quy mô nhất từ trước tới nay về chế độ dinh dưỡng và căn bệnh ung thư. Trong đó, các nhà khoa học trên thế giới sẽ tiến hành hơn 10.000 công trình liên quan, để xây dựng một hướng dẫn cụ thể và tin cậy nhất về một thực đơn có thể bảo vệ chúng ta trước bệnh ung thư (dự kiến sẽ được công bố vào năm 2006).
Trong đó, ĐH Leeds và Bristol (Anh) sẽ chịu trách nhiệm đối chiếu thông tin về các loại ung thư tuyến tuỵ, dạ dày, bàng quang, tuyến tiền liệt và thận; ĐH bang Pennsylvania, Mỹ sẽ tìm hiểu về ung thư miệng và cổ; ĐH Johns Hopkins ung thư phổi và họng trên; các chuyên gia ở trường Kaiser Permanente đảm nhận về ung thư tử cung; các nhà khoa học Hà Lan đối chứng với ung thư ruột kết, trực tràng, gan và túi mật; Viện nghiên cứu Ung thư Italy sẽ tìm hiểu ung thư vú, buồng trứng và cổ tử cung.
"Công trình nghiên cứu tổng hợp này sẽ làm sáng tỏ những quan niệm sai lầm từ trước đến nay về ung thư vì nhiều người tin rằng ung thư là do "vận rủi", hoặc do gene", Giáo sư Martin Wiseman, giám đốc dự án và cố vấn khoa học - y tế của WCRF, cho biết.
T.L (Theo BBC News)
|
|
|
Ung thư
May 13, 2004 12:51:06 GMT -5
Post by Oshin on May 13, 2004 12:51:06 GMT -5
Dầu mỡ dùng lại: Tiết kiệm nhưng hại cho sức khỏe Do tiết kiệm, một số người nội trợ có thói quen sử dụng dầu mỡ để rán, xào lại. Ðặc biệt các nhà hàng thường dùng dầu rán lại để thức rán nhanh có màu vàng, hoặc thường cho dầu mỡ trong chảo cháy có khói lên rồi mới cho thực phẩm vào cho thêm mùi hấp dẫn. Cách làm như vậy rất có hại cho sức khỏe của người dùng đồ ăn.
Trong dầu rán có các chất dinh dưỡng như vitamin A, vitamin E, nhưng ở nhiệt độ quá cao, các chất dinh dưỡng đó bị phá hủy đi rất nhiều. Dầu rán để nhiệt độ cao quá 180oC thì sẽ xảy ra các phản ứng hóa học, từ đó sản sinh ra một số chất có hại đối với cơ thể như các chất aldehyde, fatty acid oxide... Ðặc biệt dầu rán sử dụng quay vòng nhiều lần thì các chất có hại nói trên phát sinh ra càng nhiều. Những chất này có thể bốc hơi ra làm ô nhiễm không khí xung quanh, nếu chúng ta hít phải cũng gây nguy hại, còn chưa kể đến những chất còn ở lại trong thực phẩm xào, rán khi ta ăn vào sẽ gây nên những hậu quả không có lợi cho sức khỏe, như phá hoại hệ thống các men tiêu hóa trong cơ thể, làm sinh ra các triệu chứng nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy, khó thở, nhịp tim chậm, huyết áp tăng cao, tay chân bải hoải, rã rời... Nếu cứ thường xuyên ăn dài ngày các loại thức ăn rán, xào bằng dầu cháy như vậy hoặc dầu rán lần này còn để lại rán tiếp lần sau nữa sẽ dễ dẫn tới ung thư.
Ðể ngăn chặn, loại trừ nguy hại của dầu mỡ rán ở nhiệt độ cao cần chú ý:
- Khi nấu nướng phải khống chế nhiệt độ dầu, không để cho sôi vượt quá 1.500oC, tức là không nên để bốc thành lửa khói trong chảo.
- Dầu rán (kể cả mỡ lợn) cũng không nên sử dụng lại quá 2 lần. Nếu lần trước còn quá nhiều dầu, bỏ đi tiếc thì lần sau khi rán cần phải cho thêm dầu mới vào, vì dầu mới có chứa chất chống ôxy hóa sẽ giúp khử bớt chất độc.
- Nên hạn chế ăn các thức ăn rán, xào.
(Theo SK&ĐS)
|
|
|
Ung thư
May 18, 2004 15:58:59 GMT -5
Post by Oshin on May 18, 2004 15:58:59 GMT -5
Thức uống có ga làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản
TTO - Các loại nước uống có ga, có chứa carbonat như soda có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản, các nhà nghiên cứu cho biết. Ngoài ra, những người uống nhiều thức uống có cafein thì gan sẽ bị tổn thương.
Các nhà khoa học ở Bệnh viện Tata Memorial, Ấn Độ vừa tìm ra bằng chứng về mối đe dọa từ nước uống có ga đối với căn bệnh ung thư thực quản. Các chuyên gia nhận thấy, trong 50 năm qua, sức tiêu thụ các loại nước có ga chứa carbonat gia tăng đã kéo theo tỷ lệ mắc bệnh ung thư thực quản ở Mỹ.
Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp Mỹ, sức tiêu thụ nước giải khát có ga từ năm 1945 đến 2000 đã tăng trên 450 % (từ 40,9 lít đến 186 lít/người). Và hậu quả là trong vòng 25 năm trở lại đây, tỷ lệ mắc ung thư thực quản ở Mỹ đã tăng tới 570 %. Những quốc gia có mức tiêu thụ loại nước giải khát ưa chuộng trên cao hơn 75,7 lít/người, số bệnh nhân ung thư thực quản rất lớn.
Nguyên nhân làm cho các loại nước uống có ga, có chứa carbonat làm tăng nguy cơ bị ung thư thực quản là do nước có ga thường làm căng dạ dày, gây ra hiện tượng trào ngược và trực tiếp dẫn đến ung thư thực quản, tiến sĩ Mohandas Mallath, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.
Chỉ trong năm 2003, ở Mỹ, khoảng 13.900 người bị ung thư thực quản và hơn 10.000 người chết, Hiệp hội nghiên cứu Ung thư Mỹ cho biết.
Ngoài ra, một nghiên cứu khác cũng cho thấy hậu quả của việc uống càfê và những thức uống có chức cafein khác. Một nhóm các chuyên gia ở Viện nghiên cứu quốc gia về tiểu đường, các bệnh về tiêu hóa và thận cho thấy những người uống nhiều thức uống có cafein thì gan sẽ không bình thường. Các chuyên gia rất ngạc nhhiên khi phát hiện 5.944 người trưởng thành có nguy cơ bị tổn thương gan cao quá tải chất sắt và béo phì do uống các thức uống có cafein."Cafein ảnh hưởng đến các chức năng bình thường của gan", tiến sĩ James Everhart, một trong những tác giả nghiên cứu cho biết.
T.LÊ (Theo Reuters Health)
|
|
|
Ung thư
May 21, 2004 16:09:41 GMT -5
Post by Robot on May 21, 2004 16:09:41 GMT -5
Chế độ ăn giúp giảm nguy cơ ung thư Chất lycopen trong cà chua giúp giảm nguy cơ ung thư. Loại trái cây chua như cam, quýt, chanh, nho... có khả năng trung hòa các chất gây ung thư. Một công trình nghiên cứu tại Thụy Điển cho thấy, nguy cơ ung thư tụy ở những người ăn các trái cây chua hằng ngày thấp hơn 30-50% so với người bình thường. Qua nhiều năm theo dõi bệnh nhân ung thư các loại, Viện ung thư quốc gia Mỹ nhận thấy, khoảng 1/3 loại có liên quan tới chế độ ăn uống của người bệnh. Vì vậy, với một chế độ ăn uống hợp lý, bạn có thể làm giảm nguy cơ hoặc làm chậm sự phát triển của ung thư. Phần lớn các loại rau quả có chất chống ôxy hóa, giúp tiêu diệt gốc ôxy tự do trong tế bào - một trong các yếu tố dẫn đến ung thư. Những người ăn chay, gồm rau quả là chính, ít mắc ung thư hơn những người ăn ít rau quả. Một trong những chất chống ôxy hóa điển hình là beta-caroten, có nhiều trong cà rốt, củ cải đỏ, khoai lang, rau dền, dưa hấu... Theo kết quả thực nghiệm ở Viện đại học Haward (Mỹ ), beta-caroten của rau quả trực tiếp tiêu diệt tế bào ung thư. Sắc tố lycopen trong cà chua, dưa hấu cũng là chất chống ôxy hóa. Tỏi, hành, ớt cay cũng chứa nhiều chất chống ung thư. Đặc biệt, chất ajoen, sulfur trong tỏi kích thích hoạt động của đại thực bào và tế bào lymphô T - 2 yếu tố của hệ miễn dịch, giúp phá hủy các tế bào ung thư. Các loại đậu, nhất là đậu nành, có ít nhất 5 loại hóa chất ngăn chặn được sự phát triển tế bào ung thư, đặc biệt là ung thư vú, nhờ có chất tương tự oestrogen. Trên cơ sở các nghiên cứu, Hội chống ung thư Mỹ có những lời khuyên dưới đây để giúp bạn giảm thiểu nguy cơ ung thư: - Ăn nhiều rau và quả tươi: Chú ý rau quả ăn hằng ngày phải tươi và càng đậm màu càng tốt (màu xanh của rau, màu đỏ của cà chua, cà rốt, bí đỏ, ớt cay...). Ăn rau quả tươi hoặc luộc sơ qua, không nên xào rán. Rau đậu luộc, hấp chín sẽ bị giảm đáng kể vitamin và các chất cần thiết. - Ăn cơm, mì, bánh mì, các loại ngũ cốc khác: Cơm nên nấu từ loại gạo chưa xay giã sạch cám, gọi là gạo lứt. Bánh mỳ làm từ hạt lúa mỳ chưa rây, bánh mỳ đen càng tốt. - Giảm hẳn chất béo: Ăn thịt, cá nạc là chính. Giảm hẳn việc ăn mỡ động vật hoặc xào rán thức ăn bằng mỡ động vật, nên thay bằng dầu thực vật, nhưng cũng hạn chế càng ít càng tốt. - Dùng ít thức ăn ướp mặn: Các thức ăn được giữ lâu bằng cách xông khói, ướp muối, ngâm dấm đều không tốt cho cơ thể, cả với tế bào và hệ tuần hoàn. - Bớt uống rượu: Đồ uống hằng ngày tốt nhất là nước đun sôi để nguội. - Kiểm soát cân nặng của bản thân: Ăn uống điều độ; tránh ăn quá mức hay lạm dụng tiệc tùng. Bớt ăn thực phẩm béo, nhiều đường, hạn chế các loại nước ngọt, xiro, kẹo, bánh kem... Vài ba tháng một lần tự kiểm tra cân nặng để biết điều chỉnh chế độ ăn và tập luyện thân thể. BS Phạm Ngọc, Sức Khoẻ & Đời Sống
|
|
|
Ung thư
May 23, 2004 13:12:13 GMT -5
Post by Oshin on May 23, 2004 13:12:13 GMT -5
Ung thư là gì:
Ung thư là một nhóm của nhiều loại bệnh có liên quan bắt đầu từ những tế bào - đơn vị cơ bản của cơ thể sống. Để hiểu về bệnh ung thư thì việc xem xét điều gì xảy ra khi các tế bào bình thường trở thành tế bào ung thư là rất bổ ích.
Cơ thể chúng ta được cấu tạo từ nhiều loại tế bào. Thông thường tế bào sinh trưởng và phân chia để tạo ra nhiều tế bào hơn chỉ khi cơ thể cần chúng. Quá trình diễn ra một cách tuần tự này giúp cơ thể khoẻ mạnh. Tuy nhiên , thỉnh thoảng tế bào cứ tiếp tục phân chia khi cơ thể không cần những tế bào mới. Những tế bào mọc thêm này hình thành một khối mô, được gọi là khối u.
Các khối u có thể lành tính hay ác tính.
Khối u lành tính không phải là ung thư. Chúng thường được loại bỏ và trong hầu hết các trường hợp không mọc lại. Tế bào ở những khối u lành không lan sang các phần khác của cơ thể. Quan trọng nhất là các khối u lành tính hiếm khi là mối nguy hại đối với cuộc sống.
Khối u ác tính là ung thư. Tế bào trong những khối u này không bình thường và phân chia không kiểm soát được và không theo trình tự. Chúng có thể xâm lấn và gây tổn thương các mô và cơ quan lân cận. Hơn nữa những tế bào này có thể tách khỏi u ác tính và đi vào mạch máu hay hệ bạch huyết. Đó là cách thức ung thư lan từ vị trí ban đầu để hình thành nên những khối u mới ở các cơ quan khác. Sự lan rộng của bệnh ung thư được gọi là di căn.
Bệnh leucemia và u lympho là những loại ung thư xuất hiện từ các tế bào tạo máu. Những tế bào bất thường lưu thông trong mạch máu và hệ thống bạch huyết. Chúng có thể xâm lấn (thâm nhiễm) vào các cơ quan của cơ thể và tạo nên các khối u.
Hầu hết các loại ung thư được gọi tên theo cơ quan hay loại tế bào mà chúng được hình thành. Ví dụ như, ung thư hình thành ở phổi được gọi là ung thư phổi, và ung thư hình thành từ các tế bào hắc tố da melanocytes gọi là u hắc tố melanom.
Khi bệnh ung thư lan đi (di căn), các tế bào ung thư thường được tìm thấy ở những hạch bạch huyết lân cận hay trong vùng (đôi khi còn được gọi là các tuyến bạch huyết). Nếu ung thư đã lan tới những hạch này thì điều này có nghĩa là tế bào ung thư có thể lan sang các cơ quan khác như gan, xương hoặc não. Khi ung thư lan từ vị trí ban đầu sang một bộ phận khác của cơ thể, khối u mới có cùng loại tế bào bất thường và có cùng tên với khối u ban đầu. Ví dụ, nếu ung thư phổi lan vào não, tế bào ung thư ở não thực tế cũng là tế bào ung thư ở phổi và bệnh này được gọi là ung thư phổi di căn (chứ không phải là ung thư não).
Những nguyên nhân có thể gây ung thư và phòng ngừa
Càng hiểu nhiều về những nguyên nhân gây ung thư bao nhiêu thì chúng ta lại càng có nhiều khả năng tìm ra cách thức để phòng ngừa căn bệnh này bấy nhiêu. Trong phòng thí nghiệm, các nhà khoa học tìm hiểu những nguyên nhân có thể gây ra bệnh ung thư và cố gắng xác định chính xác điều gì xảy ra trong các tế bào khi chúng trở thành tế bào ung thư. Các nhà nghiên cứu còn tìm hiểu các kiểu ung thư trong cộng đồng để tìm kiếm những yếu tố nguy cơ, tức là những điều kiện làm tăng nguy cơ xảy ra bệnh ung thư. Họ còn tìm kiếm những yếu tố bảo vệ, tức những yếu tố làm giảm nguy cơ mắc bệnh.
Mặc dù các bác sĩ đôi khi khó có thể giải thích được tại sao người này bị ung thư mà người khác không mắc, rõ ràng là ung thư không phải do chấn thương như vết sưng hay vết bầm gây ra. Tuy việc nhiễm một số loại virút có thể tăng nguy cơ mắc một vài loại ung thư thì ung thư cũng không phải là một căn bệnh lây nhiễm; không ai có thể lây ung thư từ một người khác.
Ung thư phát triển dần dần theo thời gian. Nó là kết quả của một hỗn hợp phức tạp các yếu tố liên quan tới lối sống, yếu tố di truyền và môi trường. Một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư đă được xác định. Nhiều loại ung thư có liên quan tới việc hút thuốc lá, thực phẩm và đồ uống được sử dụng, việc tiếp xúc với tia cực tím từ mặt trời và ở mức độ ít hơn là việc tiếp xúc với các tác nhân gây ung thư (carcinogens) trong môi trường và nơi làm việc. Một số người có thể nhạy cảm với các nhân tố có thể gây ung thư hơn so với những người khác.
Tuy nhiên, hầu hết những ngưòi mắc ung thư thì lại không có những yếu tố nguy cơ đã được biết đến nào cả. Và nhiều người có những yếu tố nguy cơ thì lại không mắc bệnh ung thư.
Một số yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư có thể tránh được. Các yếu tố khác, như các yếu tố di truyền là không thể tránh được nhưng cũng rất hữu ích nếu chúng ta ý thức được chúng . Mọi người có thể tự bảo vệ chính bản thân họ bằng cách tránh những yếu tố nguy cơ bất cứ khi nào có thể. Họ có thể tư vấn bác sĩ của họ về việc kiểm tra định kỳ và về việc khám sàng lọc phát hiện ung thư khi nào thì có lợi.
|
|
|
Ung thư
May 23, 2004 13:17:45 GMT -5
Post by Oshin on May 23, 2004 13:17:45 GMT -5
Các yếu tố nguy cơ liên quan tới bệnh ung thư
Thuốc lá
Chế độ ăn uống
Tia cực tím
Rượu
Bức xạ ion hoá
Các hoá chất và những chất khác
Liệu pháp hormon thay thế (HRT)
Diethylstilbestrol (DES)
Quan hệ ruột thịt ở một số loại ung thư nhất định
Người nào có bất kỳ nguy cơ gây ung thư nào liệt kê ở trên nên nói với bác sĩ của mình. Bác sĩ của họ có thể gợi ý cho họ những cách thức làm giảm bớt nguy cơ mắc bệnh và có thể đưa ra một chương trình khám kiểm tra.
Một số yếu tố có thể tăng khả năng mắc bệnh ung thư:
Thuốc lá. Việc hút thuốc lá, sử dụng thuốc lá không khói và thường xuyên tiếp xúc với khói thuốc lá ở môi trường là nguyên nhân gây ra 1/3 tổng số trường hợp tử vong vì ung thư ở Mĩ hàng năm. Sử dụng thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong có nhiều khả năng phòng ngừa nhất ở Hoa kỳ.
85% các trường hợp tử vong do ung thư phổi là do hút thuốc lá gây ra. Đối với những người nghiện thuốc lá, nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi tăng lên cùng với lượng thuốc hút mỗi ngày, số năm hút thuốc, loại thuốc sử dụng và mức độ hít khói thuốc vào. Nói chung, những người hút một bao thuốc một ngày có nguy cơ bị ung thư phổi cao hơn 10 lần so với người không hút thuốc lá. Những người hút thuốc lá cũng có nhiều khả năng mắc một vài loại ung thư khác hơn là những người không hút thuốc như ung thư miệng họng, thực quản, tuyến tụy, bàng quang, thận và cổ tử cung. Hút thuốc cũng có thể làm tăng khả năng phát triển ung thư dạ dày, gan, tuyến tiền liệt, đại tràng và trực tràng. Nguy cơ mắc bệnh ung thư bắt đầu giảm xuống ngay sau khi bỏ hút thuốc và tiếp tục giảm xuống dần dần mỗi năm sau khi ngừng hút thuốc.
Những người hút xì gà hoặc là thuốc lá tẩu có nguy cơ mắc chứng ung thư khoang miệng tương tự như nguy cơ đối với những người hút thuốc lá. Những người hút xì gà cũng có nguy cơ bị ung thư phổi, hầu họng, thực quản và tuyến tụy tăng lên.
Việc sử dụng thuốc lá không khói (thuốc lá nhai và thuốc lá bột) gây ra ung thư miệng và họng. Những điều kiện tiền ung thư, những thay đổi về mô có thể dẫn đến ung thư thường mất dần đi khi dừng việc sử dụng thuốc lá không khói.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiếp xúc với khói thuốc ở môi trường, còn được gọi là hút thuốc lá gián tiếp, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi đối với những người không hút thuốc.
Những người sử dụng thuốc lá dưới bất kỳ dạng nào và cần giúp đỡ để bỏ thuốc có thể muốn trao đổi với bác sĩ , nha sĩ của họ hay các chuyên gia y tế khác, hay tham gia một nhóm cai thuốc lá do bệnh viên địa phương hoặc một tổ chức tình nguyện tài trợ. Những thông tin để tìm những nhóm hay những chương trình như vậy được cung cấp qua Dịch vụ cung cấp thông tin về ung thư (CIS) tại 1-800-4-CANCER. Các chuyên viên thông tin của CIS có thể gửi những tài liệu đã được in và còn có thể đưa ra những gợi ý để bỏ hút thuốc và những gợi ý này được nghiên cứu để đáp ứng nhu cầu của người gọi.
Chế độ ăn uống. Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu xem các yếu tố có trong thức ăn có vai trò gì trong quá trình phát triển bệnh ung thư . Một số bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa chế độ ăn có chứa hàm lượng mỡ cao với một số loại ung thư như ung thư đại tràng, tử cung, và tuyến tiền liệt. Béo phì có thể có mối liên hệ với bệnh ung thư vú ở những phụ nữ đứng tuổi và còn liên quan tới các loại ung thư khác như ung thư tuyến tiền liệt, tuyến tụy, tử cung, đại tràng và buồng trứng. Mặt khác, một số nghiên cứu chỉ ra rằng những loại thực phẩm có chứa chất xơ và một số chất ding dưỡng nhất định có thể giúp phòng ngừa một số loại ung thư.
Mọi người có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư bằng cách lựa chọn những loại thực phẩm có lợi cho sức khoẻ. Một chế độ ăn cân bằng bao gồm một lượng lớn thực phẩm có hàm lượng chất xơ, vitamin, các chất khoáng cao và hàm lượng mỡ thấp. Cần ăn nhiều rau, trái cây và các loại bánh mì thô, ngũ cốc nguyên hạt mỗi ngày, ăn ít trứng và không ăn nhiều thịt và những sản phẩm có hàm lượng mỡ cao (như sữa nguyên chất, bơ và hầu hết các loại pho mát), dầu giấm, margarin, và dầu ăn.
Hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng lựa chọn được những loại thực phẩm có lợi cho sức khoẻ còn hữu ích hơn là uống bổ sung vitamin và khoáng chất.
|
|
|
Ung thư
May 23, 2004 13:20:30 GMT -5
Post by Oshin on May 23, 2004 13:20:30 GMT -5
Tia cực tím. Tia cực tím trong ánh sáng mặt trời gây hiện tượng lão hoá sớm và tổn thương da, điều đó có thể gây ung thư da. (Hai loại tia cực tím UVA và UVB đã được giải thích trong từ điển). Những nguồn tia cực tím nhân tạo như đèn mặt trời, phòng tắm nắng cũng có thể gây tổn thương da và có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng ung thư da. Nhằm giảm nguy cơ mắc chứng ung thư da do tia cực tím gây ra, tốt nhất là giảm sự tiếp xúc với mặt trời lúc giữa ngày (từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều). Hay đơn giản hơn là nguyên tắc tránh ánh mặt trời khi bóng của bạn ngắn hơn chiều cao của bạn.
Đội mũ rộng vành, đeo kính râm hấp thụ tia cực tím, mặc quần dài và áo dài tay cũng bảo vệ cho bạn. Nhiều bác sĩ cho rằng, ngoài việc tránh nắng và mặc quần áo bảo vệ, việc dùng kem chống nắng (đặc biệt là loại có thể phản chiếu, hấp thụ và/hoặc là phân tán cả hai loại tia cực tím) có thể ngăn ngừa một số dạng ung thư da. Các kem chống nắng được đánh giá mức độ mạnh tuỳ theo nhân tố bảo vệ ánh mặt trời (SPF). SPF càng cao thì càng có nhiều khả năng bảo vệ da khỏi bị cháy nắng. Kem chống nắng có SPF từ 12 đến 29 là phù hợp với tất cả mọi người, nhưng không thể thay thế cho việc tránh ánh nắng mặt trời và mặc áo bảo vệ.
Rượu. Những người nghiện rượu nặng có nguy cơ bị ung thư miệng, cổ họng, thực quản, hầu và gan tăng lên. (Những ngưòi hút thuốc lá và nghiện rượu nặng có nguy cơ mắc các chứng ung thư này đặc biệt cao). Một số nghiên cứu chỉ ra rằng uống rượu ở mức độ vừa phải cũng có thể làm tăng nhẹ nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Bức xạ ion hoá. Các tế bào có thể bị các tia ion hoá phá huỷ khi chụp X quang, các chất phóng xạ, các chùm tia đi vào bầu khí quyển của trái đất từ bên ngoài vũ trụ và các nguồn khác. Với liều lượng rất cao, bức xạ ion hoá có thể gây ra bệnh ung thư và các bệnh khác. Các nghiên cứu tiến hành trên những nạn nhân sống sót trong vụ ném bom nguyên tử ở Nhật Bản cho thấy rằng bức xạ ion hoá làm tăng nguy cơ bị leucemia và các bệnh ung thư vú, tuyến giáp, phổi, dạ dày và các cơ quan khác.
Trước năm 1950 , tia X được sử dụng để điều trị những bệnh không ung thư (như tuyến ức to, sưng amiđan, viêm VA, bệnh nấm da đầu và trứng cá) ở trẻ em và thanh niên. Những người được điều trị bằng phóng xạ vùng đầu và cổ có nguy cơ mắc ung thư tuyến giáp cao hơn mức trung bình ở những năm sau. Những người đã được điều trị như vậy cần phải thông báo với bác sĩ của mình.
Những bệnh nhân được điều trị ung thư bằng tia xạ cũng có thể có tổn thương các tế bào bình thường. Bệnh nhân có thể muốn tư vấn bác sĩ của họ về ảnh hưởng của xạ trị đối với nguy cơ mắc ung thư thứ hai. Nguy cơ này có thể phụ thuộc vào độ tuổi của bệnh nhân khi điều tri cũng như bộ phận trên cơ thể được điều trị.
Tia X sử dụng với mục đích chẩn đoán có mức độ bức xạ thấp hơn so với tia X sử dụng cho điều trị. Lợi ích dường như luôn luôn cao hơn nguy cơ. Tuy nhiên, tiếp xúc lặp đi lặp lại có thể gây hại, vì vậy các bạn nên tư vấn bác sĩ về nhu cầu chụp X quang và hỏi ý kiến về việc dùng tấm chắn để bảo vệ các bộ phận khác của cơ thể.
Các hoá chất và những chất khác. Việc tiếp xúc với một số hoá chất, kim loại, hay thuốc trừ sâu có thể tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư. Amiăng, niken, cadimi, uranium, radon, vinyl clorua, benzin và benzen là những ví dụ về những tác nhân gây ung thư điển hình. Những tác nhân này có thể tác dụng đơn độc hoặc phối hợp với các tác nhân gây ung thư khác, như khói thuốc lá, để làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư. Ví dụ như hít phải sợi amiăng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh phổi bao gồm cả ung thư phổi, và nguy cơ mắc ung thư là đặc biệt cao ở những công nhân tiếp xúc với amiăng và hút thuốc lá. Như vậy tuân thủ các nguyên tắc an toàn lao động và giảm tối đa sự tiếp xúc với những vật liệu nguy hiểm là hết sức quan trọng.
|
|
|
Ung thư
May 23, 2004 13:21:13 GMT -5
Post by Oshin on May 23, 2004 13:21:13 GMT -5
Phương pháp hormon trị liệu thay thế (HRT). Các bác sĩ có thể chỉ định điều trị hormon thay thế, dùng estrogen đơn độc hay kết hợp với progesteron để kiểm soát các triệu chứng (như các cơn bốc hoả và hiện tượng khô âm đạo) có thể xảy ra trong thời kì mãn kinh. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc sử dụng estrogen đơn độc làm tăng nguy cơ mắc ung thư tử cung. Do đó hầu hết các bác sĩ đều kê đơn thuốc khi điều trị hormon bao gồm progesteron cùng với liều nhỏ estrogen. Progesteron chống lại tác dụng có hại của estrogen lên tử cung bằng cách ngăn chặn sự tăng trưởng quá mức của niêm mạc tử cung; sự tăng trưởng quá mức này xuất hiện khi dùng estrogen đơn độc (ví dụ cho những phụ nữ đã phẫu thuật cắt tử cung buồng trứng, cắt tử cung và vì vậy không còn nguy cơ ung thư tử cung). Các nghiên cứu khác chỉ ra rằng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú tăng lên đối với những phụ nữ đã sử dụng estrogen trong một thời gian dài; và một số nghiên cứu khác cho thấy nguy cơ mắc chứng ung thư này có thể cao hơn đối với những phụ nữ sử dụng estrogen kết hợp với progesteron.
Các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm hiểu về những nguy cơ và lợi ích của liệu pháp hormon thay thế. Những phụ nữ đang xem xét việc điều trị này nên thảo luận những vấn đề này với bác sĩ của mình.
Diethylstilbestrol (DES). DES là một estrogen tổng hợp được sử dụng từ đầu những năm 40 đến 1971. Một số phụ nữ uống DES trong khi mang thai để ngăn một số biến chứng nhất định. Con gái họ đã tiếp xúc với DES trong bụng mẹ có nguy cơ bị dị sản tế bào cổ tử cung và âm đạo tăng lên. Bên cạnh đó về sau những bé gái này có thể bị một loại ung thư âm đạo và cổ tử cung hiếm gặp. Những phụ nữ con gái các bà mẹ có sử dụng DES trong thời gian mang thai cần nói với bác sĩ của mình về điều này. Họ cần được các bác sỹ gia đình thăm khám vùng tiểu khung để tìm các biểu hiện liên quan tới việc dùng DES.
Những phụ nữ uống DES trong thời kỳ mang thai có thể có nguy cơ ung thư vú hơi tăng cao. Những phụ nữ này nên nói với bác sĩ của mình về sự tiếp xúc đó. Hiện nay chưa có bằng chứng về việc tăng nguy cơ mắc ung thư vú ở những phụ nữ đã phải tiếp xúc với DES trong bụng mẹ. Tuy nhiên cũng cần phải tiến hành nhiều nghiên cứu hơn khi những phụ nữ này bước vào độ tuổi dễ gặp ung thư vú hơn.
Có bằng chứng cho thấy những bé trai đã tiếp xúc với DES có thể có những dị dạng tinh hoàn như tinh hoàn lạc chỗ hoặc tinh hoàn nhỏ bất thường. Nguy cơ ung thư tinh hoàn ở những người đàn ông này đang được nghiên cứu.
Quan hệ ruột thịt ở một số loại ung thư. Một số dạng ung thư (bao gồm ung thư hắc tố, ung thư vú, buồng trứng, tuyến tiền liệt và ung thư đại tràng) có xu hướng xuất hiện ở một số gia đình nhiều hơn so với trong cộng đồng chung. Người ta còn chưa biết rõ liệu dạng ung thư trong gia đình có phải chủ yếu là do yếu tố di truyền, các nhân tố trong môi trường sống hoặc lối sống của một gia đình, hay chỉ là vấn đề ngẫu nhiên.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng bệnh ung thư là do những biến đổi (những biến dị hoặc những thay đổi) trong các gen kiểm soát sự phát triển bình thường và sự chết của tế bào. Hầu hết những biến đổi gen gây ung thư là kết quả của những nhân tố trong lối sống hoặc trong môi trường. Tuy nhiên, một số thay đổi có thể dẫn đến ung thư lại có tính chất di truyền; có nghĩa là nó được truyền từ bố mẹ sang con cái. Nhưng việc mang sự thay đổi gen di truyền như vậy không có nghĩa là người đó chắc chắn sẽ bị ung thư; nó có nghĩa là nguy cơ mắc ung thư tăng lên.
|
|
|
Ung thư
May 23, 2004 13:22:06 GMT -5
Post by Oshin on May 23, 2004 13:22:06 GMT -5
Khám sàng lọc và phát hiện sớm
Đôi khi người ta có thể phát hiện ung thư trước khi căn bệnh này gây ra triệu chứng. Khám để phát hiện ra bệnh ung thư (hay những điều kiện có thể dẫn đến bệnh ung thư ) ở một người chưa có triệu chứng nào của căn bệnh này được gọi là khám sàng lọc.
Khi khám lâm sàng thường quy, bác sĩ tìm kiếm tất cả những chi tiết không bình thường và những khối u, cục. Các xét nghiệm sàng lọc đặc hiệu như các xét nghiệm cận lâm sàng, chụp X- quang hay các thủ thuật khác được tiến hành định kỳ chỉ để phát hiện ra một số ít loại ung thư .
ã Vú. Phim chụp X quang tuyến vú là công cụ hữu hiệu nhất hiện nay để phát hiện ra bệnh ung thư vú trước khi các triệu chứng xuất hiện. Phim chụp X quang tuyến vú là một hình ảnh vú đặc biệt. Khám sàng lọc ung thư vú đã làm giảm được nguy cơ tử vong do căn bệnh này gây ra. Viện ung thư quốc gia khuyến cáo những phụ nữ ở tuổi từ 40 trở lên nên chụp X quang vú định kỳ 1 đến 2 năm một lần.
ã Cổ tử cung. Các bác sĩ sử dụng Pap test hay kính phết Pap, để tìm kiếm ung thư cổ tử cung. Trong xét nghiệm này, các tế bào được lấy ra từ cổ tử cung. Những tế bào này được soi dưới kính hiển vi để phát hiện ung thư hoặc những thay đổi có thể dẫn đến unh thư.
ã Đại tràng và trực tràng. Một số xét nghiệm sàng lọc được tiến hành để phát hiện ung thư đại-trực tràng. Nếu một người trên 50 tuổi, có tiền sử gia đình bị bệnh ung thư đại-trực tràng, hay có bất kỳ yếu tố nguy cơ bị ung thư đại-trực tràng nào thì bác sĩ có thể cho làm một vài xét nghiệm này.
Đôi khi các khối u đại tràng hay trực tràng có thể chảy máu. Xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân nhằm tìm một lượng máu nhỏ trong phân.
Bác sĩ cũng có thể dùng một ống nhỏ có nguồn sáng được gọi là dụng cụ soi đại tràng xích ma để kiểm tra trực tràng và đoạn dưới đại tràng. Hay để kiểm tra toàn bộ đại tràng và trực tràng người ta dùng máy soi đại tràng. Nếu phát hiện ra những vùng bất thường thì có thể lấy một mảnh tổ chức để soi dưới kính hiển vi.
Người ta còn có thể chụp đại- trực tràng có barit. Bệnh nhân được thụt bằng một dung dịch có chứa bari, dung dịch này sẽ cho hình ảnh viền đại tràng và trực tràng trên phim X-quang.
Thăm trực tràng là phương pháp khám nghiệm khi bác sĩ dùng ngón tay mang găng đã được bôi dầu trơn vào trong trực tràng để sờ tìm những vùng bất thường.
Mặc dù không chắc chắn là khám sàng lọc các loại ung thư khác có thực sự cứu được sing mạng hay không nhưng các bác sĩ cũng có thể đề xuất việc khám sàng lọc ung thư da, phổi và khoang miệng. Các bác sĩ cũng có thể đề nghị khám sàng lọc để phát hiện ra ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư tinh hoàn ở nam giới và ung thư buồng trứng ở nữ giới.
Các bác sĩ xem xét nhiều yếu tố trước khi yêu cầu một xét nghiệm sàng lọc. Họ cân nhắc các yếu tố của từng cá thể, xét nghiệm, và loại ung thư mà xét nghiệm đó muốn phát hiện. Ví dụ, bác sĩ xem xét tuổi, bệnh sử, tình trạng sức khoẻ chung, tiền sử gia đình và lối sống. Bác sĩ đặc biệt chú ý tới nguy cơ mắc một số loại ung thư đặc biệ%
|
|
|
Ung thư
May 23, 2004 13:27:34 GMT -5
Post by Oshin on May 23, 2004 13:27:34 GMT -5
Các triệu chứng của bệnh ung thư
Ung thư có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau. Sau đây là một số triệu chứng đó:
ã Sự dày lên hay nổi cục ở vú hay bất cứ bộ phận nào trong cơ thể
ã Có sự thay đổi rõ ràng ở hột cơm hay nốt ruồi
ã Vết loét không lành được
ã Ho kéo dài và khàn giọng
ã Những thay đổi thói quen đại- tiểu tiện
ã Không tiêu hoặc khó nuốt
ã Những thay đổi về trọng lượng không thể lý giải được
ã Ra máu âm đạo hoặc khí hư bất thường
Khi những triệu chứng này hay khác xuất hiện thì không phải lúc nào cũng là do ung thư gây ra. Chúng có thể do hiện tượng nhiễm khuẩn, khối u lành hay các vấn đề khác gây ra. Điều quan trọng là phải đến gặp bác sĩ khi có bất kỳ triệu chứng nào hoặc những thay đổi thể lực xuất hiện. Chỉ có bác sĩ mới có thể đưa ra chẩn đoán. Không nên chờ tới khi cảm thấy đau. Ung thư giai đoạn đầu thường không gây ra đau đớn.
Chẩn đoán
Khi có triệu chứng, bác sĩ sẽ hỏi bệnh sử của bệnh nhân và tiến hành khám lâm sàng. Bên cạnh việc kiểm tra những dấu hiệu chung về sức khoẻ, bác sĩ có thể yêu cầu các khám nghiệm và các xét nghiệm khác nhau. Đó có thể là các xét nghiệm cận lâm sàng và các chẩn đoán hình ảnh. Cần phải tiến hành sinh thiết để quyết định chẩn đoán ung thư .
Các xét nghiệm cận lâm sàng
Những xét nghiệm máu và nước tiểu có thể cho các bác sĩ những thông tin quan trọng về sức khoẻ của bệnh nhân. Trong một số trường hợp, những xét nghiệm đặc biệt được tiến hành để định lượng một số chất nhất định, được gọi là chất chỉ điểm khối u, ở trong máu , nước tiểu hay một số mô nhất định. Nồng độ của các chất chỉ điểm khối u có thể là bất thường nếu một số loại ung thư xuất hiện. Tuy nhiên, không thể chỉ sử dụng đơn độc những xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán bệnh ung thư. Phương pháp hiện hình
Hình ảnh (ảnh) của các bộ phận bên trong cơ thể giúp bác sĩ xem có khối u hay không. Những bức ảnh này có thể chụp theo nhiều cách.
Chụp bằng tia X là cách thông dụng nhất để quan sát các bộ phận và xương bên trong cơ thể. Chụp X-quang cắt lớp vi tính (CT hay CAT) là một kiểu chụp hình đặc biệt có sử dụng một máy tính nối với một máy X-quang để tạo ra một loạt ảnh.
Trong quá trình chụp bằng phóng xạ, bệnh nhân được uống hoặc được tiêm một chất phóng xạ. Một máy (máy quét) đo hoạt tính phóng xạ ở các bộ phận nhất định và in hình ảnh lên giấy hoặc lên phim. Bác sĩ có thể phát hiện ra những khu vực bất thường bằng cách nhìn vào lượng chất phóng xạ trong các cơ quan. Chất phóng xạ được loại bỏ nhanh chóng khỏi cơ thể bệnh nhân sau khi tiến hành xét nghiệm.
Siêu âm là một kỹ thuật khác để xem xét các bộ phận bên trong cơ thể. Những sóng âm thanh có tần số cao mà con người không thể nghe thấy được đi vào bên trong cơ thể và dội trở lại. Những sóng âm dội trở lại này tạo ra một bức ảnh gọi là ảnh siêu âm. Những bức ảnh này được chiếu trên một màn hình giống như màn hình ti vi và có thể in ra giấy.
Cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) là một kỹ thuật dùng một nguồn từ trường mạnh nối với một máy tính được sử dụng để tạo ra những bức tranh chi tiết của các bộ phận bên trong cơ thể. Những bức hình này được chiếu trên một màn hình và có thể in ra.
|
|
|
Ung thư
May 23, 2004 13:29:25 GMT -5
Post by Oshin on May 23, 2004 13:29:25 GMT -5
Sinh thiết
Quá trình sinh thiết là hầu như luôn luôn cần thiết để giúp bác sĩ xác định chẩn đoán ung thư. Trong quá trình sinh thiết, mô được các nhà nghiên cứu về bệnh học lấy ra để soi dưới kính hiển vi. Có thể lấy mô theo 3 cách: nội soi, sinh thiết bằng kim hay sinh thiết bằng phẫu thuật.
ã Trong quá trình nội soi, bác sĩ có thể nhìn vào các vùng trong cơ thể qua một ống soi. Nội soi cho phép các bác sĩ xem những gì đang diễn ra bên trong cơ thể, chụp ảnh và lấy mô hay tế bào để khám nghiệm nếu cần thiết.
ã Trong quá trình sinh thiết bằng kim, bác sĩ có thể lấy một mẫu mô nhỏ bằng cách đưa mũi kim vào vùng bất thường (nghi ngờ ).
ã Sinh thiết bằng phẫu thuật có thể là sinh thiết toàn bộ hoặc là sinh thiết một phần. Khi sinh thiết toàn bộ, bác sĩ phẫu thuật lấy ra toàn bộ khối u, thường là cùng với một số mô bình thưòng bao xung quanh. Còn trong sinh thiết một phần, bác sĩ chỉ lấy đi một phần khối u. Nếu là ung thư thì có thể cắt bỏ toàn bộ khối u ngay lập tức hoặc trong một phẫu thuật khác.
Đôi khi bệnh nhân lo lắng về việc sinh thiết (hay bất kỳ loại phẫu thuật ung thư nào) sẽ khiến cho căn bệnh này lan rộng. Những trường hợp như vậy là rất hiếm. Bác sĩ phẫu thuật sử dung những kĩ thuật đặc biệt và thận trọng để phòng ngừa việc ung thư lan rộng trong quá trình phẫu thuật. Ví dụ, nếu phải lấy mẫu mô từ nhiều vị trí, họ sử dụng những dụng cụ khác nhau cho mỗi một vị trí sinh thiết. Ngoài ra, ranh giới của mô bình thường thường được lấy đi cùng với khối u. Những nỗ lực như vậy làm giảm nguy cơ lan các tế bào ung thư sang các mô bình thường.
Một số người có thể lo lắng về việc ung thư tiếp xúc với không khí trong khi phẫu thuật có thể khiến cho căn bệnh này lan rộng. Điều này là không đúng. Tiếp xúc với không khí không làm lan rộng ung thư.
Bệnh nhân nên thảo luận những băn khoăn thắc mắc của mình về sinh thiết và phẫu thuật khác với bác sĩ của mình.
Phân giai đoạn
Khi ung thư đã được chẩn đoán, bác sĩ sẽ muốn biết giai đoạn hay phạm vi của bệnh. Phân giai đoạn là một nỗ lực cẩn thận để tìm hiểu xem ung thư đã lan rộng hay chưa và nếu có thì vào những phần nào trong cơ thể. Các quyết định điều trị phụ thuộc vào kết quả phân giai đoạn. Bác sĩ có thể yêu cầu thêm các xét nghiện cận lâm sàng và hình ảnh hoặc sinh thiết bổ sung để tìm hiểu xem ung thư đã lan rộng hay chưa. Thủ thuật mở ổ bụng có thể giúp bác sĩ phát hiện được việc ung thư có lan vào ổ bụng hay không. Trong thủ thuật này, bác sĩ phẫu thuật có thể mở ổ bụng và lấy các mẫu mô.
Thái độ đối với chẩn đoán
Một điều tự nhiên là bất kỳ ai đang đối mặt với bệnh ung thư đều quan tâm về những gì sẽ xảy ra. Tìm hiểu bản chất của bệnh ung thư và tìm hiểu những gì sẽ xảy ra có thể giúp cho bệnh nhân và những nguời thân của họ lập kế hoạch điều trị, dự tính những thay đổi về lối sống và đưa ra những quyết định về tài chính. Bệnh nhân ung thư có thể thường xuyên hỏi bác sĩ của họ hoặc là tự đi tìm những số liệu thống kê để trả lời câu hỏi: tiên lượng bệnh của tôi thế nào?
Tiên lượng là những dự đoán về những diễn biến và kết cục của bệnh trong tương lai, những dấu hiệu chỉ ra khả năng hồi phục. Tuy nhiên đó chỉ là dự đoán. Khi bác sĩ bàn luận về tiên lượng của bệnh nhân có nghĩa là họ đang cố gắng dự đoán điều gì có thể xảy ra đối với bệnh nhân đó.Tiên lượng của bệnh nhân ung thư có thể chịu ảnh huởng của nhiều yếu tố, đặc biệt là loại ung thư, giai đoạn unh thư và mức độ của nó (mức độ tế bào ung thư giống với tế bào thường và tốc độ tế bào ung thư có thể phát triển và lan rộng). Các yếu tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến tiên lượng của bệnh nhân là tuổi, tình trạng sức khoẻ chung và đáp ứng với điều trị. Vì các yếu tố này thay đổi theo thời gian,tiên lượng của bệnh nhân cũng có thể thay đôỉ.
Đôi khi người ta sử dụng số liệu thống kê để cố gắng xác định sác xuất có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, đối với từng cá thể bệnh nhân và gia đình của họ thì số liệu thống kê hiếm khi có tác dụng bởi vì chúng phản ánh kinh nghiệm của một nhóm lớn bệnh nhân. Số liệu thống kê không thể dự đoán điều gì sẽ xảy ra đối với một bệnh nhân cụ thể bởi vì không có hai bệnh nhân giống nhau; cách điều trị và đáp ứng cũng khác nhau rất nhiều.
Nếu muốn biết những thông tin về tiên lượng cần hỏi bác sĩ. Bác sĩ là người hiểu rõ nhất hoàn cảnh của bệnh nhân và là người thích hợp nhất để phân tích số liệu thống kê và thảo luận về tiên lượng. Nhưng ngay cả bác sĩ cũng có thể không nói chính xác được những gì sẽ xảy ra.
Tìm kiếm những thông tin về tiên lượng và số liệu thống kê có thể giúp người ta giảm bớt nỗi sợ hãi. Tìm bao nhiêu thông tin và sử lý nó như thế nào lại là những vấn đề cá nhân.
|
|
|
Ung thư
May 23, 2004 13:35:25 GMT -5
Post by Oshin on May 23, 2004 13:35:25 GMT -5
Điều trị
Điều trị ung thư phụ thuộc vào loại ung thư, kích thước, vị trí và giai đoạn ung thư; tình trạng sức khoẻ chung của bệnh nhân và các yếu tố khác. Bác sĩ sẽ lập một kế hoạch điều trị phù hợp với hoàn cảnh của mỗi người bệnh.
Những bệnh nhân ung thư thường được một đội ngũ các chuyên viên điều trị, trong đó có bác sỹ phẫu thuật, bác sỹ điều trị ung thư bằng tia xạ, bác sỹ ung thư nội khoa và những người khác. Hầu hết các trường hợp ung thư đều được điều trị bằng phẫu thuật, liệu pháp phóng xạ, hoá trị liệu, liệu pháp hormon, hay liệu pháp sinh học. Các bác sĩ có thể quyết định áp dụng một phương pháp điều trị hay phương pháp điều trị phối hợp.
Các thử nghiệm lâm sàng (các nghiên cứu) đưa ra những lựa chọn điều trị quan trọng cho nhiều bệnh nhân ung thư. Các nghiên cứu đánh giá những liệu pháp mới khả quan và trả lời những câu hỏi khoa học. Mục đích của những thử nghiệm như vậy là để tìm ra phương pháp điều trị hiệu quả hơn trong việc kiểm soát bệnh ung thư nhưng có ít tác dụng phụ hơn. (Mục trình bày về "những thử nghiệm lâm sàng" sẽ cung cấp nhiều thông tin hơn về chọn lựa này).
Lựa chọn phác đồ điều trị thứ hai
Trước khi bắt đầu điều trị, bệnh nhân có thể muốn có ý kiến của một bác sĩ khác về chẩn đoán và kế hoạch điều trị.Một số công ty bảo hiểm đòi hỏi có phác đồ điều trị thứ hai; một số công ty khác có thể chi trả cho phác đồ điều trị thứ hai này nếu bệnh nhân yêu cầu.
Có nhiều cách để tìm một bác sĩ có thể đưa ra một phác đồ điều trị thứ hai:
Bác sĩ của bệnh nhân có thể gợi ý các chuyên gia mà bệnh nhân có thể tư vấn.
Dịch vụ thông tin ung thư, tại 1-800-4-CANCER, có thể nói với những người gọi đến về các cơ sở điều trị bệnh ung thư trong cả nước bao gồm các trung tâm ung thư và các chương trình do Viện ung thư quốc gia hỗ trợ.
Bệnh nhân có thể tìm tên của các bác sĩ từ những tổ chức y tế địa phương, bệnh viện lân cận hay trường y.
Ban điều hành chính thức ABMS của những chuyên gia y học được cấp bằng liệt kê tên của những bác sĩ cùng chuyên ngành và trình độ học vấn của họ. Nguồn thông tin này, do ban chuyên viên y học Mỹ (ABMS), có mặt tại hầu hết thư viện cộng cộng. ABMS còn cung cấp dịch vụ qua mạng internet (http://www.certifieddoctor.org) để giúp mọi người lựa chọn bác sĩ.
|
|
|
Ung thư
May 26, 2004 16:42:05 GMT -5
Post by Oshin on May 26, 2004 16:42:05 GMT -5
Làm gì khi phát hiện bị ung thý?
Với bất cứ ai, việc phát hiện bị ung thý sẽ gây một cú sốc cực mạnh. Phản ứng với tin sét ðánh này thýờng là nỗi thất vọng và chán chýờng. Tuy nhiên, theo các thầy thuốc, thay vì lo âu, phẫn uất, ngýời bệnh có khá nhiều việc phải làm.
Theo Hiệp hội Ung thý Mỹ, bệnh nhân ung thý ngày nay sống lâu hõn trýớc. Nhất là khi phát hiện sớm và khối ung thý chýa lan tới các hạch hay di cãn tới các cõ quan khác thì khả nãng phục hồi rất lớn. 40% nguyên nhân gây ung thý là do các thói quen sinh hoạt nhý hút thuốc lá, uống rýợu và chế ðộ ãn. Ðối với những bệnh nhân không thể chữa khỏi triệt ðể, một số tiến bộ lớn trong y học có thể giúp khống chế triệu chứng và biến chứng, ðồng thời cải thiện ðáng kể chất lýợng cuộc sống.
Lời khuyên cho những ngýời mới ðýợc chẩn ðoán mắc bệnh ung thý
Ðầu tiên, cần tìm hiểu một cách chi tiết về chẩn ðoán, xem tên bệnh ung thý là gì, kích thýớc và vị trí, nõi khối u xuất hiện và mức ðộ di cãn. Tìm hiểu xem bệnh phát triển nhanh hay chậm. Nếu không nắm ðýợc những thông tin này thì bạn không thể hiểu ðýợc chính xác vấn ðề.
Phải thừa nhận rằng ðây là một thời ðiểm khủng hoảng nhất của ðời ngýời và bạn khó có thể nhớ ðýợc những ðiều ý nghĩa nhất với mình. Giới chuyên gia chỉ ra rằng, trong hoàn cảnh này, ngýời bệnh chỉ nhớ ðýợc khoảng 5% lýợng thông tin cần thiết khi trao ðổi với bác sĩ. Vì vậy, khi ðến khám, bạn nên cùng ði với ai ðó, tốt nhất là một ngýời ðáng tin cậy, biết cách ủng hộ và giúp bạn hiểu vấn ðề một cách sáng sủa hõn. Việc ði khám một mình chẳng khác nào ðối diện với bồi thẩm ðoàn mà không có luật sý.
Có thể ði chẩn ðoán lại ở nõi khác?
Nên ði khám lại ở một chỗ khác, nhýng không có nghĩa là gõ cửa hàng chục nõi. Tốt nhất là chọn những trung tâm chẩn ðoán lớn, có uy tín. Ðiều quan trọng ðối với bệnh nhân ung thý là việc nhận thức sâu sắc rằng thời gian là thứ quý giá nhất lúc này. Sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu tốn tiền và thời gian ðể chạy theo hy vọng về một kết quả ðáng hài lòng hõn, trong khi thực tế không thể thay ðổi.
Bệnh nhân mới ðýợc chẩn ðoán mong ðợi gì ở bác sĩ?
Thứ nhất, bạn cần có ngýời lắng nghe và bác sĩ chính là ðối týợng thích hợp ðể bạn ðặt câu hỏi và bày tỏ sự lo lắng. Thứ hai, bác sĩ có thể giải thích cho bạn các sắc thái của sự chẩn ðoán và làm cho bạn hiểu cặn kẽ tình trạng bản thân. Thứ ba, bạn cần có một bác sĩ giỏi ðể ðýa ra những phýõng pháp ðiều trị thích hợp và hiệu quả nhất. Hãy tạo dựng một mối quan hệ tốt với bác sĩ. Bệnh nhân cần hiểu rằng quan hệ ðiều trị là mối quan hệ cùng tham gia và chia sẻ.
|
|