|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:22:46 GMT -5
Trong trạng thái ấy hòa hợp lại nỗi ưu tư nhẹ nhàng, những suối từ không hiểu từ đâu đến và cảm giác bất ngờ về sức mạnh của của thơ ca, về quyền lực của mình đối với trái tim người đời.
Giống như trong một câu chuyện chàng viết, nắp chiếc rương thần cũ kỹ bỗng bật mở ầm một cái. Trong chiếc rương đó giấu kín những ý nghĩ chưa thốt thành lời, những tình cảm còn ngủ yên và tất cả sự mê hoặc của trái đất - mọi màu sắc và âm thanh, những làn gió ngát hương và biển cả bao la, tiếng ồn ào của rừng, những dằn vặt của tình yêu và tiếng líu lo của con trẻ.
Anđecxen không biết gọi trạng thái ấy là gì. Một số gọi đó là cảm hứng, số khác gọi là sự phấn chấn, số khác nữa gọi là tài ứng tác.
- Tôi tỉnh giấc và nghe thấy giọng các cô nói trong đêm, - im lặng một lát, chàng điềm đạm nói. – Các cô gái xinh đẹp ơi, như thế cũng đủ để cho tôi quen biết các cô và còn hơn thế nữa, để yêu các cô như những cô em gái thỉnh thoảng mới gặp mặt. Tôi nhìn thấy các cô rõ lắm. Chẳng hạn như cô, cô con giái có mái tóc vàng nhẹ bỗng. Cô là cô gái hay cười khanh khách và cô yêu hết thảy mọi vật đến nỗi những con sau trong rừng cũng sà xuống đậu trên vai cô khi cô vun xới trong vườn.
- Ôi, Nicôlina, ông ấy nói đằng ấy đấy ! - Một cô gái lớn tiếng thì thào.
- Cô có một trái tim sôi nổi, cô Nicôlina ạ, - Anđecxen vẫn điềm đạm nói tiếp. - Nếu như chẳng may có chuyện không lành xảy ra với người yêu của cô, cô sẽ chẳng đắn đo suy nghĩ vượt qua ngàn dặm núi tuyết và sa mạc để gặp mặt và cứu chàng. Tôi nói đúng không nào ?
- Vâng, em sẽ đi thật… - Nicôlina bối rối, ấp úng. - Nếu ông đã nghĩ như thế.
- Các cô tên là gì ? – Anđecxen hỏi.
- Chúng em là Nicôlina, Maria và Anna, - một cô trong bọn sốt sắng trả lời thay các bạn.
- Cô Maria ạ, đáng ra tôi không muốn nói về sắc đẹp của cô. Tôi nói tiếng Ý không thạo. Nhưng từ lúc thiếu thời tôi đã nguyện với Nàng Thơ sẽ ca tụng sắc đẹp ở bất cứ nơi nào tôi được gặp.
- Lạy Chúa tôi ! - vị linh mục nói khẽ. – Ông ta bị nhện độc cắn rồi. Ông ta đã hóa rồ.
- Có những người đàn bà quả là đẹp mê hồn. Phần nhiều họ là những người bản tính kín đáo. Họ sống với niềm đam mê cháy bỏng trong lòng, không thổ lộ với ai. Niềm mê say đó dường như từ bên trong tỏa ra làm cho mặt họ nóng bừng. Cô như thế đấy, cô Maria ạ ! Số mệnh của những người đàn bà như thế thường là kỳ lạ. Hoặc là rất buồn thảm, hoặc là rất hạnh phúc.
- Ông đã gặp những người đàn bà như thế bao giờ chưa ? - thiếu phụ hỏi.
- Vừa gặp đây thôi, - Anđecxen trả lời. – Tôi không phải chỉ nói về cô Maria mà cả về bà nữa, thưa bà.
- Tôi mong rằng ông nói thế cốt không phải cho đêm dài chóng qua, - người đàn bà nói, giọng run run. - Điều ông vừa nói thật là tàn ác đối với cô gái kiều diễm nà. Và cả tôi nữa, - nàng nhẹ nhàng nói tiếp.
- Thưa bà, chưa lúc nào tôi lại nghiêm chỉnh như lúc này.
- Vậy thì sao ? - Maria hỏi. - Liệu em có hạnh phúc hay không ?
- Cô muốn hưởng nhiều ở đời, mặc dầu cô chỉ là một cô gái nông thôn bình dị. Vì thế cô không dễ dàng được hạnh phúc. Nhưng trong đời mình cô sẽ gặp một người xứng đáng với trái tim hay hờn dỗi của cô. Người cô chọn tất nhiên là một người xuất sắc. Có thể đó là nhà hội họa, là nhà thơ, là chiến sĩ đấu tranh cho tự do của nước Ý… Mà cũng có thể đó chỉ là một chàng mục đồng hay một thủy thủ, nhưng là người có một tâm hồn lớn. Nói cho cùng, thì cũng thế cả thôi.
- Thưa ông, em không nhìn thấy ông, vì thế em cứ hỏi mà chẳng thẹn thùng, - Maria rụt rè nói. – Nên làm gì đây, nếu người ấy đã làm chủ trái tim em rồi ? Em mới gặp chàng có vài bận, thậm chí cũng chẳng biết chàng bây giờ ở đâu.
- Cứ tìm chàng đi ! – Anđecxen thốt lên. – Hãy tìm bằng được, và chàng sẽ yêu cô.
- Maria ! – Anna vui vẻ nói. – Thì ra đó là cái anh chàng họa sĩ ở Vêrôn đấy chứ ai…
- Im đi ! – Maria mắng át.
- Vêrôn chẳng phải là một thành phố to lớn gì để đến nỗi không tìm nổi một người, - thiếu phụ nói. – Cô nhớ lấy tên tôi. Tôi là Elêna Guytsiôli. Tôi hiện ở Vêrôn. Người Vêrôn nào cũng biết nhà tôi. Cô Maria này, cô đến Vêrôn đi. Và sẽ ở cùng tôi đến tận cái ngày hạnh phúc mà ông bạn đường thân mến của chúng ta đã tiên đoán cho cô.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:23:20 GMT -5
Trong bóng tối, Maria tìm bàn tay Elêna và áp vào bên má nóng hổi của mình.
Mọi người im lặng. Anđecxen nhận thấy một ngôi sao xanh đã tắt. Nó đã lặn dưới chân trời. Nghĩa là đã quá nửa đêm.
- Kìa, sao ông không đoán gì cho em ? Anna, cô gái nhanh mồm nhanh miệng nhất bọn hỏi.
- Cô sẽ có nhiều con, - Anđecxen nói một cách quả quyết. – Chúng nó sẽ xếp thành hàng, nối đuôi nhau nhận phần sữa. Cô sẽ mất nhiều thì giờ để tắm rửa và chải đầu cho cả lũ. Nhưng chồng sắp cưới sẽ giúp cô một tay.
- Có phải là Pêtơrô không ? – Anna hỏi. – Em cần cái anh chàng béo ục ịch ấy lắm đấy !
- Rồi cô còn mất nhiều thì giờ nữa để hôn vài lần trong mọt ngày những con mắt long lanh hiếu kỳ của hết thảy những thằng cu, con bé của cô.
- Trong lãnh địa của giáo hoàng mà nói những lời lẽ điên rồ ấy thì thật là quá quẩn ! - vị linh mục bực bội nói, nhưng không ai chú ý đến lời nói của ông ta.
Mấy cô gái lại thì thầm chuyện gì với nhau. Tiếng cười luôn luôn cắt đứt tiếng xì xào. Cuối cùng Maria nói :
- Thưa ông, bây giờ chúng em muốn biết ông là người thế nào. Chúng em thì lại không nhìn được trong bóng tối.
- Tôi là nhà thơ phiêu lãng, - Anđecxen trả lời. – Tôi còn trẻ. Tóc tôi rậm, uốn sóng và mặt tôi rám nắng. Đôi mắt xanh của tôi hầu như lúc nào cũng cười, bởi tôi vô tư và chưa yêu ai. Công việc duy nhất của tôi là đem những món quà nhỏ tặng người khác và làm những việc lăng nhăng cốt sao cho người thân đuợc vui lòng.
- Thí dụ những việc gì thưa ông ? – Elêna hỏi.
- Biết kể gì cho bà nghe đây ? Mùa hè năm ngoái tôi ở nhà một người quen làm nghề kiểm lâm ở xứ Giuytlan. Một hôm tôi dạo chơi trong rừng và tới một quãng rừng thưa, nơi có rất nhiều nấm. Ngay ngày hôm đó tôi trở lại cánh rừng ấy và giấu dưới mỗi cây nấm hoặc một cái kẹo bọc giấy bạc, một quả chà là, một bó hoa tí xíu bằng sáp, hoặc một cái đê khâu và một mẩu băng lụa. Sáng hôm sau tôi đi cùng với cháu gái con ông kiểm lâm vào cánh rừng đó. Cháu bé lên bảy. Thế là dưới mỗi gốc nấm cháu tìm thấy những vật nhỏ bé kỳ lạ kia. Chỉ thiếu có quả chà là. Hẳn là một chú quạ nào đã tha đi mất. Ồ, nếu bà được trông thấy đôi mắt em bé sáng rực lên vì sung sướng ! Tôi quả quyết với cháu rằng những vật đó là của những chú quỷ lùn đã giấu ở đấy.
- Ông đã đánh lừa một đứa bé ngây thơ ! - Vị linh mục phẫn nộ nói. – Đó là một tội lớn.
- Không, đó chẳng phải là chuyện đánh lừa. Em bé sẽ nhớ chuyện ấy suốt đời. Và tôi xin quả quyết với cha rằng trái tim cháu sẽ không dễ dàng cằn cỗi như ở những người không được biết chuyện cổ tích ấy. Hơn nữa, thưa cha, tôi cũng muốn nói để cha biết rằng tôi vốn không ưa những lời răn ép buộc.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:23:48 GMT -5
Xe dừng lại. Các cô gái ngồi yên không nhúc nhích như bị bỏ bùa. Elêna cúi đầu im lặng.
- Này, các mỹ nương ! - Người đánh xe kêu lên. - Tỉnh dậy thôi ! Đến nơi rồi.
Các cô gái lại thì thào chuyện gì và đứng dậy.
Trong bóng tối Anđecxen bỗng thấy hai cánh tay khỏe mạnh ôm lấy cổ chàng và một đôi môi nóng hổi áp vào môi chàng.
- Cảm ơn ông ! – đôi môi nóng hổi ấy thì thầm, và Anđecxen nhận ra giọng nói của Maria.
Nicôlina cảm ơn chàng và hôn chàng thận trọng và âu yếm, tóc cô mơn man trên mặt chàng. Cái hôn của Anna thì kêu và khỏe. Các cô nhảy xuống đất. Xe lại chuyển bánh trên con đường lát đá. Anđecxen nhìn ra ngoài cửa sổ. Chẳng thấy gì ngoài những ngọn cây đen thẫm trên nền trời hơi ngả màu xanh lục. Bình minh hửng sáng.
Thành Vêrôn làm chàng ngạc nhiên vì những tòa nhà tráng lệ. Những mặt tiền trang nghiêm đua tài khoe sắc với nhau. Nền kiến trúc hài hòa lẽ ra phải làm cho tâm hồn thanh thản. Nhưng lòng Anđecxen lại xáo động. Tối hôm đó Anđecxen đến giật chuông căn nhà cổ kính của Elêna trong một phố hẹp dẫn lên pháo đài.
Chính Elêna ra mở cửa cho chàng. Cái áo nhung xanh bó sát lấy thân nàng. Ánh nhung hắt lên mắt nàng làm cho đôi mắt ngả màu xanh nước biển đẹp vô ngần.
Nàng giơ cả hai tay đón chàng, những ngón tay lạnh nắm chặt lấy bàn tay to lớn của chàng, rồi nàng lùi lại dẫn chàng vào một phòng nhỏ.
- Tôi nhớ quá chừng ! – nàng nói một cách bình dị và mỉm cười như có lỗi. – Tôi đã cảm thấy thiếu anh rồi.
Anđecxen tái mặt. Suốt ngày chàng chỉ nghĩ đến Elêna, lòng xáo động âm thầm. Chàng biết rằng mình có thể yêu đến chết mệt mỗi lời nói của người đàn bà ấy, từng chiếc lông mi rơi của nàng, từng hạt bụi vướng trên tà áo nàng. Chàng hiểu điều đó. Chàng nghĩ rằng một mối tình như thế nếu cứ để cho nó bùng lên thì trái tim chàng sẽ không chứa nổi. Nó sẽ mang lại biết bao dằn vặt và niềm vui, nước mắt và tiếng cười khiến chàng không đủ sức chịu đựng tất cả những đổi thay và bất ngờ của tình yêu đó.
Và biết đâu, chỉ vì mối tình kia mà những chuyện cổ tích của chàng như một đàn ong sặc sỡ, sẽ chẳng nhạt phai, sẽ chẳng bỏ chàng bay đi để không bao giờ trở lại. Lúc đó chàng sẽ còn giá trị gì ?
Dù sao thì rồi tình yêu của chàng cuối cùng cũng chẳng được đáp lại. Biết bao lần đã xảy ra như thế. Những người đàn bà như Elêna thường hay đồng bóng. Một ngày đáng buồn kia nàng sẽ nhận thấy chàng xấu xí. Chính chàng cũng gớm ghét bản thân mình. Luôn luôn chàng cảm thấy những cái nhìn chế giễu sau lưng mình. Những lúc ấy dáng đi của chàng trở nên cứng quèo, chàng vấp lên vấp xuống và chỉ muốn độn thổ.
Chàng tự nhủ : “Chỉ trong trí tưởng tượng mới có thể vĩnh cửu, có thể vĩnh viễn là thơ là mộng. Hình như ta có thể tưởng tượng ra tình yêu giỏi hơn là được hưởng tình yêu trong thực tại”.
Vì thế chàng đã đến nhà Elêna với ý định dứt khoát là gặp nàng xong rồi đi ngay để không bao giờ gặp lại.
Chàng không dám nói thẳng điều đó ra với nàng. Giữa hai người đã có gì đâu. Họ mới gặp nhau hôm qua trên một chuyến xe và chưa hề nói với nhau điều gì.
Anđecxen dừng lại trước cửa phòng và đưa mắt nhìn quanh. Trong một góc, bức tượng đầu nữa thần Đian (1) bằng đá trắng toát dưới ánh sáng của những cây đèn, hình như tái nhợt đi vì xúc động trước sắc đẹp của chính mình.
- Ai đã làm cho gương mặt bà trở thành bất tử trong pho tượng Đian kia vậy ? – Anđecxen hỏi.
- Cavôna (2) đấy, - Elêna trả lời và cúi mặt xuống. Hình như nàng đoán biết tất cả những gì đang xốn xang trong lòng chàng.
- Tôi đến đây để từ biệt bà, - Anđecxen lẩm bẩm bằng một giọng trầm ngâm, - Tôi chạy khỏi Vêrôn đây.
- Tôi biết anh là ai rồi, - nhìn thẳng vào mặt chàng, Elêna nói, - Anh là Krixtian Anđécxen, nhà thơ và người viết truyện cổ tích nổi tiếng. Nhưng hóa ra trong cuộc đời anh lại sợ chuyện cổ tích đến nỗi anh cũng chẳng có đủ nghị lực và can đảm cho một cuộc tình ngắn ngủi.
Anđecxen thú nhận:
- Đó là cây thập tự quá sức của tôi.
- Vậy thì nhà thơ phiêu lãng thân yêu của em, - Elêna chua chát nói và đặt tay lên vai Anđecxen, - Anh hãy chạy đi ! Chạy cho thoát ! Cầu cho đôi mắt anh mãi mãi tươi cười. Đừng nghĩ đến em. Nhưng nếu một ngày kia, tuổi già, nghèo nàn và bệnh tật có làm anh đau khổ thì anh chỉ cần nhắn cho em một lời, em sẽ đi bộ như cô Nicôlina nọ, vượt qua ngàn dặm, qua bao núi tuyết và sa mạc khô cằn để tới an ủi anh.
Nàng gieo mình xuống chiếc ghế bành và lấy tay che kín mặt. Những ngọn nến trên giá nổ lách tách.
Anđecxen nhìn thấy một giọt nước mắt long lanh rỉ qua những ngón tay nhỏ nhắn của Elêna rơi xuống vạt áo nhung và lăn đi.
Chàng xô tới, quỳ xuống trước mặt nàng, áp mặt vào đôi bàn chân ấm áp, rắn rỏi và dịu dàng của nàng. Elêna vẫn nhắm mắt, đưa tay ra ôm lấy đầu chàng, nàng cuối xuống và hôn vào môi chàng.
Giọt nước mắt nóng hổi thứ hai rơi xuống mặt chàng. Chàng cảm thấy vị mặn của nó.
- Anh đi đi ! – Nàng nói khẽ. - Cầu cho Nàng Thơ tha thứ mọi điều cho anh.
Chàng đứng dậy, cầm lấy mũ và bước vội ra ngoài.
Chuông chầu đổ hồi trên toàn thành Vêrôn.
Hai người không bao giờ gặp nhau nữa, nhưng luôn luôn nghĩ đến nhau.
Có lẽ vì thế ít lâu trước khi nhắm mắt Anđecxen đã nói với một nhà văn trẻ :
- Tôi đã trả bằng một giá đắt, có thể nói vô cùng đắt cho những chuyện cổ tích của tôi. Vì chúng, tôi đã từ bỏ hạnh phúc của mình và bỏ qua thời gian khi mà trí tưởng tượng, dù cho có mạnh và hào nhoáng đến mấy, cũng phải nhường chỗ cho thực tế.
Bạn hỡi, hãy biết vận dụng trí tưởng tượng không phải để gây ra đau buồn, mà để mang lại hạnh phúc cho mọi người và cho bản thân mình.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:26:04 GMT -5
BÌNH MINH MƯA Paustovsky
Tàu thuỷ đến Navôlôki vào nửa đêm. Thiếu tá Kuzmin bước ra boong. Trời mưa phùn. Bến vắng tanh, chỉ có một cây đền lồng leo lét.
Đâu, tỉnh ở đâu? Kuzmin nghĩ. Trời tối, mưa rơi. Thật chẳng ra làm sao hết!
Chàng co rúm người, cài lại cúc áo choàng da. Từ mặt sông, gió lạnh thổi vào. Kuzmin tìm thuyền phó, hỏi xem tàu có đỗ lâu ở Navôlôki không.
- Khoảng ba tiếng. - Thuyền phó trả lời. - Còn tuỳ việc dỡ hàng. Đồng chí hỏi làm gì? Đồng chí còn đi tiếp cơ mà.
- Tôi phải chuyển hộ anh bạn cùng nằm quân y viện một bức thư cho vợ anh ấy. Chị ấy ở đây, ở tỉnh này.
- Vậy thì anh phải đi thôi! - Thuyền phó thở dài. - Trời tối như mực. Nhớ nghe còi, kẻo rớt lại đấy nhé!
Kuzmin xuống bến, trèo lên trên những bậc thang trơn nơi bờ sông dựng đứng. Nghe có tiếng mưa rơi tí tách trong những bụi cây. Chàng dừng một lát cho mắt quen với bóng tối và nhìn thấy một cỗ xe xộc xệch với con ngựa buồn bã. Mui xe đã giương và từ trong xe vẳng ra tiếng ngáy.
- Này ông bạn! - Kuzmin nói lớn. - Ông ngủ quên để xe đi qua thiên đàng mất rồi.
Người đánh xe cựa mình, chui ra, hỉ mũi, lấy vạt áo lau, rồi mới hỏi:
- Đi hả? - Đi. Kuzmin đồng ý. - Đi đâu bây giờ? Kuzmin nói tên phố. - Thế thì xa. - Người đánh xe bối rối. - Mãi trên đồi kia. Ít nhất cũng phải chi một chai ngang đấy, ông ơi! Người đánh xe giật cương, giục ngựa. Chiếc xe uể oải chuyển bánh.
- Thế nào, bác là người đánh xe độc nhất ở Navôlôki này hay sao?
Kuzmin hỏi. - Có hai lão già chúng tôi thôi. Còn thì đang chiến đấu. Đồng chí đến nhà ai vậy? - Đến nhà Basilốp. - Tôi biết! - Ông già nhanh nhẹn ngoái lại. - Đồng chí đến thăm chị Onga Anđrêepna, con gái bác sĩ Anđrê Petrôvich, chứ gì! Chị ấy ở Maxcơva về đây, ở nhà cha từ năm ngoái. Bác sĩ mất đã hai năm! Nhưng nhà vẫn là của họ….
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:27:06 GMT -5
Xe lắc mạnh, nó kêu lọc xọc và rút được một bánh ra khỏi cái hố. - Bác nhìn đường cho cẩn thận. - Kuzmin khuyên. - Chớ trông ngang trông ngửa. - Đường với đất, rõ... - Người đánh xe lầu bầu. - Ban ngày mà đi con đưòng này đến phát sợ. Nhưng đêm thì không sao. Ban đêm không trông thấy ổ gà. Ông lão im lặng. Kuzmin châm thuốc, ngả người dựa hẳn vào phía trong. Mưa rơi lộp độp trên mui. Những con chó sủa xa. Mùi thìa là, mùi hàng rào ướt và hơi ẩm của sông bốc lên. “Ít nhất cũng đã một giờ sáng”, Kuzmin nghĩ. Thực vậy, quả chuông rạn trên một gác chuông nhà thờ đâu đấy điểm một tiếng ngay lập tức sau khi anh nghĩ. Giá mình cứ ở đây cho đến hết phép. Chàng lại nghĩ. Chỉ riêng không khí này cũng đủ làm tiêu tan những điều phiền muộn sau khi mình bị thương. Mình sẽ kiếm một căn phòng có cửa sổ mở ra vườn. Trong một đêm như đêm nay mình sẽ mở toang cửa sổ, nằm xuống trùm chăn kín mà nghe mưa gõ trên những cây ngưa bàng. - Vậy ra đồng chí là chồng chị ấy? Ông lão đánh xe hỏi. Kuzmin không đáp. Ông lão tưởng viên sĩ quan không nghe rõ nhưng không dám hỏi lại.
Đúng là chồng. Ông lão phán đoán. Thế mà thiên hạ nói láo là chị ấy đã bỏ chồng từ trước chiến tranh. Rất láo toét.
- Đồ quỷ! - Ông lão với lấy dây cương, cho con ngựa gầy còn da bọc xương một cái vụt. - Cứ sục vào chỗ lầy mà đi!
Thật vớ vẩn, tàu trễ, mãi đến đêm mới tới đây. Kuzmin nghĩ. Tại sao Basilốp (người bạn cùng nằm viện với anh) khi biết mình sẽ đi qua Navôlôki lại nhờ chuyển thư tận tay cho vợ anh ta? Thế là đành phải đánh thức họ dậy, có trời mới biết thiên hạ sẽ nghĩ gì về chuyện ấy!
Basilốp là một viên sĩ quan cao lớn, hay giễu cợt. Anh nói nhiều và thích tán dóc. Trước khi nói một câu gì sâu sắc, anh cười không ra tiếng một lúc đã. Trước kia, khi chưa được huy động vào quân đội, Basilốp giúp việc một đạo diễn điện ảnh. Tối nào anh cũng kể tỉ mỉ cho bạn bè cùng phòng nghe những cuốn phim nổi tiếng. Anh em thương binh thích nghe Basilốp kể, chờ đợi những câu chuyện của anh và ngạc nhiên vì trí nhớ của anh. Basilốp nhận xét một cách khắt khe đối với người, sự kiện và sách vở. Anh rất cứng cổ và giễu cợt bất cứ ai định phản đối mình. Nhưng Basilốp giễu cợt một cách ranh ma - dùng lối nói đùa cạnh khoé và người bị anh giễu thường hai ba giờ sau mới sực hiểu ra rằng mình bị Basilốp xỏ xiên và cố nghĩ câu trả lời cho thực cay độc. Nhưng tất nhiên là đã muộn. Một ngày trước khi Kuzmin đi, Basilốp đưa cho chàng một bức thư nhờ chuyển cho vợ mình và lần đầu tiên Kuzmin nhìn thấy trên mặt Basilốp một nụ cười bối rối. Rồi đêm ấy Kuzmin nghe thấy Basilốp trằn trọc trở mình và khụt khịt mũi trên giường. Có lẽ anh chàng cũng chẳng đến nỗi khô khan lắm, Kuzmin nghĩ. Hình như anh chàng đang khóc. Nghĩa là anh chàng yêu. Và yêu một cách nồng nhiệt nữa là khác.
Suốt cả ngày hôm sau Basilốp không rời Kuzmin nửa bước, thỉnh thoảng lại liếc nhìn chàng và tặng chàng chiếc bi đông phát cho sĩ quan. Lúc Kuzmin sắp lên đường họ cùng nhau uống cạn một chai vang mà Basilốp đã giấu được.
- Sao anh cứ nhìn tôi chằm chằm thế? Kuzmin hỏi. - Thiếu tá thân mến ạ, anh là một người tốt. - Basilốp đáp. - Anh có thể là một nghệ sĩ lắm. - Tôi làm nghề họa đồ. - Kuzmin trả lời. - Mà những người họa đồ vốn đã là những nghệ sĩ rồi. - Vì sao? Kuzmin trả lời lửng lơ: - Vì họ là những kẻ lang thang. - “Những kẻ lưu vong đất khách quê người, những kẻ lãng du và những nhà thơ”. - Basilốp giễu cợt tuyên bố.- Ai mà chả muốn được như họ, nhưng rồi chẳng làm nên gì hết. - Anh trích thơ ai đấy? - Của Vêlôsin. Nhưng vấn đề không phải là ở chỗ đó. Tôi nhìn anh như thế là vì tôi ghen với anh. - Anh ghen với tôi cái gì kia chứ?
Basilốp xoay đi xoay lại cái cốc trong tay, ngả lưng vào thành ghế và nhếch mép cười. Hai người ngồi ở cuối hành lang quân y viện, bên một chiếc bàn mây. Bên ngoài cửa sổ, gió uốn cong những cây non, reo lên trong lá và đưa bụi bay đi. Một đám mây trĩu nước từ ngoài sông đang tiến vào thành phố.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:28:04 GMT -5
- Tôi ghen gì với anh? - Basilốp hỏi lại và đặt bàn tay hồng hào của anh ta lên tay Kuzmin. - Tôi ghen với anh vì tất cả, ghen cả với bàn tay anh. - Tôi không hiểu gì hết. - Kuzmin nói và khẽ rụt tay ra. Bàn tay lạnh lẽo của Basilốp chạm vào làm chàng khó chịu. Nhưng để Basilốp khỏi nhận thấy điều đó, chàng cầm lấy chai rượu vang và bắt đầu rót. - Anh mà lại không hiểu! -Basilốp bực bội đáp. Anh ta im lặng một chút, nhìn xuống và nói. - Giá mà chúng ta được đổi chỗ cho nhau nhỉ! Nhưng thôi, nói chuyện ấy làm quái gì! Hai ngày nữa anh đã đến Navôlôki. Anh sẽ gặp Onga Anđrêepna. Nàng sẽ bắt tay anh. Vì thế mà tôi ghen. Giờ thì anh hiểu rồi chứ? - Sao anh lại nói thế! - Kuzmin bối rối. - Anh rồi cũng sẽ gặp vợ anh kia mà. - Nàng không phải là vợ tôi - Basilốp trả lời, giọng gay gắt. - May mà anh không dùng chữ “phu nhân”. - Kuzmin lẩm bẩm. - Nàng không phải là vợ tôi. - Cũng vẫn gay gắt như thế, Basilốp nói. - Nàng là tất cả. Tất cả cuộc đời tôi. Nhưng thôi ta không nói chuyện ấy nữa! Basilốp đứng lên và đưa tay cho Kuzmin: - Vĩnh biệt anh. Xin anh đừng giận tôi. Tôi cũng không đến nỗi tồi hơn những ngưòi khác.
Chiếc xe đi lên đê. Trời càng tối hơn. Trên những cây bạch liễu cổ thụ mưa ngái ngủ từ những chiếc lá lao xao rơi xuống. Vó ngựa đập trên cầu lát ván. “Xa thực!” Kuzmin thở dài và nói với ông lão đánh xe. -Bác đợi tôi bên cạnh nhà nhé! Rồi đưa tôi trở lại bến… - Được thôi - Ông lão bằng lòng ngay tức khắc và nghĩ. Không, thế thì không phải chồng rồi. Chồng thì thế nào cũng ở lại vài ba ngày chứ. Chắc người ngoài. Bắt đầu đến một con đường đá cuội. Chiếc xe lúc lắc, cái bệ bằng sắt kêu lạch cạch. Ông lão cho xe quặt sang vệ đường. Bánh xe êm ái lăn trên cát ẩm. Kuzmin lại suy nghĩ.
Basilốp bảo ghen với chàng. Tất nhiên, anh ta chẳng ghen gì hết. Chẳng qua anh ta đã dùng không đúng cái tự muốn nói ra. Sau cuộc trò chuyện với Basilốp bên cửa sổ bệnh viện, Kuzmin, ngược lai, bắt đầu thấy ghen với anh ta. “Lại không đúng từ rồi sao?” Kuzmin bực bội tự nhủ. Chàng không ghen. Chàng chỉ tiếc. Chàng tiếc rằng mình đã bốn mươi, nhưng chưa bao giờ có được một tình yêu như Basilốp. Lúc nào chàng cũng chỉ có một mình.
“Đêm, mưa rơi xào xạc trên những khu vườn hoang vắng, tĩnh lặng, sương mù từ những cánh đồng cỏ bay qua và thế là cả cuộc đời cũng qua nốt.” Không hiểu sao Kuzmin lại nghĩ như thế.
Chàng bỗng thấy muốn ở lại đây. Chàng yêu những tỉnh lỵ Nga, nơi đứng ở thềm nhà cũng có thể nhìn thấy những cánh đồng ở bên kia sông, những con đường rộng bò lên núi, những chiếc xe chở rơm trên những chuyến phà. Tình yêu ấy làm cho chính chàng cũng phải ngạc nhiên. Chàng sinh trưởng ở phương Nam trong một gia đình miền biển. Cha chàng để lại cho chàng tính ham thích tìm tòi, những bản đồ địa lý và cuộc sống lang thang. Vì thế chàng đã trở thành nhân viên họa đồ. Kuzmin đã coi việc chọn nghề là ngẫu nhiên. Chàng nghĩ, nếu sinh ra vào lúc khác, có khi mình đã là thợ săn hoặc người đi tìm đất mới. Chàng thích nghĩ về mình như thế, nhưng chàng đã nhầm. Tính tình chàng không có có gì giống người làm những nghề kia. Kuzmin nhút nhát và hiền lành đối với xung quanh. Những sợi tóc phơn phớt bạc tố cáo tuổi chàng. Nhưng nếu nhìn người sĩ quan tầm thước, gầy gò không ai dám đoán chàng quá ba mươi.
Chiếc xe ngựa cuối cùng rồi cũng đi vào tỉnh lỵ tăm tối. Chỉ có một ngọn đèn xanh cháy sáng sau cửa kính một ngôi nhà, chừng là hiệu thuốc. Đường phố dẫn lên núi. Người đánh xe bỏ chỗ ngồi, bước xuống cho xe nhẹ thêm. Kuzmin cũng xuống theo, chàng đi tụt lại sau xe một quãng và bất thần chàng cảm thấy cả cái kỳ quặc của đời mình. Ta đang ở đâu đây? - chàng nghĩ - Cái tỉnh lỵ Navôlôki nào đó, một nơi xa vắng, móng ngựa làm bật ra những tia sáng. Ở đâu đây có một thiếu phụ mà ta không biết. Ta phải chuyển cho nàng, giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này, một bức thư quan trọng và chắc chắn không phải là một bức thư vui. Hai tháng trước đang còn là mặt trận, nước Balan, con sông Vixoa êm đềm và rộng. Thực kỳ quặc! Và cũng thực là thú vị!
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:29:08 GMT -5
Xe đã đi qua đồi. Ông lão rẽ ngang vào một phố. Những đám mây đen có chỗ đã tản ra và trong cái đen tối trên đầu, đây đó lấp lánh một vì sao. Ngôi sao vụt ánh lên trong những vũng nước rồi lại tắt ngấm.
Xe dừng lại bên một ngôi nhà có chòi ở giữa. - Đến rồi! - Ông lão đánh xe nói. - Chuông ở cổng phía bên phải.
Kuzmin sờ soạng tìm thấy nắm chuông gỗ và kéo xuống nhưng chàng không nghe thấy chuông kêu, chỉ có tiếng rin rít của sợi giây thép gỉ.
- Ông cứ giật mạnh vào! Kuzmin làm theo. Ở sân trong sau nhà, quả chuông con lúc lắc. Nhưng trong nhà vẫn yên lặng như tờ, chắc chưa ai thức dậy.
- Ô... ô... ô...! - Ông lão ngáp. - Đêm mưa thế này người ta ngủ say bằng chết.
Kuzmin đợi một lát rồi giật mạnh hơn. Ở phòng lát gỗ có tiếng chân vẳng ra. Có người nào đến bên cửa sổ, dừng lại nghe ngóng rồi bực dọc hỏi: - Ai vậy? Muốn gì? Kuzmin định trả lời, nhưng ông lão đã nói trước. - Mở cửa ra, Macfa. - Ông lão nói. - Có người ở mặt trận về gặp chị Onga.
- Ai ở mặt trận về? - Giọng nói sau cửa vẫn chẳng dịu dàng hơn trước chút nào. - Chúng tôi chẳng đợi ai cả. - Không đợi, thế mà lại gặp đấy!
Cánh cửa hé mở. Trong bóng tối Kuzmin nói chàng là ai và vì sao chàng tới.
- Trời! - Người đàn bà đứng sau cửa sợ hãi kêu lên. - Ông rõ vất vả! Tôi mở cửa ngay bây giờ. Chị Onga đang ngủ. Mời ông vào, tôi sẽ đánh thức chị ấy dậy. Cửa mở, Kuzmin bước vào phòng treo áo tối mò.
- Ở đây có bậc. – Người đàn bà dặn, giọng nói đổi hẳn, dịu dàng. - Đêm hôm thế này mà ông cất công đến! Ông đợi cho một chút kẻo vấp. Tôi châm đèn ngay bây giờ, ở đây đêm mất điện.
Bà ta đi, còn Kuzmin ở lại phòng treo áo. Từ các phòng bay ra mùi trà và một mùi gì đó nữa, êm ái. Một con mèo bước ra, cọ mình vào chân Kuzmin, nó kêu gừ gừ rồi trở vào căn phòng tối như muốn mời Kuzmin đi theo mình.
Đằng sau cánh cửa hé mở hắt ra một ánh sáng run rẩy yếu ớt. - Mời ông. Người đàn bà nói.
Kuzmin bước vào. Người đàn bà cúi chào chàng. Đó là một bà lão tầm vóc cao, mặt hơi đen. Kuzmin cố giữ cho khỏi gây ra tiếng động, bước đi gần như rón rén. - Ông đừng ngại, đằng nào cũng phải đánh thức chị ấy. Bà lão mỉm cười. Kuzmin khe khẽ hỏi: - Ở đây có nghe rõ còi tàu ngoài biển không cụ? - Nghe rõ ông ạ! Rõ lắm! Cứ như tàu nọ nghe tàu kia thôi! Ông ngồi xuống đi.
Bà lão ra, Kuzmin ngồi xuống chiếc đi văng tựa gỗ. Chàng do dự khi móc túi lấy thuốc hút. Chàng bối rối và nỗi bối rối khó hiểu ấy làm chàng tức giận. Cái cảm giác bao giờ cũng có khi ta ban đêm vào nhà người khác, bước vào một cuộc sống không phải là của ta, đầy bí mật và những điều khó hiểu, xâm chiếm tâm hồn chàng. Cuộc sống ấy giống như một cuốn sách bỏ quên trên bàn ở trang sáu mươi lăm nào đó. Kuzmin nhìn vào trang giấy ấy và cố đoán xem cuốn sách nói về chuyện gì, có gì bên trong?
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:30:18 GMT -5
Ở trên bàn có một cuốn sách ngỏ thực. Kuzmin đứng dậy cúi xuống và vừa lắng nghe tiếng thì thào vội vã bên kia cánh cửa và tiếng áo phụ nữ sột soạt, vừa đọc thầm những dòng chữ chàng quên bẵng từ lâu:
Cái không thể đã thành có thể Con đường dài hóa dễ với ta Nhọc nhằn chi mấy cũng qua Cuối đường tìm kiếm khi ta thấy nàng
Kuzmin ngẩng đầu lên, nhìn quanh. Căn phòng thấp và ấm áp một lần nữa lại làm chàng muốn ở lại tỉnh lỵ này.
Căn phòng với ngọn đèn treo trên bàn ăn, chụp đèn trắng đục, đôi sừng tuần lộc đóng trên bức tranh vẽ con chó bên giường bệnh một em bé gái, có một thứ ấm cũng đặc biệt vô tả. Những căn phòng như thế bao giờ cũng làm ta phải mỉm cười bởi mọi vật ở đó đều cổ lỗ, từ lâu ta đã lãng quên.
Mọi vật chung quanh, đến cái gạt tàn bằng vỏ ốc màu hồng đều chứng tỏ một cuộc sống dài và bình thường làm cho Kuzmin lại nghĩ rằng giá chàng được ở lại đây và sống như những người chủ ngôi nhà cũ kỹ này đã sống một cuộc sống không vội vã, làm rồi nghỉ ngơi, xuân rồi lại đông và những ngày nắng ngày mưa xen kẽ.
Nhưng bên cạnh các đồ vật cũ kỹ, trong phòng còn có những thứ khác. Trên bàn cắm một bó hoa đồng nội: hoa cúc, hoa phế hình, hoa thanh lung trà dại. Hoa chắc vừa mới hái. Chiếc kéo và những cành hoa bị cắt bỏ nằm trên khăn bàn.
Và bên cạnh là tập thơ “Con đường dài hoá dễ với ta” để ngỏ của Blôck. Chiếc mũ phụ nữ nhỏ nhắn màu đen đặt bên cuốn sách bìa nhung lam đặt trên mặt đàn dương cầm. Cái mũ hoàn toàn không cổ chút nào, rất hợp thời trang. Một chiếc đồng hồ con, dây mạ kền vứt cẩu thả trên bàn. Đồng hồ chạy rất êm, kim đồng hồ chỉ một giờ rưỡi… Mùi nước hoa bao giờ cũng phảng phất buồn, nhất là trong đêm khuya khoắt như đêm nay.
Một cánh cửa kính để mở. Bên ngoài cánh cửa, đằng sau những chậu thu hải đường, một bụi tử đinh hương ướt nước mưa lấp lánh dưới ánh sáng yếu ớt từ trong phòng lọt ra qua cửa kính. Mưa bụi thì thào trong bóng tối. Những giọt nước nặng hối hả đập vào lòng máng.
Kuzmin lắng nghe tiếng nước rơi, ý nghĩ về sự qua đi không thể nào lấy lại mỗi khoảnh khắc nhỏ nhất của thời gian, cái ý nghĩ dằn vặt con người thế kỷ này qua thế kỷ khác, đã đến với chính chàng lúc này, ban đêm, trong ngôi nhà xa lạ, và từ ngôi nhà ấy, một phút nữa thôi, chàng sẽ ra đi và không bao giờ trở lại.
Do tuổi già mà mình nghĩ thế hay sao? Kuzmin nghĩ và quay lại.
Một thiếu phụ vận đồ đen đứng ở ngưỡng cửa. Thiếu phụ hẳn vì vội ra tiếp khách nên chưa chải đầu cẩn thận. Một bím tóc rơi trên vai, và thiếu phụ, mắt vẫn không rời Kuzmin bối rối mỉm cười, nâng nó lên, lấy trâm cài vào đám tóc ở gáy. Kuzmin nghiêng người chào thiếu phụ. Nàng đưa tay cho chàng và nói: - Xin lỗi anh. Tôi đã làm anh phải đợi. - Chị là Onga Anđrêepna? - Vâng.
Kuzmin nhìn thiếu phụ. Dáng trẻ trung với đôi mắt long lanh, sâu và hơi mờ của thiếu phụ làm chàng sửng sốt.
Kuzmin xin lỗi vì đã làm phiền rồi móc trong túi áo, lấy bức thư của Basilốp ra đưa cho tiếu phụ. Nàng cầm lấy, cám ơn chàng và đặt bức thư lên mặt đàn dương cầm , không đọc.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:32:28 GMT -5
- Kìa, chúng ta cứ đứng mãi! - Nàng nói - Mời anh ngồi! Anh ngồi gần bàn đây này. Ở đây sáng hơn. Kuzmin ngồi xuống bên bàn và xin phép được hút thuốc.
- Anh cứ tự nhiên. - Nàng nói. - Tôi cũng xin được hút cùng anh.
Luzmin mời nàng và đánh diêm. Khi thiếu phụ châm lửa, ánh diêm hắt lên mặt nàng và chàng thấy khuôn mặt trầm tư với vầng trán thanh sạch của nàng có vẻ quen quen đối với chàng.
Onga ngồi xuống, đối diện với Kuzmin. Chàng chờ đợi những câu hỏi, nhưng nàng chỉ im lặmg và nhìn ra cửa sổ, nước mưa vẫn đều đều xào xạc.
- Macfa! - Onga nói và quay về phía cửa. - Bà đặt giúp tôi ấm chè.
- Không, không! - Kuzmin hốt hoảng. - Tôi phải đi ngay bây giờ. Người đánh xe còn đợi ngoài phố. Tôi chỉ định chuyển bức thư cho chị và nói với chị tin tức về… anh ấy.
- Có gì đáng nói đâu! - Onga trả lời, rút trong bó hoa ra một bông hoa cúc và tàn nhẫn vặt từng cánh. - Anh ấy còn sống thế là tôi mừng.
Kuzmin im lặng. - Anh đừng đi vội. - Onga nói, bình dị như nói với một người bạn cũ. - Ở đây nghe rõ còi tàu. Chắc chắn tàu thuỷ chỉ chạy được trước khi trời sáng.
- Sao vậy?
Bà Macfa từ bên buồng chõ sang:
- Tại ở vùng này, phía dưới Navôlôki có một con bương lớn dưới dòng sông. Đêm hôm đi qua đấy nguy hiểm lắm. Vì thế các thuyền trưởng cứ phải chờ đợi trời sáng.
- Đúng như vậy. - Onga xác nhận. - Từ đây ra bến đi bộ chỉ hết mười lăm phút, nếu qua lối vườn hoa. Tôi sẽ tiễn anh. Còn bác đánh xe thì anh cho về thôi. Ai chờ anh? Có phải bác Vaxili không?
- Cái đó thì tôi lại không biết. Kuzmin mỉm cười.
- Timôfây chở ông ấy tới đây! - Bà lão từ cửa phòng bên báo sang. Nghe rõ cả tiếng bà lắp ống khói cho ấm xamôva kêu long xong. - Ít nhất ông cũng phải uống trà đã. Chưa chi vừa mới ở ngoài mưa vào đã lại định ra mưa.
Kuzmin nhận lời. Chàng ra cửa trả tiền xe. Ông lão chưa đi vội, còn loay hoay bên con ngựa, chữa lại thắt đai.
Khi chàng trở vào thì bàn đã dọn. Những chiếc chén cũ màu xanh tô chỉ vàng, một bình sữa hâm nóng, mật ong và một chai rượu vang mới mở. Bà Macfa mang ấm xamôva vào.
Onga xin lỗi vì tiếp khách quá đạm bạc. Nàng nói đã chuẩn bị trở lại Maxcơva, nhưng hiện giờ vẫn còn tạm làm việc ở Navôlôki, tại thư viện tỉnh. Kuzmin đợi mãi xem rồi nàng có hỏi gì đên Basilốp không, nhưng nàng không hỏi. Vì thế chàng mỗi lúc một bối rối thêm. Từ khi vẫn còn nằm quân y viện chàng đã đoán giữa vợ chồng Basilốp có chuyện lủng củng. Nhưng lúc này, sau khi thấy Onga không đọc mà lại đặt thư lên bàn thì chàng tin mình đã đoán đúng. Và chàng cảm thấy như mình chưa tròn trách nhiệm đối với Basilốp và có lỗi nhiều trong chuyện đó. Chắc Onga sẽ đọc thư sau, chàng nghĩ. Nhưng chàng biết rõ một điều là bức thư mà Basilốp coi trọng, vì nó mà chàng phải tới ngôi nhà này vào một giờ bất tiện, đã không còn cần thiết và chẳng thú vị gì đối với người nhận. Thành thử Kuzmin đã không giúp gì được cho Basilốp mà còn đặt mình vào một tình thế khó xử. Onga như đoán được ý nghĩ của chàng, nàng nói:
- Anh đừng giận. Bưu điện có, điện tín có, không hiểu sao anh ấy lại còn phiền anh làm gì. - Có phiền gì đâu! - Kuzmin vội nói và sa u khi yên lặng một lát, chàng tiếp. - Ngược lại, còn rất tốt nữa là khác.
- Anh nói cái gì tốt kia? Kuzmin đỏ mặt.
- Cái gì tốt kia? - Onga hỏi lại, lần này nàng nói to hơn và ngước mắt nhìn Kuzmin. Nàng nhìn chàng, như cố đoán xem chàng nghĩ gì, một cách nghiêm nghị, người đưa hẳn về phía trước, chờ câu trả lòi. Nhưng Kuzmin chỉ im lặng.
- Anh nói đi, cái gì tốt? Nàng hỏi lại một lần nữa.
- Biết nói với chị thế nào. - Kuzmin suy nghĩ, trả lời. - Đó là một câu chuyện đặc biệt. Tất cả những gì ta yêu mến thì ta lại ít gặp. Không biết người khác thế nào chứ tôi nghiệm bản thân thì đúng như vậy. Mọi điều tốt lành hầu như bao giờ cũng chỉ đi lướt bên ta. Chị hiểu ý tôi chứ?
- Tôi không hiểu lắm. Onga trả lời và nhíu đôi lông mày.
- Giải thích như thế nào để chị hiểu đây? - Kuzmin nói. Chàng tự giận mình. - Chắc là chuyện đó cũng xẩy ra cả với chị. Từ trong cửa sổ toa tàu, chị bất thần trông thấy một cánh rừng bạch dương thưa thớt với một lưới mạng nhện mùa thu ánh lên trong nắng và thế là chị muốn nhẩy ngay ra giữa lúc tàu đang chạy để được ở lại cánh rừng ấy. Nhưng con tàu cứ đi qua. Chị nhoai người ra ngoài cửa sổ và nhìn lại những cánh rừng, những bãi cỏ rộng, những con ngựa, những nẻo đường làng đang vùn vụt chạy về phía sau và chị nghe thấy một tiếng reng reng mơ hồ. Vật gì kêu, chị không biết. Có thể là rừng hay không khí, hay tiếng rít của những giây điện thoại. Mà cũng có thể đó là tiếng reo của những thanh ray khi tàu chạy. Cái đó chỉ ánh lên trong khoảnh khắc nhưng ta chờ mãi suốt đời. Kuzmin im lặng. Onga đẩy cốc vang lại phía chàng.
- Trong đời tôi. - Kuzmin nói và đỏ ửng mặt, chàng bao giờ cũng đỏ mặt khi phải nói về mình, - tôi vẫn hằng chờ đợi những chuyện bất ngờ và đơn giản ấy. Và nếu tôi gặp chúng, ấy là tôi hạnh phúc. Tuy chúng ngắn ngủi, nhưng tôi cũng đã từng gặp.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:33:19 GMT -5
- Và bây giờ cũng vậy ư? - Onga hỏi. - Vâng! Onga nhìn xuống. - Vì sao? - Nàng hỏi. - Tôi không rõ. Nhưng tôi có cảm giác như vậy. Tôi bị thương trên sông Vixoa, rồi nằm quân y viện. Mọi người đều có thư từ gửi đến, riêng tôi thì không. Chẳng qua chỉ vì tôi chẳng có ai viết cho. Tôi nằm và tưởng tượng đến cuộc sống tương lai của mình sau chiến tranh như mọi người thường tưởng tượng. Tương lai ấy nhất định phải hạnh phúc và khác thường. Rồi tôi khỏi và người ta quyết định cho tôi đi nghỉ. Họ chỉ định một thành phố.
- Thành phố nào? - Onga hỏi. Kuzmin nói tên thành phố. Onga không nói gì. - Tôi xuống tàu. - Kuzmin nói tiếp. - Làng mạc ở hai bên bờ, những bến tàu. Và cảm giác cô đơn chán ngấy. Tôi xin chị, chị đừng nghĩ rằng tôi than phiền. Trong cô đơn cũng có nhiều cái tốt. Rồi Navôlôki. Tôi sợ ngủ quên. Đêm khuya tôi ra boong tàu và suy nghĩ: thực là lạ lùng vì trong bóng tối bao la trùm kín cả nước Nga, dưới bầu trời rả rích mưa, có hàng nghìn người khác nhau đang ngủ một cách yên lành. Rồi tôi đi xe ngựa đến đây và cứ đoán mãi: người tôi sẽ gặp là ai?…
- Nhưng điều gì làm anh hạnh phúc kia chứ? Onga hỏi. - Không... - Kuzmin sực tỉnh. - Nói chung là tốt. Anh im lặng. - Kìa anh? Nói đi chứ! - Nói gì kia? Tôi nói thế đã nhiều lời lắm, tôi đã nói những điều không đáng nói.
- Anh cứ nói hết. - Onga trả lời. Nàng như không nghe rõ những từ cuối cùng trong câu nói của chàng. - Nói tất cả những gì anh muốn. - Nàng nói thêm. - Dù cho điều đó có hơi kỳ quặc đi chăng nữa. Nàng đứng dậy đến bên cửa sổ, gạt chiếc rèm sang một bên. Mưa vẫn không ngớt. - Chị nói cái gì kỳ quặc kia? Kuzmin hỏi. - Mưa vẫn rơi! - Onga nói và quay lại. - Đấy, cuộc gặp gỡ như thế này. Và tất cả câu chuyện đêm khuya giữa chúng ta. Cái đó chẳng kỳ quặc hay sao? Kuzmin bối rối im lặng.
Trong bóng tối ẩm ướt bên ngoài cửa sổ, ở một nơi nào đó dưới chân đồi, con tàu rúc lên. - Thôi! - Onga nói như trút được gánh nặng. - Còi rồi! Kuzmin đứng dậy. Onga vẫn không nhúc nhích. - Gượm đã, - nàng nói, bình tĩnh. - Chúng ta ngồi với nhau một lát trước khi anh lên đường. Như tục cũ ngày xưa.
Kuzmin lại ngồi xuống. Onga cũng ngồi xuống, suy nghĩ và quay mặt đi, không nhìn Kuzmin. Chàng đưa mắt nhìn đôi vai nàng nhô lên, nhìn những bím tóc dày búi sau gáy, đường cong thanh tao nơi cổ nàng và nghĩ rằng nếu không có Basilốp thì chàng sẽ chẳng rời bỏ cái tỉnh lỵ này mà đi đâu hết. Chàng sẽ ở đây cho đến hết hạn nghỉ phép và sẽ sống, bồi hồi biết rằng bên cạnh chàng có người thiếu phụ đáng yêu và rất buồn bã giờ đây.
Onga đứng dậy. Trong phòng áo chật hẹp, Kuzmin giúp nàng khoác áo mưa. Onga lấy khăn, choàng lên đầu.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 22, 2004 14:34:17 GMT -5
Hai người ra khỏi nhà, im lặng đi bên nhau trên đường phố tối. - Trời sắp sáng. - Onga nói. Bầu trời sũng nước đã rạng xanh bên kia sông, Kuzmin thấy Onga rùng mình. - Chị lạnh à? - Chàng lo lắng. - Chị tiễn tôi thật vô ích. Tự tôi, tôi cũng có thể tìm được đường ra bến. - Không, không vô ích đâu. Onga trả lời ngắn ngủi.
Mưa đã qua nhưng những giọt nước vẫn từ trên mái nhà rơi lộp độp xuống hè phố lát gỗ.
Vườn hoa kéo dài tới tận cuối phố. Cổng mở. Liền sau cổng là những con đường rậm rạp, bỏ hoang, không người chăm sóc. Trong vườn có mùi lá ướt, hơi lạnh của đêm khuya. Đó là một khu vườn cũ, đen ngòm những cây bồ đề cao lớn. Chúng đã rụng hết hoa và đã hơi yếu ớt. Chỉ mỗi một lần gió ào ào kéo qua là cả khu vườn xao động tưởng chừng như có một trận mưa rào nặng hạt vừa đổ xuống rồi lại tạnh ngay.
Cuối vườn là bờ sông dựng đứng trên mặt nước và bên kia là những chân trời trước rạng đông ướt sũng nước mưa, ánh phù tiêu mờ mờ phía dưới, sương mù, tất cả nỗi buồn những ngày mưa mùa hạ.
- Ta xuống thế nào đây? Kuzmin hỏi. - Anh lại đây. Onga rẽ theo con đường thẳng tuột tới bờ sông dựng đứng, đứng bên cầu thang gỗ bắc xuống dưới và mất hút trong bóng tối.
- Anh đưa tay đây. - Onga nói. - Chỗ này có nhiều bậc thang mục. Kuzmin đưa tay cho nàng và hai người thận trọng lần xuống. Giữa những bậc thang là cỏ ớt nước mưa. Bậc bục gỗ cuối cùng, họ dừng lại. Đã trông rõ bến, những ngọn đèn xanh đỏ của con tàu. Hơi nước rít lên. Tim Kuzmin se lại, chàng nghĩ rằng, ngay bây giờ thôi, chàng sẽ phải chia tay với người thiếu phụ không quen biết nhưng lại gần gũi biết bao, chia tay với nàng mà không nói được gì; không nói gì hết. Cũng chẳng cám ơn nàng đã gặp chàng trên đường đời, đã đưa cho chàng bàn tay nhỏ bé, vững chãi sau lần bao tay ẩm, thận trọng dẫn chàng đi trên chiếc cầu thang ọp ẹp và cứ mỗi lần có một cành cây ướt sũng rủ xuống phía trên tay vịn có thể vướng vào mặt chàng thì nàng lại nói khẽ “Anh cúi đầu xuống”. Và chàng ngoan ngoãn vâng theo.
- Chúng ta chia tay nhau ở đây thôi. - Onga nói. - Tôi không đi hơn nữa đâu.
Kuzmin đưa mắt nhìn nàng. Qua nếp khăn choàng, đôi mắt Onga nghiêm nghị lo lắng nhìn chàng. Có lẽ nào giờ đây, trong phút này thôi, tất cả sẽ đi vào dĩ vãng và sẽ trở thành một trong những kỷ niệm xót xa trong cả đời nàng và trong cả đời chàng?
Onga đưa tay cho Kuzmin. Chàng hôn tay nàng và lại thấy vẫn cái mùi nước hoa thoang thoảng mà chàng đã thấy trong căn phòng tối, giữa tiếng mưa rơi xào xạc.
Khi chàng ngẩng đầu lên, Onga nói một câu gì, nhưng khẽ đến nỗi chàng không nghe rõ. Chàng ngờ rằng nàng chỉ nói độc một tiếng “Vô ích…” Có lẽ nàng còn nói điều gì nữa, nhưng con tàu dưới sông đã gầm lên, than thở vì buổi bình minh ẩm ướt, vì cuộc sống lang thang của nó trong những ngày mưa và trong những buổi sương mù.
Kuzmin chạy lên bờ sông, không ngoái lại. Chàng đi qua bến sông thoang thoảng mùi vỏ cây và mùi hắc ín, trèo lên tàu và bước ngay lên boong vắng tanh vắng ngắt. Con tàu bắt đầu rời bến, chân vịt quay chậm chạp.
Kuzmin đi lại đằng lái, nhìn về bờ sông dựng đứng, nhìn cái cầu thang: Onga vẫn đứng đấy. Trời hửng sáng và khó mà nhìn rõ ràng. Kuzmin giơ tay lên nhưng nàng không vẫy lại.
Con tàu mỗi lúc một đi xa, dồn vào đôi bờ cát những đợt sóng dài, làm những phù tiêu trên sóng lúc lắc và tiếng dội của những bụi miên liễu bên bờ đáp lại tiếng chân vịt vội vã của con tàu.
|
|