|
Post by Robot on Jan 18, 2004 3:06:56 GMT -5
Xe gắn máy chạy hai nhiên liệu: Sáng chế độc đáo “made in Việt Nam” Một chiếc xe honda sử dụng hai nhiên liệu gas và xăng - sáng chế độc đáo và duy nhất trên thế giới do GS - TSKH Bùi Văn Ga - Hiệu trưởng trường Cao đẳng Công nghệ Đà Nẵng làm chủ đề tài đã được Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ trao Huy chương vàng tại Chợ Công nghệ và Thiết bị Việt Nam 2003. Một ngày đầu xuân 2002, chiếc Wave biển kiểm soát 43K5-4079 lắp bộ chế hòa khí sử dụng hai nhiên liệu gas và xăng bắt đầu cuộc hành trình chinh phục Hải Vân đệ nhất hùng quan. Trong bình gas lúc này chứa đầy 1,3kg khí hóa lỏng LPG, bình xăng dự trữ nạp đúng 1 lít. 7 giờ 30 xe rời trường Cao đẳng Công nghệ Đà Nẵng thẳng hướng QL1A lên Hòa Khánh, qua phường Hòa Hiệp với tốc độ bình quân 50km/giờ. Đến chân đèo Hải Vân, những người tham gia cuộc thử nghiệm cảm thấy “nóng lên” khi tăng ga ôm cua cùi chỏ đầu tiên. Tốc độ vẫn giữ nguyên, xe chạy số 4 cho đến gần đỉnh đèo. Chỉ còn một khúc cua quanh nguy hiểm nhất, cao nhất là đỉnh Hải Vân bị chinh phục! Lúc này, có 2 - 3 xe tải ôm cua, đổ dốc hướng về Đà Nẵng. Mất trớn do phải tránh xe tải, “bác tài” Phan Thế Tùng trả số 3, rồi số 2. Xe Wave nhẹ nhàng vọt lên, thẳng tiến về đỉnh đèo Hải Vân (giáp ranh giữa Đà Nẵng và Thừa Thiên - Huế ). Thật hoàn hảo, tình trạng kỹ thuật xe rất tốt, nhiệt độ bloc máy bình thường. Thẳng đà, nhóm thử nghiệm cho xe đổ đèo Hải Vân ra vịnh Lăng Cô, rồi leo đèo Phú Gia... Nghỉ ngơi chưa đầy 30 phút, chuyến hành trình ngược về Đà Nẵng - nơi xuất phát - cũng đã diễn ra suôn sẻ, bỏ lại phía sau 182km đường trường và đèo dốc nguy hiểm. Sau này, các chuyến thử nghiệm thường xuyên trên tuyến Đà Nẵng - Hội An, Đà Nẵng - Tuý Loan, Đà Nẵng - Tam Kỳ... đều cho những kết quả vượt xa mong đợi, tốc độ trung bình 55 - 60km/h, tốc độ cực đại lên đến 82km/h. Tiêu hao nhiên liệu giảm trên 25% (100km đường trường sử dụng 1,1 kg gas; 100km đường đèo dốc sử dụng hết 1,3kg gas), đặc biệt lượng chất thải ô nhiễm giảm từ 70 – 80% so với sử dụng xăng. Sẵn sàng xuất xưởng 1 triệu chiếc mỗi năm Được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp bằng độc quyền sáng chế (8/2003), rồi Bộ Khoa học và Công nghệ trao Huy chương vàng tại “Chợ Công nghệ và Thiết bị Việt Nam -- 10/2003”, xe gắn máy chạy bằng gas - xăng và những phụ tùng chuyển đổi... đã được các đối tác trong và ngoài nước nhanh chóng vào cuộc đón đầu. Một trạm cung cấp gas cho xe ô tô và xe gắn máy đã được Chi nhánh Gas Đà Nẵng lên kế hoạch xây dựng, sẵn sàng nạp gas tự động cho các loại xe này. Trong khi đó, một bản ghi nhớ giữa nhóm nghiên cứu với Công ty Cơ khí Hai Thành (TP Hồ Chí Minh) về sản xuất bình gas cho xe gắn máy đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn quốc tế cũng đã được ký kết. Ngoài ra, Công ty Cơ khí ô tô và Thiết bị điện Đà Nẵng cũng tham gia sản xuất hàng loạt các phụ kiện của hệ thống nhiên liệu LPG cho xe gắn máy. Cuối cùng, GS-TSKH Bùi Văn Ga bật mí, một công ty của Pháp đã ký văn bản ghi nhớ xây dựng một nhà máy sản xuất xe gắn máy chạy hai nhiên liệu có công suất 1 triệu chiếc/mỗi năm đảm bảo tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. GS-TSKH Bùi Văn Ga với chiếc xe máy chạy bằng hai loại nhiên liệu
|
|
|
Post by Robot on Jan 18, 2004 3:07:22 GMT -5
Hành trình mười năm
Sau thành công trong việc nghiên cứu ứng dụng đưa xe gắn máy chạy bằng hai nhiên liệu xăng và gas, GS-TSKH Bùi Văn Ga đã phối hợp với Công ty Cơ khí và Thiết bị Điện Đà Nẵng tiếp tục cải tiến và cho chạy thử nghiệm xe buýt sử dụng nhiên liệu bằng gas thay thế cho các xe ba, bốn bánh. Loại xe này được thiết kế để chở từ 6 - 8 người, tiêu tốn từ 5 - 5,5kg gas cho 100ki lô mét. Dự án sản xuất hàng loạt xe buýt loại này đang được đệ trình lên các cơ quan hữu quan xem xét và có thể xuất xưởng trong năm 2004.
Ý tưởng thực hiện công trình bắt đầu từ những năm chàng trai Bùi Văn Ga làm nghiên cứu sinh tại Cộng hòa Pháp với đề tài giảm ô nhiễm môi trường do các phương tiện ô tô vận tải gây ra. Tại Việt Nam có trên 10 triệu xe mô tô, gắn máy lưu thông, lượng khí độc hại do các loại xe này thải ra cũng không thua kém so với các thành phố lớn trên thế giới sử dụng xe ô tô. “Trăn trở mãi với những câu hỏi tại sao phải đi theo lối mòn do người khác đã vạch ra mà không tự tìm con đường riêng phù hợp với đất nước ta. Vậy là mình chuyển từ đề tài nghiên cứu giảm thiểu ô nhiễm do ô tô sang xe gắn máy với mong muốn hạn chế lượng khí thải ô nhiễm độc hại tại quê nhà” - GS-TSKH Bùi Văn Ga nhớ lại. Đó là thời điểm năm 1991, khi ông làm nghiên cứu sinh bậc 2.
Về nước, một chiếc Honda Cup 70 đời 79 được “thay xác” với bộ chế hòa khí chỉ dùng nhiên liệu là gas. Đưa ra chạy thử, rất nhiều người nhìn thấy đã phì cười và không ít người chạy theo chỉ trỏ, rồi đòi đua một vòng chơi! Bởi lúc đó phải cột một bình gas lớn phía sau - y như bây giờ người ta chở gas đi giao cho các nhà bếp. Tuy vậy, hiệu quả mang lại khá tuyệt vời: Xe chạy nhanh, nhiên liệu tiêu hao và lượng khí thải ít... Thế nhưng, vướng mắc mới nảy sinh, nhiều người chưa quen việc sử dụng gas và địa điểm cung cấp gas rất hiếm. “Chẳng lẽ lại bó tay xin thua trong khi nước ta, hàng loạt mỏ dầu khí được tìm thấy và dự án xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên sắp được triển khai. Bằng mọi giá phải làm cái gì đó có lợi cho người tiêu dùng” - GS. TSKH Bùi Văn Ga tâm sự. Thế là, lại vùi đầu vào những con số, bản vẽ, chi tiết từng loại ốc vít, chỗ đặt bình gas, bình xăng ở đâu cho hợp lý mà không thay đổi kiểu dáng của xe..., lại quên ăn, giảm ngủ hơn một năm ròng, bộ chế hòa khí và những thiết bị phụ trợ mới được “giải mã” với những tính năng độc đáo nhất trên thế giới!
Việc sử dụng xe gắn máy, xe buýt chạy trong khu vực nội thị chạy bằng LPG sẽ làm tăng nhanh chóng lượng khách hàng tiêu thụ LPG đối với các nhà máy lọc dầu. Bên cạnh đó, sử dụng LPG sẽ góp phần làm đa dạng hoá nguồn năng lượng sử dụng cho giao thông vận tải và thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp dầu khí.
(GS.TSKH Bùi Văn Ga) Hơn 10 năm với hàng trăm thí nghiệm khác nhau được cày xới, thay đổi và cũng chừng ấy năm mong ước được đóng góp một chút công sức vì môi trường trong sạch cho quê hương của GS.TSKH Bùi Văn Ga cuối cùng đã thành hiện thực. Khi xe gắn máy sử dụng hai nhiên liệu chính thức được biết đến và sẵn sàng vào cuộc chinh phục mới, GS.TSKH Bùi Văn Ga chia sẻ bí quyết: “Có sức trẻ, trí tuệ, nhiệt huyết, lòng tự trọng và niềm đam mê khoa học sẽ giúp cho chúng ta dễ dàng vượt qua khó khăn, chinh phục thử thách...”
Hữu Trà
|
|
|
Post by Robot on Mar 3, 2004 4:30:25 GMT -5
Chương trình giáo dục bảo vệ môi trường sống
TT (TP.HCM) - Chương trình giáo dục bảo vệ môi trường sống do Vườn quốc gia Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) tổ chức đã lên ba tuổi. Hàng trăm lượt học sinh đang theo học tại Trường THPT Võ Thị Sáu và Trường tiểu học Cao Văn Ngọc đã được tham gia chương trình này.
Giáo viên của hai trường được tập huấn kiến thức và kỹ năng truyền thông, sau đó triển khai các tiết học về môi trường như hệ sinh thái rừng và biển, các loài động vật quí hiếm, ảnh hưởng của rác thải đối với môi trường sống...
Ngoài hình thức hoạt động của các câu lạc bộ bảo tồn hay chương trình “Cây là bạn của chúng ta” trong nhà trường, các bạn trẻ còn được tham gia các chuyến dã ngoại và hòa mình vào các trò chơi mang tính giáo dục bảo vệ môi trường sinh thái...
THÁI BÌNH
|
|
|
Post by Robot on Mar 9, 2004 6:46:11 GMT -5
Khu vực Hòn Bà: 100 loài ðộng, thực vật có tên trong Sách Ðỏ Các nhà khoa học ðã thống kê ðýợc tại khu vực Hòn Bà, tỉnh Khánh Hoà, có 41 loài thực vật và 59 loài ðộng vật quý hiếm có tên trong sách Ðỏ. Tại ðây hiện có 559 loài thực vật nhiệt ðới bao gồm 401 chi, 120 họ thực vật bậc cao và 4 lớp chim, thú thuộc 27 bộ, 88 họ với 255 loài.
Theo báo cáo kết quả nghiên cứu, khảo sát khu vực Hòn Bà giai ðoạn 1, khu vực Hòn Bà có tổng diện tích rừng và ðất rừng gần 21.000ha, phân bố ở ðộ cao từ 500-1.500m so với mặt biển và trải dài trên ðịa phận 3 huyện Diên Khánh, Khánh Sõn và Khánh Vĩnh.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hoà cũng ðã cho phép Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm và phát triển rừng của Trýờng Ðại học Lâm nghiệp triển khai giai ðoạn 2 với mục tiêu chính là xây dựng các phýõng án tối ýu kết hợp bảo vệ tài nguyên rừng với nghiên cứu khoa học và quản lý khai thác du lịch sinh thái trên ðỉnh Hòn Bà.
TTXVN
|
|
|
Post by Robot on Mar 9, 2004 6:48:11 GMT -5
Nhà máy sản xuất máy tính FPT ELead: Quản lý môi trýờng theo ISO 14000 17:37' 08/03/2004 (GMT+7)
(VietNamNet) - Ðýợc BVQI cấp giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn ISO 14000 vào tháng 1/2004, nhà máy sản xuất máy tính thýõng hiệu ELead của Công ty FPT có thêm lợi thế cạnh tranh riêng biệt và thuận lợi khi xuất khẩu máy tính, do thị trýờng ở các nýõìc phaìt triêÒn quen choòn haÌng hoaì cuÒa môòt tôÒ chýìc coì hêò thôìng quản lý môi trýờng hiêòu quaÒ nhý ISO 14000.
Các máy tính ELead ðã test xong. Từ những ngày ðầu thành lập, nhà máy FPT ELead ðã bắt ðầu xây dựng hệ thống quản lý chất lýợng và môi trýờng theo tiêu chuẩn quốc tế. Từ hệ thống quản lý chất lýợng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 ðến hệ thống quản lý môi trýờng theo tiêu chuẩn ISO 14001:1996, tất cả ðều ðýợc ðầu tý xây dựng một cách bài bản.
Các yêu cầu trong ISO 14000 có rất nhiều ðiểm týõng ðồng với tiêu chuẩn ISO 9001 nhý: kiểm soát tài liệu, kiểm soát hồ sõ, chính sách, mục tiêu, ðánh giá nội bộ, khắc phục phòng ngừa,... Còn lại là một số yêu cầu riêng biệt liên quan ðến môi trýờng nhý: xác ðịnh khía cạnh môi trýờng, xác ðịnh và tuân thủ các yêu cầu pháp luật và các yêu cầu khác, chuẩn bị ứng phó tình trạng khẩn cấp, giám sát và ðo lýờng,...
Chính sách môi trýờng của nhà máy phù hợp với tiêu chuần ISO 14000 ngay từ khi mới thành lập, Việc aìp duòng tiêu chuâÒn ISO 14000 mang lại một số lợi ích ðáng kể cho nhà máy FPT ELead: Tiết kiệm chi phí ðầu vào thông qua việc kiểm soát và sử dụng tiết kiệm, hợp lý nguồn nãng lýợng, nýớc, nguyên vật liệu. Ngãn ngýÌa ô nhiêÞm thông qua viêòc giaÒm châìt thaÒi ðầu ra hoặc giaÒm sôì lýõòng, khôìi lýõòng nýõìc thaÒi, khiì thaÒi hoãòc châìt thaÒi rãìn. Bên cạnh ðó, việc kiểm soát khối lýợng và nôÌng ðôò chất, khí thải cũng vô cùng cần thiết ðể giảm thiểu chi phí xử lý ở mức thâìp nhất. Tạo môi trýờng làm việc sạch, ðẹp và an toàn nhằm bảo vệ sức khỏe và nâng cao nãng suất lao ðộng cho nhân viên ðúng nhý chính sách môi trýờng của nhà máy.
Việc triển khai ISO 140000 cũng mang lại cõ hội tãng thị phần trong nýớc với lợi thế cạnh tranh riêng biệt, và thuận lợi khi xuất khẩu vì khaìch haÌng ở nhýÞng nýõìc phaìt triêÒn thýờng coì thói quen choòn lýòa mua haÌng hoaì cuÒa môòt tôÒ chýìc coì hêò thôìng quản lý môi trýờng hiêòu quaÒ nhý ISO 14000.
Cho ðến nay, FPT ðã trở thành công ty tin học ðầu tiên và duy nhất hiện nay của Việt Nam nhận ðýợc giấy chứng nhận hệ thống quản lý môi trýờng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 14000 tại nhà máy của mình.
Bùi Hiền
|
|
|
Post by Robot on Mar 9, 2004 6:49:12 GMT -5
Cải tiến tế bào nhiên liệu hydro 09:08' 09/03/2004 (GMT+7)
Các nhà khoa học Mỹ vừa phát triển một phýõng pháp tãng hiệu suất của tế bào nhiên liệu hydro tí hon lên thêm 50%. Những tế bào nhý vậy có thể là ðịch thủ của các loại pin hiện nay và xua tan lo ngại gần ðây của hãng Nokia rằng công nghệ pin hiện ðang không thể theo kịp với các chức nãng của ðiện thoại tiên tiến.
Cấu tạo một loại tế bào nhiên liệu hydro. Kỹ sý Suk Won Cha và Fritz Prinz thuộc ÐH Stanford, California, phát hiện họ có thể tãng hiệu suất bằng cách thu hẹp các kênh dẫn nhiên liệu tới trung tâm của tế bào. Phýõng pháp này hiện chỉ có hiệu quả ðối với tế bào nhiên liệu hydro, trong khi methanol lỏng hiện là nhiên liệu lựa chọn của các công ty ðiện tử dân dụng lớn nhý Motorola và NEC. Họ thích methanol bởi nó giải phóng nhiều nãng lýợng hõn so với hydro.
Tuy nhiên, methanol rất ðộc và tế bào nhiên liệu sử dụng nó tạo ra khí nhà kính CO2. Hydrogen chỉ tạo ra nýớc và với mẹo của hai kỹ sý trên, tế bào nhiên liệu hydro sẽ là một ðịch thủ ðáng gờm cung cấp nhiên liệu cho nhiều thiết bị di ðộng. Tế bào nhiên liệu hoạt ðộng bằng cách kết hợp nhiên liệu với oxy từ không khí và sử dụng nãng lýợng ðýợc giải phóng ðể tạo ra dòng ðiện.
Tế bào nhiên liệu của Cha chứa một màng trao ðổi proton bằng polymer. Màng này ðýợc kẹp giữa một lớp cực âm và cực dýõng. Mỗi lớp chứa một chất xúc tác platinum. Ðể tới cực dýõng, hydro phải ði qua một khối polymer với ðầy các kênh rộng 500micromet. Ở cực dýõng, platinum giúp phá vỡ hydro thành proton và electron. Proton ði qua màng trao ðổi, phản ứng với oxy và electron từ cực âm ðể tạo ra nýớc. Quá trình này ðẩy electron còn lại ở cực dýõng ði quanh một mạch ðiện bên ngoài tới cực âm, tạo ra dòng ðiện.
Nhóm nghiên cứu ðã quyết ðịnh xem ðiều gì sẽ xảy ra nếu họ làm cho các kênh trong khối polymer nhỏ hõn và nhiều lỗ hõn. Họ sử dụng công nghệ sản xuất chip ðể khoan các kênh có ðýờng kính chỉ 20micromet. Kết quả cho thấy tốc ðộ vận chuyển hydro tãng lên và ngãn chặn ðýợc cực dýõng bị ngập nãng lýợng. Tỷ lệ trao ðổi proton cũng nhý hiệu suất của tế bào nhiên liệu tãng thêm 50%.
Các loại pin dành cho máy tính xách tay chỉ có thể hoạt ðộng trong khoảng 2-4 giờ mà không cần nạp. Một số công ty sản xuất tế bào nhiên liệu hydro (pin hydro) hy vọng sản xuất ra các loại pin có thể hoạt ðộng liên tục 20 tiếng. Cha khẳng ðịnh kỹ thuật của ông sẽ tãng thời gian hoạt ðộng thêm 50% ngoài thời gian ðó. Tuy nhiên, Manfred Stefener, giám ðốc Công ty Smart Fuel Cells ở Ðức lo ngại nýớc thải có thể làm tắc các kệnh tí hon. Ông nói: ''Kênh của bạn càng nhỏ, nguy cõ tắc nghẽn càng cao. Ðây có thể là một thảm hoạ''.
Minh Sõn (theo NewScientist)
|
|
|
Post by Robot on Mar 9, 2004 6:59:56 GMT -5
Món ãn châu Âu ðe dọa rừng nhiệt ðới châu Á
Cứ một trong 3 món ãn tại các siêu thị góp phần trực tiếp tàn phá các khu rừng nhiệt ðới trên thế giới. Tổ chức bảo vệ môi trýờng Friends of the Earth (FoE) cho biết thiệt hại bắt nguồn từ nhu cầu sử dụng dầu cọ ðang ngày càng bùng nổ. Thứ nguyên liệu này có trong các sản phẩm nhý chocolate, khoai tây chiên, bõ thực vật, dầu gội ðầu và chất tẩy...
Bản báo cáo của FoE cho biết việc kinh doanh dầu cọ ðang thúc ðẩy hoạt ðộng phá hủy các khu rừng nhiệt ðới ở Ðông Nam Á, dẫn tới việc bóc lột sức lao ðộng và ô nhiễm môi trýờng. Những khu ðất khai thác dầu cọ ðang dần thay thế các khu rừng nhiệt ðới ở Indonesia và Malaysia với tốc ðộ kinh hoàng, tiêu diệt 80-100% cuộc sống hoang dã.
FoE ýớc tính ở Indonesia, các khu rừng ðang biến mất với tốc ðộ hõn 2 triệu ha một nãm. 1/4 số dầu cọ tại ðây ðýợc chuyển tới các quốc gia châu Âu, trong khi các công ty Anh tham gia tích cực vào việc kinh doanh nhý ðầu tý, bán lẻ và sản xuất dầu cọ.
"Việc buôn bán dầu cọ toàn cầu ðang tàn phá một trong những tài sản hoang dã quý nhất của thế giới, nhýng chính phủ và các công ty châu Âu vẫn tảng lờ nhý không nhìn thấy", chủ tịch FoE Tony Juniper phát biểu.
Minh Thi (theo Ananova)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 13, 2004 7:56:49 GMT -5
Hõn 1.000 loài chim ðối diện với nguy cõ tuyệt chủng
Cần bảo vệ chim trýớc nguy cõ tuyệt chủng TTO - Theo báo cáo của Tổ chức bảo tồn chim quốc tế thì suy thoái môi trýờng có thể ðẩy 1.211 loài chim, chiếm một phần tám tổng số loài trên thế giới, ðến nguy cõ tuyệt chủng.
Theo lời của ngýời ðứng ðầu tổ chức bảo tồn thì chúng ta ðang mất dần các loài chim với một tốc ðộ nhanh chýa từng thấy. Sự phát triển của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp cùng với sự nhập các loài nýớc ngoài ðang ðe dọa một nửa số loài chim ở châu Phi. Ít nhất 43 loài chim hiếm ở ðây ðã không ðýợc bảo vệ, số phận chúng chỉ tùy thuộc vào lòng tốt của nông dân và các công ty khai thác gỗ.
Báo cáo cũng cho thấy sự phát triển các loài nýớc ngoài nhý mèo, chuột ðang ðe dọa hai phần ba số loài chim trên các ðảo. Các nhà sinh học ðang lo lắng tình trạng này cũng ðang diễn ra với các loài khác vì chim là loài chỉ thị cho tình trạng môi trýờng.
Một thành công hiếm hoi trong việc bảo vệ loài chim là ở loài chim hét ðen, loài bản xứ ở ðảo Chatham, New Zealand. Số lýợng loài chim này ðã tãng từ 5 cá thể vào nãm 1980 lên khoảng 250 cá thể. Tuy nhiên, thành công này không ðủ xóa ði bức tranh ảm ðảm về số phận các loài chim.
PHỤNG CÁC (Theo Mg.co)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 13, 2004 8:07:19 GMT -5
Ðoạn sông Mekong chảy qua Lào. Suy thoái môi trýờng và thiếu lýõng thực ở sông Mekong 22:35' 10/03/2004 (GMT+7) (VietNamNet) - Hôm nay 10/3, tại cuộc họp báo triển khai chýõng trình "Thách thức về nýớc và lýõng thực ở vùng Mekong" diễn ra tại Bangkok, các nhà khoa học quốc tế khuyến cáo vùng hạ lýu có thể sẽ bị thiếu lýõng thực và suy thoái môi trýờng nghiêm trọng trong týõng lai gần nếu không có những hành ðộng khẩn cấp nhằm giải quyết sự cạnh tranh hiện nay giữa các bên sử dụng nýớc. Chýõng trình sẽ dành mýời triệu USD cho các dự án tìm cách làm cho vùng này sản xuất ðýợc nhiều lýõng thực hõn trong khi sử dụng ít nýớc hõn, nhằm ðóng góp vào sự phát triển kinh tế trong khu vực cũng nhý bảo vệ ða dạng sinh học của sông Mekong. Tuyến ðýờng thuỷ dài 4.000km này chạy qua Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ có bốn nýớc thuộc Ðông Nam Á - thành viên của Ủy ban sông Mekong (MRC), sẽ thực hiện chýõng trình nói trên. Ngýời phát ngôn MRC Ðào Trọng Tứ cho biết: ''Có sự cãng thẳng giữa sản xuất nông nghiệp với sản xuất ngý nghiệp. Sản xuất nông nghiệp cần nhiều nýớc hõn, trong khi ngý nghiệp phụ thuộc vào chu kỳ lũ tự nhiên hàng nãm ðể cá sinh sản. Nếu tình hình không ðýợc cải thiện, ða phần dân số ở lýu vực này, phụ thuộc vào nghề cá và nông nghiệp, sẽ bị ảnh hýởng''. Ðýợc biết 80-90% nýớc ðýợc lấy từ sông Mekong ðýợc sử dụng cho nông nghiệp - nguồn thu nhập của khoảng 75% dân số ở hạ lýu Mekong. Lýợng nýớc này chủ yếu ðýợc sử dụng cho trồng lúa, hoạt ðộng cực kỳ cần nhiều nýớc. Ðể sản xuất 1kg gạo, cần 3-5 lít nýớc. Theo nghiên cứu của MRC, dân số vùng hạ lýu sông Mekong ðã tãng gấp hai lần trong 30 nãm qua và ýớc tính sẽ tãng 30-50% vào nãm 2050. Gần 50% diện tích ðất ở lýu vực Mekong ðýợc sử dụng cho nông nghiệp. Theo Kim Geheb, ðiều phối viên nghiên cứu của MRC, nếu không có sự can thiệp, lýu vực sông Mekong chýa phát triển có thể ði theo "vết xe" của sông Hoàng hà ở Trung Quốc. Kim Geheb nói: ''Một phần lớn hạ lýu sông Hoàng hà thiếu nýớc và tôi nghĩ ðiều này thực sự ðáng sợ. Chúng ta sẽ thấy hàng triệu hec-ta ðất nông nghiệp bị nhiễm mặn mỗi nãm do không thể duy trì áp lực nýớc xuôi dòng Mekong ðể ngãn sự xâm nhập của nýớc biển''. Lýu vực sông Mekong ở Việt Nam ðã ðối mặt với tình trạng thiếu nýớc trong suốt những tháng khô nhất (từ tháng 2 cho tới tháng 5). Nýớc biển xâm nhập sâu hõn vào sông và kênh rạch mỗi nãm, phá hoại mùa màng. Các rào cản nýớc mặn ðã ðýợc xây dựng song tình hình sẽ trở nên tồi tệ hõn khi lýợng nýớc ðýợc sử dụng cho nông nghiệp ở thýợng nguồn tãng lên. Lýu vực sông Mekong là một trong những vựa cá lớn trên thế giới, tạo ra trên hai triệu tấn cá mỗi nãm. Ða phần số cá này ðýợc sử dụng làm thực phẩm cho ngýời dân ðịa phýõng. Sự suy giảm lýợng nýớc theo mùa chắc chắn sẽ ảnh hýởng tới nguồn thực phẩm quan trọng này. Ðợt hạn hán vào nãm 2003 ðã ảnh hýởng mạnh tới lýợng cá ðánh bắt ở Campuchia trong nãm nay. Vào tháng 2, thời ðiểm kết thúc mùa ðánh bắt cá dai, sản lýợng chỉ bằng 1/7 so với nãm ngoái. Sông Mekong còn ðýợc coi là một trong những nguồn thuỷ ðiện lớn nhất, chýa ðýợc khai thác trên thế giới. Tuy nhiên, các nhà môi trýờng cho biết những dự án thuỷ ðiện lớn sẽ có tác ðộng xấu tới môi trýờng và xã hội. Trung Quốc dự ðịnh xây dựng chín ðập trên sông Mekong. Kế hoạch này ðã bị các nhóm môi trýờng chỉ trích do lo ngại tác ðộng xấu tới hệ sinh thái cũng nhý nguồn nýớc ở vùng hạ lýu. Minh Sõn
|
|
|
Post by Oshin on Mar 14, 2004 12:42:44 GMT -5
Ô nhiễm Asen trong nýớc ngầm tại Việt Nam
Asen (thạch tín) là nguyên tố tự nhiên, có nhiều trong vỏ trái ðất. Trong nýớc ngầm, Asen tồn tại ở nhiều dạng hợp chất khác nhau, không nhìn thấy ðýợc, không màu, không mùi và rất khó phát hiện.
Khi hàm lýợng Asen trong nýớc sinh hoạt cao výợt quá tiêu chuẩn cho phép (TCCP) sẽ gây nên những vấn ðề cho sức khoẻ con ngýời. Theo kết quả nghiên cứu của giáo sý Xan Gui Fan (ÐH Y Trung Quốc) và nhiều nhà khoa học trên thế giới, thì Asen có khả nǎng gây nên các bệnh cấp tính và mãn tính cho con ngýời. Ngýời bị nhiễm ðộc Asen nặng (60mg/l) có thể bị tử vong sau 30 phút. Nếu phải tiếp tục với Asen trong thời gian dài (3-15 nǎm), với nồng ðộ cao, con ngýời có thể bị mắc các bệnh mãn tính. Những triệu trứng ban ðầu của nhiễm ðộc Asen mãn tính bắt ðầu từ sự thay ðổi sắc tố da sau ðó là nhý sừng hoá lòng bàn tay, bàn chân. Sau khoảng 12 nǎm, cùng với sự tích luỹ Asen lâu ngày cõ thể con ngýời có nguy cõ mắc các bệnh hiểm nghèo nhý các chứng ung nhọt, các bệnh ung thý (ung thý da, ung thý phổi, ung thý gan...). ở mức ðộ ðộc thấp hõn, sẽ gây ra các chứng buồn nôn, giảm khả nǎng sản xuất hồng cầu, bạch cầu phá huỷ mạch màu và thiểu nǎng trí não...
Trên thế giới, vấn ðề ô nhiễm Asen và những ảnh hýởng tới sức khoẻ cộng ðồng ðã ðýợc nhiều nýớc và các tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu. Tại nhiều quốc gia nhýng Bǎnglaðét, Ðài Loan, Trung Quốc, ấn Ðộ, Mông Cổ và gần ðây là Campuchia ðã phát hiện thấy Asen với nộng ðộ cao ảnh hýởng tới sức khoẻ cộng ðồng. Tại Việt Nam, những nghiên cứu về Asen trong nýớc ngầm ðã ðýợc nghiên cứu từ lâu, tuy nhiên vào thời ðiểm này số lýợng mẫu nýớc phân tích còn ít, mức ðộ ô nhiễm còn thấp nên vấn ðề Asen chýa ðýợc quan tâm. Gần ðây, sau khi phát hiện trýờng hợp ô nhiễm Asen ðiểm hình tại Bǎngladet và nhận thấy ðiều kiện ðịa chất giữa Bǎnglaðét và Ðồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long của Việt Nam có nhiều ðiểm týõng ðồng, các nhà nghiên cứu ðã ðặt ra câu hỏi liệu nýớc ngầm ở Việt Nam có bị ô nhiễm Asen không?
Với sự hợp tác của các tổ chức quốc tế, các cõ quan nghiên cứu ðã tiến hành ðiều tra khảo sát sõ bộ về tình hình ô nhiễm Asen trong nýớc ngầm. Kết quả nghiên cứu býớc ðầu cho thấy hàm lýợng Asen trong nýớc ngầm tại nhiều ðịa phýõng výợt tiêu chuẩn cho phép (Tiêu chuẩn về Asen trong nýớc sinh hoạt của Việt Nam là 0,01 mg/l).
Các vùng có nguy cõ ô nhiễm Asen cao là các vùng chứa khoáng hoá nguồn gốc nhiệt dịch và các vùng châu thổ sông lớn chứa ðựng trầm tích Halocene và Pleitocene. Ngoài ra, các vùng chuyên canh cao, sử dụng nhiều phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cũng có nguy cõ ô nhiễm Asen cao. Tại Hà Nội, Asen trong tầng Halocene dao ðộng từ 0,0001 ðến 0,132 mg/l, trung bình khoảng 0,034 mg/l, còn tầng Pleitocene có nồng ðộ giao ðộng từ 0,0001 ðến 0,093 mg/l (Ðỗ Trọng Sự 1992). Kết quả khảo sát tại Hải Phòng, Bắc Giang, Thanh Hoá, Nam Ðịnh cũng cho thấy nýớc ngầm tại nhiều ðiểm của các ðịa phýõng này cũng bị nhiễm Asen (Nguyễn Trọng Sự 1996 - Trần Hữu Hoan 1999). ở Ðồng bằng Nam Bộ và nhiều ðịa phýõng khác vấn ðề ô nhiễm Asen chýa ðýợc nghiên cứu tập trung, tuy nhiên theo kết quả phân tích của các dự án cấp nýớc nồng ðộ Asen nhỏ hõn tiêu chuẩn cho phép. Từ kết quả nghiên cứu trên có thể thấy rằng Việt Nam ðã xuất hiện ô nhiễm Asen cục bộ. Tuy phát hiện nồng ðộ Asen trong nýớc ngầm với nồng ðộ cao nhý vậy, nhýng cho tới nay chýa phát hiện ra trýờng hợp nào hay cộng ðồng nào có triệu chứng mắc các bệnh về Asen (Aseniccois). Ðiều này có thể giải thích do hai nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, do nhân dân tại những ðiểm có ô nhiễm Asen cao (nhý của Hà Nam) chỉ sử dụng nýớc ngầm ðể tắm rửa còn nýớc dùng cho ǎn uống là nýớc mýa trong các bể dự trữ. Thứ hai, phần lớn các hợp chất của Asen trong nýớc ngầm có thể loại trừ ðáng kể cùng quá trình xử lý sắt. Trong quá trình oxi hoá sắt, ðã tạo nên hợp chất Fe(OH)3 (màu ðỏ nâu) có khả nǎng cộng kết với nhiều hợp chất của Asen sau ðó kết tủa và bị loại khỏi nýớc nhờ bể lọc cát ðõn giản. Công nghệ xử lý nýớc kiểu này ðýợc sử dụng khá phổ biến ở quy mô hộ gia ðình Việt Nam.
Cho ðến nay, chýa ðýa ra ðýợc bức tranh tổng thể về tình hình ô nhiễm Asen tại Việt Nam, nhýng có thể thấy rằng: Có tồn tại vấn ðề ô nhiễm Asen trong nýớc tại Việt Nam, tuy nhiên vấn ðề chýa ðến mức nghiêm trọng nhý ở Bǎnglaðét. Ngoài chỉ tiêu Asen, các chỉ tiêu vi sinh vật gây bệnh và Amoni cũng rất quan trọng, thậm chí còn quan trọng hõn xét về quy mô và mức ðộ ảnh hýởng ðến sức khoẻ con ngýời của hai chỉ tiêu trên. Vì mỗi nǎm trên thế giới có hõn 2 triệu ngýời chết do lây bệnh qua nýớc sinh hoạt. Do ðó, chúng ta cần có thái ðộ ðúng ðắn với vấn ðề Asen tại Việt Nam, không nên nghiêm trọng hoá vấn ðề này nhýng cũng không ðýợc xem nhẹ. Tuy nhiên, về mặt lâu dài, nhận hấy ðýợc những ảnh hýởng của Asen tới sức khoẻ nhân dân, Chính phủ ðã chỉ ðạo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp cùng các cõ quan khác xây dựng "Chýõng trình hành ðộng về Asen và các thành phần ðộc hại trong nýớc sinh hoạt" với nội dung ðiều tra, ðánh giá, quan trắc hàm lýợng Asen,... xác ðịnh lại các vùng ô nhiễm, ðề ra phýõng án xử lý tại các vùng bị ô nhiễm. Hy vọng rằng, với sự phối hợp của các cõ quan chức nǎng, vấn ðề Asen trong nýớc ngầm tại Việt Nam sẽ ðýợc giải quyết, ðảm bảo việc cung cấp nýớc sạch cho nhân dân.
Theo GDTÐ
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 12:34:08 GMT -5
Thứ Sáu, 05/12/2003, 10:01 (GMT+7)
Phê duyệt chiến lýợc bảo vệ môi trýờng quốc gia
TT (Hà Nội) - Tin từ Bộ Tài nguyên & môi trýờng cho biết Thủ týớng Chính phủ vừa phê duyệt chiến lýợc bảo vệ môi trýờng quốc gia ðến nãm 2010 và ðịnh hýớng ðến nãm 2020. Chiến lýợc ðýa ra quan ðiểm về môi trýờng, các nhiệm vụ bảo vệ môi trýờng bao gồm ngãn ngừa ô nhiễm môi trýờng, kiểm soát và cải thiện môi trýờng tại VN.
Ngoài ra, chiến lýợc cũng ðýa ra 36 chýõng trình, dự án, ðề án về bảo vệ môi trýờng.
Ông Trýõng Mạnh Tiến - vụ trýởng Vụ Môi trýờng (Bộ Tài nguyên & môi trýờng) - cho biết 36 chýõng trình, dự án, ðề án tập trung vào bảo vệ môi trýờng trong các lĩnh vực ða dạng sinh học, nýớc, công nghiệp và ðýa nội dung bảo vệ môi trýờng vào trong giáo dục.
Một số nội dung sẽ ðýợc thực hiện là trồng mới, khoanh nuôi 5 triệu ha rừng, xử lý triệt ðể các cõ sở gây ô nhiễm môi trýờng, xử lý chất ðộc hóa học dioxin tồn lýu trong chiến tranh, bảo tồn ða dạng sinh học, bảo vệ môi trýờng các lýu vực sông Cầu, sông Nhuệ - sông Ðáy và sông Sài Gòn - Ðồng Nai.
Ðýợc biết, trong 10 nãm qua (1991-2000) ýớc tính trên 2.000 tỉ ðồng từ ngân sách nhà nýớc ðýợc dành cho công tác bảo vệ môi trýờng. Tuy nhiên, so với yêu cầu của công tác quản lý môi trýờng thì con số này quá ít ỏi.
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 12:35:21 GMT -5
Khử mùi rác bằng chế phẩm sinh học Chế phẩm sinh học Odor removal (men Uyama enzyme) của Công ty TNHH Thái Dýõng (Long An) vừa ðýợc các cõ quan về môi trýờng ðánh giá là loại chế phẩm có khả nãng cắt mùi nhanh.
Chế phẩm hiệu quả cao ðối với các trạm trung chuyển rác, bãi rác và nýớc rỉ rác. Theo bản ðánh giá kết quả khảo nghiệm của thuộc hai trýờng ðại học Khoa học tự nhiên và Bách khoa TP Hồ Chí Minh, khi ứng dụng chế phẩm trên hiệu quả khử mùi hôi giảm hõn 60% trong ngày ðầu tiên và giảm dần ðến hõn 80% trong các ngày tiếp theo. Mùi hôi thối trong nýớc rỉ rác cũng giảm hõn 80% và không tái nhiễm, mật ðộ ruồi giảm hõn 90%. Một lít chế phẩm (giá 47.000 ðồng) có thể xử lý ðýợc 20 tấn rác hoặc 5m3 nýớc rỉ rác. M.Khanh
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 12:35:59 GMT -5
Cây cối có khả nãng thích nghi với phóng xạ
Các công trình nghiên cứu mới ðây trên những cây thông gần khu trung tâm của thảm họa hạt nhân Chernobyl (Ucraina) ðã cho thấy chúng có những bộ gene thích nghi với chất phóng xạ. Một số cây còn sống ðã “mù hóa” các ADN bằng cách sản sinh ra các chất metylen.
Phản ứng trên giúp các loại cây này bảo vệ ðýợc các gene chủ yếu của chúng. Các nhà khoa học Ucraina và Canada ðã kiểm tra ðiều này trong phòng thí nghiệm: những cây thông trồng trong ðất nhiễm phóng xạ sau 10 nãm tãng trýởng có tỷ lệ metylen cao hõn bình thýờng 30%.
Ðồng hành cùng với các thực nghiệm trên, Viện sinh học biển miền Nam (Sebastropol) ðã thả hai con giun vào một hồ nýớc nhiễm phóng xạ. Kết quả là chúng vẫn có thể sinh sản. Ðây là một cách ðể ðảm bảo sự tồn tại nhờ ða dạng sinh học.
(Theo Tia Sáng)
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 12:36:53 GMT -5
Thứ Ba, 16/12/2003, 09:23 (GMT+7)
Ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo và năng lượng mới
TT (TP.HCM) - Tại hội thảo khu vực về năng lượng sinh khối tại Đông Nam Á (do Viện Năng lượng và môi trường các nước sử dụng tiếng Pháp - IEPF - tổ chức từ 15 đến 18-12-2003), ông Trần Minh Huân - vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Công nghiệp) - cho biết Chính phủ ưu tiên phát triển các dạng năng lượng tái tạo và năng lượng mới.
Theo ông Huân, hiện VN chưa triển khai hợp tác cụ thể với các nước trong việc phát triển năng lượng sinh khối (dạng năng lượng được sản xuất từ chất thải chủ yếu của ngành nông nghiệp và một số ngành công nghiệp); trong khi tiềm năng năng lượng này của VN khá lớn vì có nguồn nguyên liệu đa dạng như chất thải của công nghiệp mía đường, sản xuất lúa gạo, cà phê…
Các chuyên gia năng lượng quốc tế cho rằng VN có nhiều nguồn tài nguyên có thể sử dụng cho sản xuất điện: phụ phẩm của các nhà máy cưa hay sản xuất đồ gỗ; rơm rạ, bã mía, khoai mì, lá dừa, vỏ trấu; chất thải đô thị, chất thải chăn nuôi… Việc phát triển các dự án năng lượng sinh khối ở VN có thể tạo ra 8.480 GWh, tức bằng 1/3 nhu cầu sử dụng điện trong năm 2000.
QUỐC THANH
|
|
|
Post by Oshin on Mar 15, 2004 12:37:23 GMT -5
Thứ Ba, 16/12/2003, 09:22 (GMT+7)
Kết thúc hội nghị APDA lần 19:
Kêu gọi thành lập tổ chức liên chính phủ về quản lý nguồn nước
TT (TP.HCM) - Ngày 15-12-2003, Hội nghị các nghị sĩ châu Á về dân số và phát triển (APDA) lần 19 đã thảo luận kết thúc các vấn đề về nước, sức khỏe, dân số, phát triển bền vững về môi trường, an ninh lương thực.
Trong ngày làm việc, 17 nước và các tổ chức quốc tế tham dự hội nghị APDA đã thống nhất đưa ra một tuyên bố chung về môi trường, an ninh lương thực, y tế công cộng và dân số: các nước kêu gọi Quốc hội, Chính phủ có chiến lược phát triển lồng ghép và kế hoạch hành động để giải quyết vấn đề về dân số, nguồn nước; tuyên truyền rộng rãi với dư luận xã hội về sự khan hiếm của nước sạch; cần tính tới yếu tố môi trường ảnh hưởng đến nguồn nước ngọt; thành lập tổ chức liên chính phủ về quản lý nguồn nước quốc tế và các dòng sông cùng sử dụng. Các dòng sông sử dụng chung cần có sự điều phối của các nước liên quan để sử dụng có hiệu quả, công bằng; đưa vào chương trình giáo dục từ cấp tiểu học trở lên về sử dụng nước sạch và mối liên quan giữa nước sạch với sức khỏe...
Bản tuyên bố TP.HCM của APDA cũng nêu rõ các hoạt động của đại biểu Quốc hội: khuyến khích việc cung cấp nước sạch cho toàn dân; khuyến khích nghiên cứu về sử dụng nước có hiệu quả trong nông nghiệp, phát triển nông thôn ở tất cả các nước; mỗi nước cần xây dựng chính sách quốc gia về dân số gắn kết với vấn đề sử dụng nước, giáo dục để đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo...
VÕ HƯƠNG
|
|