|
Post by Robot on Jan 25, 2005 13:01:23 GMT -5
Carbon có tính siêu dẫn ở nhiệt độ thường?
Các nhà vật lý Mỹ dường như đã quan sát được khả năng siêu dẫn của ống nano carbon ở nhiệt độ thường. Tuy rằng điện trở của dây dẫn không thực sự bằng 0, nhưng những hiệu ứng khác lại cho thấy đã xuất hiện tính siêu dẫn.
Guo-meng Zhao và Yong Sheng Wang, thuộc Đại học Boston (Mỹ ), đã làm thí nghiệm trên một dây dẫn ghép từ các ống nano carbon (đường kính vài phần triệu milimét). Khi đưa dây dẫn này vào một từ trường, người ta thấy xuất hiện một từ trường yếu trong dây dẫn theo hướng ngược lại.
Và từ trường này vẫn không thay đổi, ngay cả khi từ trường mẹ bên ngoài bị ngắt. Zhao và Wang tin rằng, từ trường bên ngoài đã tạo ra một dòng điện xoay chiều trong dây dẫn. Dòng điện đó không hề gặp một cản trở nào, nên đã duy trì được cường độ, tạo ra từ trường không đổi bên trong. Hiệu ứng này cho thấy, dưới tác động của từ trường, dây nano carbon đã có khả năng siêu dẫn ở nhiệt độ thường (dây siêu dẫn có điện trở bằng 0).
Tuy nhiên, khi không có từ trường bên ngoài, người ta lại đo được điện trở nhỏ của dây dẫn. Theo Zhao và Wang, điều này có thể giải thích là: Điểm nối giữa các ống nano không có tính siêu dẫn, nên gây ra điện trở. Hai ông giả định, khi loại bỏ được điện trở ở các điểm nối, người ta sẽ tạo ra một dây siêu dẫn thực sự ở nhiệt độ thường. Đây là một tiến bộ vượt bậc, mở ra khả năng ứng dụng cực lớn cho chất siêu dẫn, bởi cho đến nay, chưa có vật liệu nào có thể siêu dẫn ở nhiệt độ trên 0 độ C.
Năm 1911, lần đầu tiên nhà khoa học người Hà Lan Heike Kamerling Onnes phát hiện ra khả năng siêu dẫn ở một số kim loại: Khi nhiệt độ hạ thấp đến mức nhất định thì các điện tử có thể chuyển động mà không gặp bất kỳ cản trở nào. Chất siêu dẫn đầu tiên Kamerling tìm được là thủy ngân ở 4 độ K (-269 độ C).
Tuy nhiên, phải đến năm 1986, vật liệu siêu dẫn mới khẳng định được vị trí của nó trong công nghiệp khi người ta tìm ra vật liệu "siêu dẫn nóng" ở trên 30 độ K, trong đó có hợp kim của ôxit đồng và barium (77 độ K), hợp kim của ôxit nhôm (125 độ K)... Sắt có lẽ là vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ thấp nhất (-271 độ C).
Gần đây người ta mới chứng minh được khả năng siêu dẫn của các tinh thể carbon C70, tuy nhiên chỉ ở nhiệt độ -266 độ C. Trước đó, một đồng vị khác của carbon là C60 có thể siêu dẫn ở nhiệt độ -233 độ C.
|
|
|
Post by Robot on Jan 25, 2005 13:01:47 GMT -5
Dạng cầu mới của phân tử carbon
Thông thường, carbon hình cầu buckyball có chứa 60 nguyên tử. Nhưng mới đây, các nhà khoa học Trung Quốc đã tạo ra dạng "bà con" của nó, chỉ với 50 nguyên tử carbon. Công trình mở ra hy vọng có thể chế tạo những dạng cầu carbon siêu nhỏ, mang đặc tính ưu việt dùng cho công nghệ nano.
Su-Yuan Xie thuộc Đại học Xiamen và cộng sự cho biết, họ đã có trong tay vài miligram của dạng carbon rắn này.
Trước kia, loại vật chất này đã được nghiên cứu dưới dạng khí, nhưng đây là lần đầu tiên các nhà khoa học tạo ra nó dưới dạng rắn. Phân tử này là thành viên trong một họ các phân tử carbon có tên gọi fullerene hay buckyball, được tìm thấy năm 1985.
Buckyball là những phân tử hình cầu rỗng, trong đó các nguyên tử carbon ở đỉnh gắn kết với nhau thành các hình ngũ giác và lục giác, tương tự như các mặt của một quả bóng đá. Chúng có thể chịu đựng nhiệt độ và áp suất rất cao, đồng thời rất bền và dẫn điện tốt. Đặc tính này khiến Buckyball được ứng dụng phổ biến trong các thiết bị nano như các nhiệt kế. Trong họ buckyball, dạng nổi tiếng nhất là C60 - một khối cầu hình quả bóng với 60 nguyên tử carbon.
Tuy nhiên, nhóm của Xie đã tạo được dạng buckyball chỉ có 50 nguyên tử. "Những buckyball nhỏ hơn C60 được dự đoán là có những đặc tính cơ học, điện và từ khác thường, xuất hiện chủ yếu do sự uốn cong mạnh bề mặt của phân tử", các nhà nghiên cứu nhận định.
Buckyball C60 tương đối bền vững là do cấu trúc của nó. Phân tử này có các mặt lục giác 6 carbon và mặt ngũ giác 5 carbon. Trong khi các mặt lục giác là cấu trúc bền vững, thì các mặt ngũ giác lại tương đối nhạy cảm, dễ thay đổi. C60 ổn định là nhờ những mặt ngũ giác kém bền vững này nằm ở xa nhau (cách ly).
"Trong phân tử C60, không có hai mặt ngũ giác nào gắn với nhau cả. Bao giờ một mặt ngũ giác cũng được bao bọc bởi 5 mặt lục giác", nhóm nghiên cứu giải thích.
Nhưng trong những dạng buckyball nhỏ hơn, quy luật mặt ngũ giác cách ly này bị phá vỡ. "Bất kỳ cấu trúc nào nhỏ hơn C60 đều có vài mặt ngũ giác nằm kề nhau và khiến cho cấu trúc dễ sụp đổ".
Để khắc phục trở ngại này, Xie và cộng sự đã thay đổi chút xíu phương pháp tạo C60 thông thường, nhằm tạo ra một phân tử với 50 carbon và một vòng 10 nguyên tử clo bao quanh "xích đạo" của nó.
Công trình này mở ra hy vọng có thể tạo được những cầu carbon nhỏ hơn nữa, với những đặc tính ưu việt dùng cho công nghệ nano.
|
|
|
Post by Robot on Jan 25, 2005 13:02:17 GMT -5
Rotor điện nhỏ nhất thế giới
Các nhà khoa học Mỹ vừa sáng chế ra một rotor điện nhỏ bằng 1/250 sợi tóc của con người. Đây được coi là bước đột phá trên mặt trận công nghệ nano.
Thiết bị bao gồm một lưỡi dao bằng vàng gắn vào một trục làm bằng ống nano carbon. Hai đầu của trục được mắc vào 2 điện cực silicon dioxide. Dòng điện chạy qua điện cực truyền vào ống nano dẫn điện và làm quay lưỡi dao. 3 điện cực khác - 2 cái đặt 2 bên đầu trục, một cái đặt bên dưới - sẽ cung cấp lượng điện bổ sung. Điều này có nghĩa tốc độ lưỡi dao, hướng và vị trí của nó sẽ được điều khiển một cách chính xác.
Thiết bị tí hon này được gắn vào một chip silicon và có thể ứng dụng trong nhiều sản phẩm khác nhau. Nhưng nó vẫn chưa phải là thiết bị nano nhỏ nhất thế giới, danh hiệu đó thuộc về công tắc bio làm từ phân tử ADN và chạy bằng hoá chất. Các nhà sáng chế cho biết thiết bị mới này có một số ưu điểm khác. Là một thiết bị điện - hoá chất, nó có thể chịu đựng được sự biến đổi nhiệt độ cao, hoạt động được trong chân không và chịu đựng môi trường hoá chất tốt hơn thiết bị bio.
Công nghệ nano có tiềm năng cung cấp thế hệ thiết bị siêu nhỏ trong lĩnh vực truyền thông, y học... Các nhà khoa học làm việc trên hệ thống điện - hoá chất luôn mắc phải những trở ngại như kim loại và chất dẻo truyền thống thường phát sinh trục trặc khi hoạt động, nếu kích thước quá nhỏ. Chế tạo thành công than nano: Đột phá vào công nghệ cao
Tiến sĩ Nguyễn Chánh Khê, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu thuộc khu công nghệ cao TP HCM vừa công bố chế tạo thành công than nano “lỏng”. Đây được xem là một bước đột phá, do trên thế giới chỉ có rất ít nước phát triển chế tạo được loại vật liệu này. Thành công đã mở đường cho Việt Nam tấn công vào thị trường sản xuất vi mạch máy tính và linh kiện bán dẫn.
Thực chất, than nano là các hạt than bụi, than bồ hóng được tách rời thành dạng hạt có kích thước nano (khoảng 25-75 nm, 1 nm bằng 1 phần tỷ mét). Theo ông Khê, tên gọi “lỏng” của vật liệu dùng để chỉ tính chất đặc biệt của nó: khi được đặt trong môi trường điện ly, nó có khả năng lấp đầy chỗ trống trong môi chất - tương tự như tính chất của chất lỏng.
Khác với những nghiên cứu trước đây trên thế giới đi từ công nghệ chân không, sử dụng plasma của khí đồng hành trong công nghiệp khai thác dầu mỏ, tiến sĩ Nguyễn Chánh Khê cùng các cộng sự đã dùng những nguyên liệu sẵn có ở Việt Nam như than bùn, than đá, dầu dừa, than xơ dừa, dầu cặn… Do vậy theo nhóm nghiên cứu, giá thành phẩm ống nano sản xuất từ than nano “lỏng” sẽ rẻ hơn khoảng 7-10 lần so với sản phẩm đang được sản xuất trên thế giới từ plasma (hiện có giá 350 USD/g).
Việc triển khai nghiên cứu quy trình chế tạo than nano “lỏng” bằng nguyên liệu trong nước được bắt đầu từ tháng 7/2003. Hiện nay, ông Khê đang xúc tiến việc đăng ký bản quyền sở hữu ứng dụng phát minh quốc tế về các ứng dụng của than này trong lĩnh vực công nghệ thông tin và bán dẫn.
Một ứng dụng quan trọng của than nano “lỏng” là dùng để chế tạo ra các ống than nano (carbon nano tube). Công nghệ này đã được biết trên thế giới từ năm 1991 do nhà vật lý Nhật Bản Ijima. Đây là các loại ống dẫn bằng carbon có đường kính rất nhỏ (chỉ vài phần triệu mm). Việc sử dụng carbon nano tube thay cho dây kim loại cho phép nhà sản xuất tạo ra chip nhỏ hơn, tốc độ cao và giá rẻ hơn.
Gần đây, các nhà khoa học trên thế giới cũng khám phá ra rằng có hiện tượng phát sáng tuỳ theo cách định hướng của ống than trong quy trình chế tạo. Khám phá này đã thu hút hướng nghiên cứu áp dụng vào công nghệ màn hình phẳng (field emission display).
Trong công nghệ bán dẫn, việc ứng dụng ống than nano hứa hẹn khả năng thay đổi năng lượng của vùng cấm (band gap energy) và các hiện tượng tunneling xảy ra giữa ống than nano và môi chất trung gian, từ đó đưa đến những cuộc cách mạng khoa học trong công nghệ bán dẫn.
Hiện nay, việc nghiên cứu ứng dụng của ống than nano vẫn còn giới hạn bởi giá thành sản phẩm cao. Chính vì vậy, phát minh của Tiến sĩ Nguyễn Chánh Khê là một bước đột phá mới, đưa Việt Nam đi tắt đón đầu những xuất phát của công nghệ cao.
|
|
|
Post by Robot on Jan 25, 2005 13:02:39 GMT -5
Khai mạc hội thảo quốc tế về công nghệ nano tại Hà Nội (22-10-2004)
Những công nghệ và sản phẩm mới, xu hướng phát triển trong lĩnh vực nano trên thế giới... là chủ đề được bàn thảo tại hội nghị, diễn ra từ 22 đến 23/10. Công nghệ nano, với những ưu việt hiếm có, đang trở thành công nghệ mũi nhọn của nhiều nước, và bước đầu được đưa vào Việt Nam.
Đây là hội thảo quốc tế lần 2 do Viện Khoa học Vật liệu phối hợp với Đại học Công nghệ (ĐH Quốc gia Hà Nội), Cơ quan nghiên cứu và phát triển vũ trụ Á châu (Mỹ) phối hợp tổ chức.
Hội thảo có sự tham gia của 10 chuyên gia hàng đầu về công nghệ nano ở các nước, như Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Canada, Hà Lan, Hàn Quốc..., cùng hàng trăm chuyên gia Việt Nam và khách quốc tế. Ngoài những nghiên cứu cơ bản, các chuyên gia sẽ bước đầu đề cập đến việc hình thành công nghệ và thị trường nano, cũng như đặt quan hệ hợp tác đào tạo cho các cán bộ Việt Nam trong lĩnh vực này. Hội thảo còn là cơ hội để các chuyên gia nước ta tiếp thu các thành tựu công nghệ của nước ngoài - con đường ngắn nhất để đạt được trình độ quốc tế.
Tại Việt Nam, từ năm 2003, Bộ Khoa học Công nghệ đã chọn công nghệ nano là một trong những chương trình ưu tiên phát triển. Cùng với đó là sự nâng cấp, lập mới nhiều trung tâm, đơn vị nghiên cứu về lĩnh vực này như Đại học Công nghệ (ĐH Quốc gia Hà Nội), Trung tâm quốc tế đào tạo về khoa học vật liệu (ĐH Bách Khoa HN), các phòng nghiên cứu tại các viện, trường...
Ông Phan Hồng Khôi, Chủ tịch Hội Vật lý Việt Nam, cho biết, công nghệ nano là công nghệ đa ngành, trong đó sinh học, hóa học và môi trường là những lĩnh vực có triển vọng ứng dụng và dễ dàng nhất. Hiện tại, chúng ta đang có những nghiên cứu ở cấp độ phòng thí nghiệm, bao gồm: các loại vật liệu nanocomposite (bổ sung bột nano, ống nano), có tính chất khác hẳn; một số vật liệu lọc nano, xử lý nước, khí thải..., các lớp mạ nano, lớp phủ bề mặt nano. Song song với những công nghệ khá "đơn giản" này, Việt Nam cũng sẽ đặt vấn đề nghiên cứu những công nghệ cao cấp, như công nghệ nano cho màn hình phẳng, các nhiêu liệu nano, hệ thống vi cơ điện... Bởi nếu nhập các công nghệ này mà không có người hiểu biết về chúng thì cũng không sử dụng được.
Cũng theo ông Khôi, vật liệu nano đang trở thành trọng tâm nghiên cứu ở nhiều nước do những ưu thế mà các vật liệu truyền thống không có được. Chúng có những tính chất hoàn toàn mới, có diện tích bề mặt lớn, nên hiệu suất sử dụng rất cao, đặc biệt trong xử lý ô nhiễm môi trường (chỉ một dúm nhỏ vật liệu nano có thể có hiệu quả lọc bằng cả tấn than hoạt tính...). Các ống nano carbon cũng cứng hơn kim cương, dẫn nhiệt tốt hơn, song lại dẻo hơn, có thể làm ra những màn hình phẳng với độ nét rất cao...
M2M & thức2009 SvLen.Com (Source: vnpost.mpt.gov.vn, vnn.vn, zyvex.com, vnexpress.net, tinkhoahoc...)
|
|
|
Post by Robot on Jan 28, 2005 8:04:52 GMT -5
Đi tìm “Nano”Mô hình phòng thí nghiệm công nghệ nano của ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh Khoảng 2 năm trở lại đây, giới khoa học đã bắt đầu nhắc thường xuyên đến từ “Nano”. Thử hỏi, nhiều người không giải thích rõ nhưng vẫn khẳng định đây là một ngành công nghệ mới trên thế giới, nó sẽ đem lại những biến đổi to lớn trong khoa học - công nghệ và đời sống xã hội của nhân loại! Một cuộc chạy đua thật sự về lĩnh vực này đang diễn ra giữa các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến. Câu chuyện có lẽ sẽ dừng lại ở đây nếu như Dự án Giáo dục đại học không tiến hành xây dựng cho ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh phòng thí nghiệm nano với kinh phí cao nhất từ trước đến nay vay từ Ngân hàng Thế giới: 4,3 triệu USD cho phần mua sắm thiết bị! Điều này khiến chúng tôi lần bước vào thế giới của nano. Nano: Nhỏ mà không nhỏ!Nhân tố trung tâm của khoa học và công nghệ nano là kích thước. Khi kích thước giảm tới mức nano mét (10-9m), các hiệu ứng lượng tử xuất hiện, từ đó có thể thay đổi các đặc trưng của vật liệu mà không cần thay đổi thành phần hóa học để cho ra đời các sản phẩm mới không hề có trước kia! Như vậy, công nghệ nano (Nanotechnology) là công nghệ liên quan đến các vật thể có kích thước từ 1 - 100 nm. Chẳng hạn như bằng cách phối hợp công nghệ sinh học và điện tử, gần đây người ta đã tạo ra các kỹ thuật và dụng cụ mới để phân tách và nhận dạng cấu trúc chuỗi DNA. Đây là một bước đột phá trong cuộc cách mạng kỹ thuật hướng về các sản phẩm cực nhỏ trong thế kỷ mới. Công nghệ nano hứa hẹn sẽ đem lại nhiều vật dụng nhỏ hơn, giá thành thấp hơn, chức năng cao hơn, nhẹ hơn, nhanh hơn, dùng ít nguyên liệu hơn và tiêu thụ ít năng lượng hơn. Nano: Tự cổ chí kim...Vật liệu nano đã được con người tạo ra và sử dụng hàng ngàn năm nay. Men trang trí trong đồ gốm sứ thời trung cổ chứa các hạt cầu kim loại phân tán phức tạp dẫn tới tính chất quang độc đáo của nó. Trong chén Lycurgis, thợ thủ công La Mã đã dùng các đám nguyên tử vàng có kích thước nano để tạo ra các màu khác nhau tùy theo ánh sáng chiếu từ phía trước hay phía sau. Màu đỏ ruby của một số kính là do các hạt nano vàng bị giữ trong chất nền thủy tinh. Kỹ thuật chế tạo các vật liệu đó đã được giữ bí mật, thậm chí đến nay vẫn còn chưa được hiểu hoàn toàn. Trong thế kỷ 20, các cấu trúc nano đã đóng góp trong nhiều công nghệ. Chẳng hạn, thêm các hạt carbon nano vào cao su để tăng cường tính chất cơ học (lốp xe), dùng hạt nano cho quá trình xúc tác trong công nghiệp hóa dầu và quá trình "nucleation" các đám nguyên tử bạc kích thước nano khi phơi sáng phim ảnh... Các ứng dụng trên được xếp vào thời kỳ kinh nghiệm trong quá trình phát triển của công nghệ nano, nghĩa là chỉ dựa trên kinh nghiệm chứ chưa có sự hiểu biết đầy đủ. Khoa học và công nghệ nano hiện đại tuy còn khá mới nhưng đã có những bước phát triển quan trọng, mở ra những triển vọng to lớn trong nhiều lĩnh vực của khoa học kỹ thuật, sản xuất, đời sống như chế tạo vật liệu mới với những tính chất hết sức đặc biệt, công nghệ điện tử nano và máy tính, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và nông nghiệp, y tế và thuốc men, an ninh và quốc phòng... Cuối thế kỷ 20 đã có những cuộc cách mạng về lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Vào đầu thế kỷ 21 sẽ là cuộc cách mạng của công nghệ nano. Nano: Từ đông sang Tây!Dẫn đầu trong công nghệ nano tại châu Á là Nhật Bản. Nước này chú tâm đưa các ứng dụng của công nghệ nano vào các lĩnh vực môi trường, kỹ thuật sinh học, vật liệu nano, điện tử, kỹ thuật đo lường, chế tạo và mô phỏng. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Mitsubishi thì thị trường toàn cầu của công nghệ nano năm 2005 là 66 tỉ USD. Chính phủ Trung Quốc có chính sách khuyến khích phát triển công nghệ nano khá rõ nét, dự kiến đầu tư 300 triệu USD trong vòng 5 năm cho công nghệ này. Năm 2002, Trung Quốc đã thành lập Trung tâm Quốc gia về công nghệ nano. Các chuyên gia về công nghệ nano của Pháp tại một khóa tập huấn cho giảng viên Việt Nam Tại Hoa Kỳ, có 10 cơ quan và bộ, ngành đảm trách chương trình nghiên cứu công nghệ nano. Trong năm 2003, tổng chi phí nghiên cứu cho 10 cơ quan này đã đạt 770 triệu USD, năm 2004 dự kiến 849 triệu USD. Tháng 5/2003, Quốc hội Hoa kỳ đã dự kiến thị trường công nghệ nano trong 10 năm tới sẽ đạt con số 1.000 tỉ USD. Công nghệ nano tại Pháp đã phát triển rất mạnh trên nền tảng của công nghệ micro. Chiến lược phát triển công nghệ nano tại Anh được cố vấn và giám sát bởi Ủy ban chiến lược Ứng dụng công nghệ nano gồm các thành phần từ giới công nghiệp, đại học, hội đồng nghiên cứu Anh và Chính phủ. Australia đã sớm nhận thấy vai trò của công nghệ nano và đã ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực này. Trong năm 2001 đầu tư 15 triệu USD và đến năm 2002 đã tăng lên 40 triệu.
|
|
|
Post by Robot on Jan 28, 2005 8:05:06 GMT -5
Việt Nam: Đã bắt đầu khởi động!
Ở nước ta, các nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ nano đã được bắt đầu hơn 5 năm nay ở một số viện và trường đại học Hà Nội. Tuy nhiên, so với nhiều nước trong khu vực, chúng ta còn ở mức thấp. Theo dự án nghiên cứu về khoa học và công nghệ nano, kinh phí cho giai đoạn 2004-2005 vào khoảng 15 tỉ đồng. Theo các nhà khoa học, giai đoạn này việc bắt đầu nghiên cứu các lý thuyết mô phỏng và mô hình cho các ứng dụng nano, các vật liệu từ tinh thể nano, các vật liệu xúc tác nano và vật liệu polymer là thích hợp nhất đối với Việt Nam.
Vượt qua giai đoạn nghiên cứu lý thuyết, kể từ năm 2005, khi phòng thí nghiệm công nghệ nano trọng điểm quốc gia đầu tiên được thành lập tại ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh, lĩnh vực nano tại Việt Nam sẽ bước vào con đường công nghệ theo xu thế của thế giới. Theo TS Đặng Mậu Chiến - Giám đốc Phòng Thí nghiệm, hiện ĐH Quốc gia TP Hồ Chí Minh đang gấp rút hoàn thành các bước để đến tháng 6/2005 chính thức đưa vào sử dụng phòng thí nghiệm nano. Phòng thí nghiệm này được xây dựng 2 tầng trên diện tích 700m2, trong đó có phòng sạch đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chi phí về trang thiết bị cho phòng thí nghiệm dự kiến khoảng 4,3 triệu USD. Trọng tâm nghiên cứu của phòng thí nghiệm này là công nghệ (chế tạo ra linh kiện vi điện tử cụ thể ) và ứng dụng. Trước mắt, phòng thí nghiệm sẽ vận hành đến năm 2010. sau thời gian này sẽ phát triển, bước vào khu nghiên cứu của ĐH Quốc gia với quy mô lớn hơn.
Thùy Ngân
|
|
|
Post by Robot on Feb 4, 2005 13:07:15 GMT -5
Chốt nano, tương lai của công nghệ điện tử
Các nhà khoa học Mỹ vừa chế tạo một loại chốt nano với hy vọng thay thế công nghệ bán dẫn hiện nay. Những thiết bị này được tạo nên từ các sợi bạch kim và phân tử axít steric.
Các nhà nghiên cứu vẫn nỗ lực tìm cách thay thế silicon.
Theo nhóm nghiên cứu tại Hewlett Packard (HP), chốt nano có tiềm năng hoạt động tốt hơn bóng bán dẫn hiện nay, nâng cao hiệu suất của máy tính. Bóng bán dẫn là công tắc cho thiết bị điện tử hoạt động và luôn được coi là các linh kiện chính của máy tính. Ngày nay, công nghệ đã có thể gắn hàng triệu bóng bán dẫn lên một con chip có kích cỡ bằng móng tay người. Công nghệ này đang dần đạt tới giới hạn của nó.
Giống như bóng bán dẫn tiêu chuẩn, chốt nano có thể điều khiển tín hiệu điện đi qua nó. Bóng bán dẫn thông thường phụ thuộc vào đặc tính bán dẫn của silicon để kiểm soát dòng điện trong mạch. Bóng bán dẫn silicon nhỏ nhất có kích cỡ 90 nanomet (một phần tỷ của 1m), nhỏ hơn chiều rộng của tóc người 1.000 lần. Trong khi đó, chốt nano chỉ có kích cỡ 2-3 nanomet.
Các nhà nghiên cứu HP nói rằng công nghệ này còn lâu mới được sử dụng rộng rãi và sẽ không khả thi về mặt thương mại cho tới khoảng năm 2012. Họ hy vọng có thể kết hợp nhiều chốt nano với nhau để thực hiện nhiều chức năng. Tuy nhiên, cuối cùng loại công nghệ này sẽ thay thế bóng bán dẫn, cũng giống như bóng bán dẫn thay thế ống chân không và ống chân không thay thế rơle điện từ.
* Minh Sơn (Theo BBC)
|
|
|
Post by Robot on Feb 6, 2005 11:42:30 GMT -5
Robot sinh họcCác nhà nghiên cứu công nghệ nano vừa chế tạo một loại robot sinh học tí hon, có hệ cơ hình thành từ tế bào động vật sống. Robot sinh học tí hon. Carlo Montemagno thuộc ĐH California cùng cộng sự đã khắc đòn bẩy có kích vỡ vài nanomet lên con chip silicon. Sau đó họ dùng một sợi dây bằng vàng hoặc chrome để nối đòn bẩy với mấu neo. Cuối cùng, họ bổ sung tế bào cơ tim của chuột lên con chip. Tế bào chỉ dính vào dây kim loại và được ngâm trong dung dịch đường. Tế bào cơ phân chia và sinh trưởng dọc theo dây kim lại để tạo thành những cơ tí hon. Có thể kích thích những cơ này để chúng co dãn, từ đó kéo đòn bẩy. Ngoài việc làm xóa nhòa ranh giới giữa sinh vật và máy móc, các robot sinh học nano đầu tiên này báo hiệu bước đột phá trong việc sản xuất máy sinh học. Trong tương lai, có thể sử dụng công nghệ này để tái tạo ngón tay đứt lìa bằng cách nuôi cơ mới từ tế bào cơ của bệnh nhân trên xương nhân tạo. Thành công cũng mở ra khả năng đưa các loại tế bào khác vào vi mạch để thử nghiệm và sử dụng cho nhiều mục đích. * Minh Sơn (Theo Discovery )
|
|