|
Post by Robot on May 20, 2004 7:48:20 GMT -5
Vi khuẩn thắp sáng đồ đạc trong nhà Giới khoa học đã tạo ra cá, lợn và gà phát sáng bằng cách bổ sung gien của sứa. Mới đây, họ lại cho ra đời một số đồ gia dụng nguyên mẫu phát sáng nhờ... vi khuẩn. Ghế tựa phát sáng nhờ vi khuẩn. Những đồ đạc trên do TS vi trùng học người Australia Kathy Takayama và hoạ sĩ John Nicholson thuộc ĐH New South Wales thiết kế và đang được trưng bày tại triển lãm của họ ở Khu Không gian Nghệ thuật đương đại Canberra. Mục đích của triển lãm là thể hiện cách sử dụng độc nhất vô nhị vi khuẩn phát quang sinh học, tạo ra ánh sáng do tiến trình oxy hoá. Nổi bật nhất là "Deep Green" - máy tạo sinh vật, chứa vô số vi khuẩn phát quang sinh học để cung cấp ánh sáng cho các vật dụng khác trong nhà, như ghế phát sáng mang tên ''ghế tựa sứa''. Ghế tựa này dựa vào ánh sáng do hai loài vi khuẩn thuộc giống Vibrio tạo ra. Vibrio giống như vi khuẩn gây bệnh tả. Tuy nhiên, không giống vi khuẩn tả, Vibrio harveyi và Vibro fischeri không gây bệnh. Chúng sống trên cơ thể của cá vảy chân cũng như mực dưới biển sâu và phát sáng, giúp các sinh vật biển này thu hút con mồi. Phát quang sinh học xảy ra khi số lượng vi khuẩn đạt tới một mật độ nhất định. Đó là khi các hoá chất mà vi khuẩn sử dụng để thông tin có tên là autoinducer đạt mức tới hạn và kích hoạt một loạt gien phát quang sinh học. Takayama cho biết: ''Đây là cách vi khuẩn giám sát số lượng của chúng''. Triển lãm là một phần của Dự án Ánh sáng Vi khuẩn cộng sinh, nhằm thách thức ý tưởng của mọi người về vi khuẩn và vi trùng. Takayama nói: ''Chúng ta luôn muốn loại bỏ vi khuẩn và sử dụng nhiều sản phẩm diệt khuẩn trong nhà. Tuy nhiên, không ai nghĩ rằng chúng ta có thể sử dụng các loại vi khuẩn để tạo ra nhiều đồ đạc và tắm trong ánh sáng của chúng''. Nicholson đã làm việc với các loại polymer và cách đây một năm rưỡi, anh bắt đầu nghiên cứu vi khuẩn tại phòng thí nghiệm của Takayama, học cách nuôi cấy vi khuẩn cũng như tham dự nhiều bài giảng để biết vi trùng học là gì trước khi hai người đưa ra ý tưởng đồ đạc phát sáng bằng vi khuẩn. Mặc dù có thể làm đồ đạc trong nhà phát sáng, song chi phí nuôi cấy vi khuẩn sẽ rất cao. Minh Sơn (Theo ABCNews)
|
|
|
Post by Oshin on May 26, 2004 15:46:14 GMT -5
Tái nhân bản ðộng vật không còn là mõ ýớc Một con bò ðýợc nhân bản từ một con bò nhân bản trýớc ðó vẫn sống khoẻ mạnh và có khả nãng sinh sản trên một trang trại ở Nhật Bản. Nó là bằng chứng sống cho thấy ''nhân bản chuỗi'' không chỉ thành công ở chuột. Bò ðen. Nhân bản chuỗi còn ðýợc gọi là tái nhân bản. Phýõng pháp này ðã ðýợc sử ðụng ðể tạo ra một con bò ðực màu ðen tên là Sho-zaburo vào nãm 2000. Tuy nhiên, mãi cho tới hôm qua, thành công này mới ðýợc tuyên bố bởi các nhà nghiên cứu muốn ðảm bảo con bò trýởng thành và hoàn toàn khoẻ mạnh. Ðộng vật có vú duy nhất khác ðã ðýợc nhân bản từ một ðộng vật nhân bản cùng loài là chuột. Một số nhà khoa học cho rằng không thể tạo ra ðộng vật nhân bản thế hệ hai ở các ðộng vật lớn hõn và mọi phòng thí nghiệm ngoại trừ nhóm nghiên cứu trên ðã thất bại trong nỗ lực ðó. Ðột biến gien có xu hýớng tích tụ khi tái nhân bản. Ðột biến gien giải thích tại sao nhiều ðộng vật nhân bản chết sớm khi còn là bào thai hoặc ở giai ðoạn ðầu ðời sau khi sinh. Xiangzhong Yang, một trong ba tác giả nghiên cứu thuộc ÐH Connecticut (Mỹ ) cho biết: ''Chúng tôi ðã chứng tỏ rằng có thể tiến hành tái nhân bản ở những loài ðộng vật bậc cao''. Sho-zaburo là cháu của con bò Kamitakafuku, chết cách ðây hai nãm. Yang và các nhà nghiên cứu Nhật Bản ðã tạo ra sáu con bò nhân bản từ ADN trong tế bào da ở tai của Kamitakafuku vào nãm 1998 khi nó 17 tuổi. Ba tháng sau khi những ðộng vật nhân bản thế hệ ðầu tiên này chào ðời, các nhà khoa học ðã lấy tế bào từ tai của một con tên là Saburo, kết hợp ADN ðó với trứng bò rỗng (ðã ðýợc rút nhân) ðể tạo ra 358 phôi. Sau ðó, 19 phôi thai nhân bản khả thi ðýợc cấy vào tử cung của bò mẹ mang thai hộ. Tuy nhiên, chỉ có hai con bò nhân bản thế hệ hai chào ðời vào mùa ðông nãm 2000. Một con chết do thiếu máu và nhiễm khuẩn ngay sau khi sinh. Tuy nhiên, Sho-zaburo sống sót và khoẻ mạnh. Sho-zaburo không có dấu hiệu suy thoái nhiễm sắc thể - hiện týợng lão hoá sớm. Yang cho biết ông không thể giải thích tại sao Sho-zaburo có khả nãng sinh sản mặc dù tinh trùng từ Saburo không thể làm các con bò khác mang thai. Bí ẩn vô sinh ở những con bò nhân bản thế hệ hai cần ðýợc nghiên cứu ðể xác ðịnh tiềm nãng của nhân bản trong chãn nuôi. Nỗ lực tạo thế hệ ðộng vật nhân bản thứ ba ðã thất bại sau khi 248 trứng kết hợp ðýợc sử dụng. Có sáu ca mang thai song tất cả bào thai bị sẩy trong vòng 100 ngày. Thí nghiệm trên có ít tác ðộng về thực tiễn bởi tái nhân bản và thậm chí là nhân bản không hiệu quả. Các chuyên gia nhân bản chẳng hạn nhý Jose Cibelli thuộc ÐH Michigan nói rằng khó khãn của Yang trong nhân bản bò thế hệ hai và thất bại liên tiếp trong việc tạo bò nhân bản thế hệ ba là bằng chứng cho thấy một cõ chế quan trọng tên là telomere bị lỗi ở ðộng vật nhân bản. Ðể nhân bản, các nhà nghiên cứu thay thế vật liệu di truyền trong trứng bằng ADN từ ðộng vật cần ðýợc nhân bản. Bằng cách sử dụng sốc ðiện và một số biện pháp khác trong phòng thí nghiệm, trứng bị lừa ðể ''tin'' rằng nó ðã ðýợc thụ tinh và phát triển thành một phiên bản giống hệt ðộng vật cho ADN về mặt di truyền. Mặc dù các chuyên gia nhân bản ngày càng thành thạo hõn trong lĩnh vực này song vẫn còn nhiều vấn ðề tồn tại. Trong số hàng trãm phôi nhân bản ðýợc tạo ra, chỉ có một ðộng vật nhân bản chào ðời và chúng thýờng bị béo phì hoặc mắc các chứng bệnh khác. Yang hy vọng công trình tái nhân bản của ông sẽ giúp tìm ra những gien gây lỗi tái lập trình. Rudolf Jaenisch, chuyên gia nhân bản thuộc Viện Công nghệ Massachusetts, cho biết ngày càng khó ðể nhân bản các loài gặm nhấm qua sáu thế hệ. Các vấn ðề về kích hoạt các gien ðúng cách trong quá trình phát triển của phôi giải thích tỷ lệ thành công giảm dần trong ''nhân bản chuỗi'' và những dị tật ở nhiều ðộng vật nhân bản. GS George Seidel thuộc ÐH Colorado cho rằng ðiều quan trọng là các nhà khoa học ðã chứng minh vẫn có thể tiến hành nhân bản chuỗi mặc dù gặp nhiều khó khãn. Seidel và Jaenisch nhất trí rằng nghiên cứu mới cũng là bằng chứng cho thấy tế bào của ðộng vật nhân bản không lão hoá nhanh hõn tế bào của ðộng vật khác. Minh Sõn (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Robot on Sept 29, 2004 11:31:05 GMT -5
Nhật Bản: Tạo ra nguyên tố hóa học nặng nhất Các nhà khoa học Nhật Bản đã thông báo vào thứ 3 (28/9) thành công của mình trong việc tạo ra nguyên tố hóa học mới nặng nhất từ trước đến nay. Nguyên tử của nguyên tố này mang số 113, là nguyên tố hóa học nhân tạo đầu tiên do Nhật Bản tạo nên.
Kosuke Morita và các đồng nghiệp khác tại Viện Vật lý Hóa học Nhật Bản là những người đã đem đến thành công này cho nước Nhật. Với tư cách là cha đẻ của nguyên tố này, họ đã đặt tên cho nó là japonium.
Nguyên tố tự nhiên nặng nhất là uranium, có số thứ tự là 92. Những nguyên tố nặng hơn uranium đều do con người tạo ra. Từ năm 1940 đến năm 1996, con người đã tạo thêm rất nhiều các nguyên tố nặng khác. Nguyên tố mang số 112 đã được các khoa học gia Đức tạo ra vào năm 1996.
Người Nhật đã phá vỡ kỉ lục này bằng nguyên tố japonium của mình. Họ tạo ra nguyên tố này bằng cách dùng máy gia tốc bắn phá các nguyên tử bismuth, mang số 83 cùng lúc với các nguyên tử kẽm mang số 30.
Vào ngày 23/7, sau khi thực hiện thí nghiệm này với 1 nguyên tử bismuth và 2,5 triệu nguyên tử kẽm mỗi giây trong vòng 80 ngày, họ đã phát hiện được 1 nguyên tố hoàn toàn mới - nguyên tố này phân rã rất nhanh, chỉ trong khoảng 0,3 mili giây.
Nguyên tử khối của nó là 278 và số thứ tự là 113 vì nguyên tử của nguyên tố có 113 hạt proton và 165 hạt nơtron.
* Các nhà khoa học của Nga cũng cho biết rằng họ đã tạo được các nguyên tố hóa học mới mang số từ 113 đến 115. Nhưng các nghiên cứu này vẫn còn đang chờ được công nhận quốc tế.
Lãm Du (Theo China View)
|
|
|
Post by Robot on Oct 18, 2004 12:25:04 GMT -5
TP.HCM: Chế tạo thành công sáu robot công nghiệp
(VietNamNet) - Lần đầu tiên tại Việt Nam, sáu robot công nghiệp phục vụ trong môi trường độc hại và không an toàn đã được nghiên cứu chế tạo và đưa vào thử nghiệm thành công. Đây là kết quả nghiên cứu ròng rã trong ba năm của gần 30 nhà khoa học thuộc ĐH Bách khoa TP HCM.
Sáu con robot này có thể thay thế con người làm việc trong môi trường độc hại và không an toàn. Robot có thể hoạt động nhanh và chuẩn xác trong các công việc: hàn, lắp ráp, vận chuyển sản phẩm và cấp phôi trong các dây chuyền tự động. Đó là: robot vạn năng phục vụ cho quá trình hoá luyện nhiệt; robot hàn; robot Crane; tay máy phục vụ trong dây chuyền sản xuất đạn, thuốc nổ; tay máy lấy sản phẩm phôi PET trên máy ép nhựa (gồm tay máy theo phương ngang và tay máy theo phương đứng).
PGS TS Lê Hoài Quốc, chủ nhiệm đề tài cho biết: Nhóm nghiên cứu đã khảo sát, điều tra về nhu cầu sử dụng robot để thay thế công nhân trong các môi trường độc hại và không an toàn của một số cơ sở sản xuất, công ty. Vì thế, khi robot được thiết kế chế tạo xong đã được đưa ngay vào ứng dụng thử nghiệm tại các đơn vị có nhu cầu.
Robot hàn có trọng lượng khoảng 300kg, được dùng để hàn hồ quang, cắt kim loại bằng gas, plasma, phun phủ. Đầu hàn được lắp trên robot và được điều khiển tự động theo yêu cầu của mối hàn. Robot hàn có thể hàn được các quỹ đạo cong liên tục, nhiều chiều trong không gian. Robot hàn không chỉ để hàn mà còn để cắt kim loại rất có hiệu quả. Robot có thể cắt bằng plasma có độ chính xác rất cao. Robot này đang được triển khai thử nghiệm tại Nhà máy đóng tàu Hà Nội (Thanh Trì).
Robot vạn năng phục vụ cho quá trình hoá nhiệt luyện đang được triển khai thử nghiệm tại Công ty Công nghiệp Cơ khí Sài Gòn (SJMC), Quận 11, TP HCM. Robot này nặng khoảng 250kg, có thể với xa đến 1.650mm. Robot vạn năng được dùng để thay thế công nhân thực hiện việc cấp phôi vào máy tôi cao tần và vận chuyển sản phẩm sau khi tôi xong. Với cách này, người công nhân có thể đứng từ xa thực hiện các thao tác cấp phôi vào băng tải, cách ly được môi trường tiếp cận với máy tôi cao tần như trước đây.
Robot Crane, dạng máy trục, được dùng thay thế người để vận chuyển đạn súng cối 81mm trong dây chuyền nạp thuốc đạn. Hiện vẫn còn nhiều nơi trong ngành công nghiệp quốc phòng vẫn còn thực hiện bằng phương pháp thủ công khi nạp thuốc nổ và thuốc đạn. Robot Crane có nhiệm vụ cầm quả đạn đưa vào vị trí quy định để nạp thuốc nổ bằng thiết bị chuyên dụng, khi nạp thuốc xong sẽ có nhiệm vụ vận chuyển quả đạn ra. Ngoài ra, robot này cũng có thể làm việc trong dây chuyền sản xuất có môi trường độc hại, không an toàn. Robot Crane hiện được thử nghiệm tại Xưởng Sửa chữa Vũ khí và Trang bị Kỹ thuật - Bộ đội Biên phòng.
Robot camera crane (RCC) là một dạng máy trục camera, có khả năng hoạt động như một robot công nghiệp. Với tay máy là cần trục mang camera, robot có thể tự động quay phim đối tượng được ghi hình ở nhiều vị trí phức tạp khác nhau và với những chế độ khác nhau. Hiện RCC đang được ứng dụng thử nghiệm tại cơ quan thường trú của Đài Truyền hình Việt Nam tại TP.HCM.
Tay máy lấy sản phẩm nhựa gồm hai loại: loại nằm ngang dùng để lấy phôi nhựa chai PET, loại đứng dùng để lấy sản phẩm trên máy ép nhựa kiểu ép phun. Tay máy khi hoạt động phải đảm bảo dịch chuyển nhanh, chính xác để đưa khuôn đến các vị trí lấy phôi từ khuôn trên máy ép nhựa. Tay máy được tính toán sao cho phải thật khớp với tín hiệu điều khiển (đóng, mở) của khuôn nhựa. Hai robot lấy sản phẩm nhựa này hiện đang được ứng dụng thử nghiệm tại Công ty Nhựa Đô thành (thuộc Sở Công nghiệp TP.HCM).
Ngoài sáu sản phẩm robot trên, nhóm nghiên cứu cũng đã xây dựng ba phần mềm giúp tra cứu và hỗ trợ thiết kế robot. Giao diện chương trình được thiết kế cả bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Dựa trên những thông tin tham khảo được từ các phần mềm này, người sử dụng có thể quyết định chọn những mẫu robot có sẵn hoặc thiết kế một mẫu robot mới. Phần mềm thiết kế và mô phỏng robot được xây dựng như một môi trường hỗ trợ việc thiết kế ý tưởng, cung cấp hình ảnh trực quan ban đầu về robot mà các nhà thiết kế đang cần cho một ứng dụng nào đó.
Thu Thảo
|
|
|
Post by Robot on Nov 11, 2004 9:20:10 GMT -5
Nguyên tố hóa học thứ 111 đã có tên gọi
Ngày 8/11, nguyên tố hóa học thứ 111, trong bảng tuần hoàn Mendelev đã được các nhà khoa học của Hội Nghiên cứu Ion nặng (GSI) đặt tên là "Roentgenium", tên của nhà khoa học Wilhelm Conrad Roentgen, người đã phát hiện ra tia quang tuyến vào ngày 8/11/1895, cách đây đúng 109 năm để tưởng nhớ đến ông. GSI cho biết Hiệp hội hóa học gia quốc tế (IUPAC) đã chấp nhận việc đặt tên nói trên cho nguyên tố 111.
Nguyên tố hóa học 111 được tạo ra vào năm 1994, do một nhóm các nhà khoa học thuộc GSI thực hiện bằng cách sử dụng thiết bị tăng tốc để tạo ra sự tổng hợp hạt nhân của hai nguyên tố uyxmút và niken. Kết quả khi đó đã được xác định thông qua nhiều thí nghiệm độc lập với nhau.
Cho tới năm 2003, IUPAC mới chính thức thừa nhận sự tồn tại của nguyên tố 111 và công nhận GSI là tổ chức có công phát hiện ra nguyên tố này.
(Theo TTXVN)
|
|
|
Post by Oshin on Nov 15, 2004 7:45:37 GMT -5
Chế tạo thành công bột chữa cháy rừng
Khi rắc bột này lên, đám cháy sẽ hạ nhiệt và tắt dần. Đặc biệt, bột không gây ô nhiễm môi trường mà sẽ tan biến thành phân bón, sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Đó là công trình nghiên cứu của nhà khoa học nghiệp dư Nguyễn Văn Thanh, đang sống tại TP HCM.
Ông Thanh đã tìm ra quy trình sản xuất bột chữa cháy rừng, có tính năng khống chế được những đám cháy lớn nhiệt độ cao. Sự thành công đáng kể này là nhờ bột chữa cháy rừng có được 4 tính năng: bột có tỷ trọng nặng, hạt lớn để khi rải vào đám cháy không bị gió của đám cháy thổi ra ngoài. Ở nhiệt độ trên 100 độ C, bột sẽ hóa thành thể lỏng không bốc hơi, dễ bám vào các vật đang cháy.
Khi gặp các vật đang cháy và than hồng, thể lỏng này sôi lên, thải ra khí CO2 làm tắt than hồng, đồng thời tạo ra trên bề mặt của vật đang cháy một lớp bột xốp, ngăn chặn không cho chỗ đó cháy lại, đồng thời hạ nhiệt mau chóng đám cháy. Sau khi đám cháy được dập tắt, các hóa chất từ bột chữa cháy khi gặp mưa sẽ tự tan ra biến thành phân bón, không làm ô nhiễm môi trường, trả lại đất tự nhiên cho rừng.
Giá thành bột chữa cháy rừng không cao (khoảng 4.000đ - 5.000đ/kg). Hiện nay, sau khi tra cứu tại Cục Sở hữu trí tuệ, không tìm thấy sự trùng hợp đề tài chống cháy rừng với các quốc gia, ông Nguyễn Văn Thanh đã làm báo cáo gửi lên Bộ Khoa học Công nghệ và xúc tiến đăng ký sáng chế cho đề tài.
Trước phát minh bột chữa cháy rừng, ông Thanh đã cho ra đời nhiều sản phẩm chống cháy độc đáo, như sơn không dẫn cháy, xốp cách nhiệt không dẫn cháy, giấy chống cháy... Hiện tại, ông đang đưa vào sản xuất dung dịch chống cháy, và cả đất đá chống cháy.
"Thần chữa cháy" Nguyễn Văn Thanh khẳng định, đất đá chống cháy rừng do ông làm ra không phải vì lợi nhuận cho riêng ông, mà trên hết là vì sự sinh tồn của rừng, vì lợi ích của cả xã hội. Giá thành chế tạo những sản phẩm chống cháy này không bằng một nửa nếu so với những vật liệu chống cháy mà chúng ta vẫn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Do vậy, ông cho rằng nếu những phát minh của ông được ủng hộ, được phổ biến rộng rãi, sẽ là động lực cho chính ông, cũng như nhiều nhà khoa học khác có thể cống hiến tâm sức, trí tuệ nhiều hơn nữa phục vụ đất nước.
(Theo VTV, Sài Gòn giải phóng)
|
|
|
Post by Oshin on Nov 15, 2004 7:45:59 GMT -5
Xốp cách âm, cách nhiệt không dẫn cháy
Ám ảnh bởi vụ cháy Trung tâm Thương mại quốc tế ITC, biết nguyên nhân dẫn cháy cực kỳ nhanh của các tấm cách âm, cách nhiệt..., anh Nguyễn Văn Thanh ở TP HCM đã chế tạo ra chất xốp cách âm, cách nhiệt không dẫn cháy, với giá thành chỉ bằng nửa so với hàng nhập khẩu.
Với loại xốp cách âm cách nhiệt này, khi đốt trong nhiệt độ cao, xốp chỉ bị nám như than tổ ong cứng, không bốc thành ngọn lửa, không cháy thành than hồng. Anh Thanh cho biết sản phẩm có thể ứng dụng rộng rãi cho nhiều ngành xây dựng, kiến trúc, bảo quản nhà kho, ngân hàng. Trước mắt nó sẽ là chất liệu trang bị ở các văn phòng cao ốc, phòng thu âm, tàu, xe du lịch... Tính ra sử dụng xốp Việt Nam rất kinh tế, so với xốp nhập ngoại giá khoảng 500.000 đồng/m2.
Tuy nhiên, không mấy ai biết rằng, để có được sản phẩm này, tết vừa qua, nhà phát minh bình dân đã gần như quên cả những niềm vui đón năm mới để ngồi trông từng mẻ xốp trong một căn gác xép ọp ẹp nghèo nàn trên đường Bửu Long, TP Hồ Chí Minh. Nhiều người khuyên anh đi đăng ký công trình nghiên cứu chất liệu mới, nhưng anh Thanh từ chối vì không có đủ tiền. Giờ đây, mong ước của anh là được sự quan tâm của nhà nước và các nhà đầu tư để ứng dụng rộng rãi loại xốp mới này, góp phần vào công tác phòng cháy chữa cháy.
Trước sản phẩm xốp cách âm cách nhiệt không cháy, anh Thanh cũng đã nghiên cứu ứng dụng thành công nhiều công trình như: cách ép các tông để cải tiến mũ cối; chế tạo nắp chai bằng xơ dừa; máy cắt miến dong; sơn tổng hợp... Hai năm gần đây anh chế tạo được chất sơn men từ các loại polymer thông thường chiết xuất từ dầu mỏ và bột mầu. Chất liệu này đã được Trung tâm Kiểm nghiệm Kỹ thuật Trung ương 3 công nhận đạt tiêu chuẩn Việt Nam với chất lượng không thua kém gì sơn của nước ngoài. Giá thành sơn men cũng thấp hơn, độ khoảng 1/3 so giá thành sơn nhập ngoại. Sơn men có thể ứng dụng rộng rãi trong in tráng bao bì đồ hộp; in tráng giấy, in lịch; hàng mỹ nghệ gỗ xuất khẩu; gốm sứ, gạch men; sơn công nghiệp, sơn tàu thủy. Đối với ngành sơn tàu thủy, do sơn sản xuất từ các polymer tổng hợp, có ưu thế tạo bề mặt sơn cứng và trơn. Nhờ vậy, con hà khó bám và không ăn được vào mạn thành tàu nên không cần pha thêm hoá chất độc hại, giảm bớt được sự ô nhiễm môi trường. Đây cũng là một yếu tố mà ngành sơn tàu biển trên thế giới khá quan tâm...
Bạn đọc quan tâm có thể liên hệ với anh Nguyễn Văn Thanh theo số điện thoại 0913 661 202.
(Theo Sài Gòn Giải Phóng)
|
|
|
Post by Robot on Nov 17, 2004 11:36:40 GMT -5
Vải thông minh
Bạn nghĩ thế nào về một chiếc túi xách biết lên tiếng nhắc nhở khi bạn quên mang ví hoặc mang ô, thậm chí bạn còn có thể biến nó thành tấm khăn choàng có hiển thị mức ô nhiễm ngày nay? Hoặc một tấm thảm treo tường biết phát sáng khi có ai đấy sử dụng kết nối Internet không dây nhà bạn?
Tất cả những đồ vật kỳ lạ nói trên sắp sửa xuất hiện trong đời sống của chúng ta. Đây là chuyện hoàn toàn có thật, nhờ vào một hệ thống miếng vá vải được điện tử hóa. Mỗi miếng vá có chứa một đơn vị chức năng của hệ thống - bộ vi xử lý và một bộ nhớ, cùng với thiết bị thu phát vô tuyến, máy cảm biến, micro, pin hoặc màn hình. Nhóm nghiên cứu, bao gồm Adrian Cable, Gauri Nanda và Michael Bove thuộc Viện Công nghệ Massachusetts, cho biết, ghép các mảnh vá vào với nhau theo nhiều cách sẽ tạo nên những vật thể cảm biến môi trường hoặc cung cấp thông tin khác nhau.
Để chống thấm nước, bảng mạch trong miếng vá được bọc bằng một lớp nhựa cứng, trong suốt, sau đó được cho vào một lớp bọt biển mỏng và gắn vào bên trong tấm vải. Bảng mạch này có khả năng tương thích với nhiều loại phụ kiện, từ máy phát Bluetooth cho tới bảng mẹ lấy từ máy tính.
Các mảnh vá được nối với nhau bằng Velcro đã được điều chỉnh để có thể kết nối bằng điện cũng như bằng tay. Dây từ bảng mạch được nối với các công tắc bọc bạc bên trong Velcro. Bằng cách này, dữ liệu và dòng điện có thể chảy từ module này sang module khác. Sử dụng các miếng vá hình vuông hoặc hình tròn, người dùng có thể trang trí hoặc sửa sang những vật dụng hữu ích như túi xách, dây lưng, rèm cửa hoặc khăn choàng. Bove cho biết: "Ngày hôm nay, bạn có thể mang cả hệ thống trên khăn quàng, còn ngày mai lại mang trên dây lưng".
Các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực điện toán thâm nhập đã chế tạo được những loại máy tính và bộ cảm biến gắn trong áo khoác và áo choàng. Tuy nhiên, các thiết bị này không thể chỉnh sửa lại cấu hình để thực hiện nhiệm vụ khác được. Với miếng vá thông minh, người sử dụng có thể dễ dàng đổi module để dùng hệ thống vào nhiều mục đích khác nhau.
Để chế tạo được loại túi biết nhắc chủ khỏi quên đồ, Nanda và Cable đã trang bị cho module một ăng-ten và một thiết bị thu vô tuyến. Module được lập trình để "lắng nghe" tín hiệu từ thẻ nhận dạng tần số vô tuyến (RFID) trên đồ vật như điện thoại di động, chìa khoá, ví, v.v... Module cảm biến gắn trên tay cầm túi xách sẽ phát hiện ra lúc nào thì chiếc túi bị nhấc lên, đồng nghĩa với việc chủ nhân sắp sửa ra đi. Khi đó, thiết bị đọc sẽ được kích hoạt để kiểm tra một loạt các đồ vật mà module máy tính đã được lập trình tìm kiếm. Nếu phát hiện thấy thiếu đi vật nào đấy, nó sẽ sử dụng module phát âm thanh ở một mảnh vá khác để đưa ra lời nhắc nhở: "Điện thoại di động, có! Ví, có! Chìa khoá, không!"
Hiện nay, Nanda và Cable đang có kế hoạch làm cho hệ thống trở nên thông minh hơn. Họ muốn bổ sung một con chip Bluetooth để có thể kết nối với Internet thông qua một máy tính gần đấy và tự động download dự báo thời tiết. Nhờ vậy, hệ thống này có thể nhắc nhở khi bạn quên mang ô trong lúc trời sắp mưa. Bove cho biết: "Khi có chức năng mới, hệ thống có thể dễ dàng nâng cấp bằng cách bổ sung bộ cảm biến mới. Điều này cũng giống như việc tải nhạc chuông hàng ngày vào điện thoại di động thôi."
(Theo VNcentral)
|
|
|
Post by Robot on Jan 25, 2005 13:36:22 GMT -5
Sau vài ngày, gỗ hóa... đá 21:58' 25/01/2005 (GMT+7)
Các nhà nghiên cứu Mỹ chỉ cần vài ngày để biến gỗ thành khoáng chất, chứ không cần đến hàng triệu năm như quá trình tự nhiên. Loại gỗ hoá đá này có tiềm năng tách hoá chất công nghiệp, lọc và hấp thụ chất ô nhiễm.
Gỗ hoá đá.
Theo Yongsoon Shin thuộc phòng thí nghiệm quốc gia Tây Bắc Thái Bình Dương, gỗ hoá đá là một loại khoáng rất cứng song lại cực xốp. Nó có bề mặt lớn, cứng và phần bên trong xốp. Với những tính chất này, gỗ hoá đá là vật liệu lý tưởng để hấp thụ hoặc tách các chất. Ngoài ra, nó cũng được sử dụng làm chất xúc tác trong nhiều quá trình khác.
Gỗ hoá thành đá khi cây bị chôn vùi trong tình trạng không có ôxy. Sau đó, cây hấp thụ các khoáng chất trong đất. Để tạo ra gỗ hoá đá, các nhà nghiên cứu đã mua gỗ dương và gỗ thông sẵn có trên thị trường rồi ngâm chúng vào bể axít, tiếp đến là một dung dịch silica trong nhiều ngày. Cuối cùng, gỗ được phơi khô ngoài trời, luộc trong thùng đầy argon ở nhiệt độ 1.400oC và rồi làm nguội.
Kết quả, chúng ta được một loại khoáng giống hệt gỗ hoá đá tự nhiên. Các nhà nghiên cứu đang tìm cách tạo các lỗ hẹp, có kích thước vừa phải để làm cho gỗ hoá đá xốp hơn, hữu ích hơn trong công nghiệp. Nếu lỗ quá nhỏ hoặc to, hiệu quả của gỗ hoá đá sẽ bị giảm.
* Minh Sơn (Theo AP)
|
|
|
Post by Robot on Feb 2, 2005 9:01:49 GMT -5
Vĩnh biệt transistor
TTO - Các nhà khoa học của HP đã có một phát minh đột phá có thể làm thay đổi toàn diện nền khoa học máy tính trong tương lai và phát minh này có thể sẽ chấm dứt vĩnh viễn thời đại thống trị của các loại transistor bán dẫn.
Các nhà nghiên cứu của HP đã chứng minh thành công một công nghệ mới gọi là “crossbar latch”. Đây là một công nghệ cũng tương tự như công nghệ của transistor nhưng cấu trúc của loại transistor thế hệ mới này sẽ nhỏ hơn khá nhiều và cũng dễ chế tạo hơn. Nhóm các nhà khoa học vật lý lượng tử của HP cho biết rằng công nghệ mới này sẽ mở đường cho một thế hệ máy tính mới có sức mạnh gấp hàng ngàn lần hơn so với những gì được gọi là “máy tính” mà chúng ta gặp hàng ngày.
Theo một báo cáo khoa học đăng trên tờ Tạp chí vật lý ứng dụng vào ngày hôm nay 2-2, các nhà khoa học của HP cho biết rằng công nghệ tiên tiến này có khả năng tái tạo tư duy luận lý ở mức độ cao, có thể thực hiện những chuỗi lệnh phức hợp đa chiều với các cấu trúc như NOT, AND và OR .
Công nghệ “crossbar latch” có những thuận lợi hết sức đáng kể, vượt xa công nghệ transistor trên bản mạch silicon truyền thống. Một vòng chuyển mạch bán dẫn tiêu chuẩn cần đến 3 transistor để thực thi và tái hiện tín hiệu của một lệnh NOT đa chiều, nhưng các transistor được bố trí trên bản mạch silicon bị giới hạn bởi chính kích thước của chúng, tuy rằng chỉ là một vài nanomet nhưng cũng đã ảnh hưởng đến tốc độ vận hành.
Công nghệ transistor “crossbar latch” chỉ cần 1 con transistor duy nhất với đường dẫn điều khiển đơn nhưng vẫn có thể thực thi cùng lúc nhiều tập lệnh phức hợp đa chiều như NOT, AND và OR.
HOÀNG HẢI (Theo The Register)
|
|
|
Post by Robot on Feb 5, 2005 14:46:25 GMT -5
Internet thuở siêu nhanh và thông minhTT - Với người sử dụng bình thường thì dịch vụ Internet tốc độ cao ADSL hiện tại đã thỏa mãn nhu cầu. Nhưng các nhà khoa học thì không chấp nhận như vậy. Trong tương lai không xa, sẽ có Internet 2 nhanh gấp 1.000 lần ADSL mà chúng ta đang dùng. Và web cũng nhảy vọt từ web hoàn toàn khô cứng và máy móc hiện tại sang web ngữ nghĩa (Semantic Web), khi đó trang web có thể "học" để hiểu và đáp ứng ý muốn của người sử dụng. Với công nghệ Internet thế hệ mới, hay còn gọi là Internet 2, người sử dụng có thể tải các file âm thanh hay phim ảnh với tốc độ nhanh gấp 1.000 lần hệ thống Internet băng thông rộng như ADSL hiện nay. Dự thi “Chiếc nón kỳ diệu” tại chỗ... Với một trò chơi hấp dẫn như “Chiếc nón kỳ diệu” trên Đài truyền hình VN (VTV) hiện nay, mỗi lần thi ban tổ chức phải mời các thí sinh bay ra tập trung tại một trường quay, ví dụ như ở Hà Nội. Như vậy, chi phí và thời gian đi lại không ít. Khi Internet 2 được đưa vào ứng dụng, thí sinh chỉ cần đến văn phòng tại địa phương của VTV để dự thi trực tuyến. Hình ảnh thông tin, kết quả... sẽ được truyền qua Internet 2 về phim trường chính để MC Long Vũ dẫn chương trình y như tất cả thí sinh đang đứng trước mặt anh vậy. Công nghệ Internet 2 được xây dựng từ năm 1996, và đến nay hầu hết các rào cản kỹ thuật đã được vượt qua. Hiện ở Mỹ, Tập đoàn Abilene Network đang triển khai một phần của mạng lưới thông tin siêu tốc toàn cầu Internet 2. Mạng lưới này sẽ do một cơ quan điều hành, cũng mang tên là Internet 2, đã chuyển thử nghiệm thông tin qua lại các vùng ở Mỹ với tốc độ 10 gigabit/giây. Mới đây, người ta tổ chức một buổi giới thiệu Internet 2 tại văn phòng ở Washington DC, nối với nhóm thợ lặn ở cách đó gần 5.000km ở vịnh Monterey, bang California, cho phép khách đến văn phòng tham dự một chuyến du lịch dưới đáy biển và nói chuyện với nhóm thợ lặn này. Truyền hình trực tuyến từ đại dương là điều không tưởng với mạng Internet hiện nay. Có lẽ rào cản cuối cùng của Internet 2 là vấn đề tiền nong. Ông Gary Bachula, phó chủ tịch Internet 2, cho biết tại Mỹ các trường đại học cỡ vừa nếu muốn kết nối vào mạng Internet 2 cần phải chi khoảng nửa triệu USD để nâng cấp hệ thống máy. Ký tên "Vì công lý" ủng hộ nạn nhân chất độc da cam VN qua website www.petitiononline.com/AOVN tại tòa soạn báo Tuổi Trẻ TP.HCM - Ảnh: T.T.D Semantic Web: khai quật kho báu tri thức nhân loại Tưởng như World Wide Web (www) đã hoàn hảo, nhưng đến năm 2005 Tim Berners Lee, cha đẻ của World Wide Web và hiện là nhà quản lý của tổ chức chuẩn web quốc tế World Wide Web Consortium (W3C), dự kiến sẽ thay thế bằng mạng Semantic Web. Mục đích cuối cùng của W3C là biến web trở thành một bộ não khổng lồ. Mọi máy tính nối với Internet đều có thể khai thác khối kiến thức chung của loài người về khoa học, kinh doanh và nghệ thuật. Mạng Semantic Web hiểu được không chỉ nghĩa của từ mà cả các quan hệ logic của từ với nhau. Nhờ đó máy tính đã trở thành một nhà cố vấn, có thể đưa ra những lựa chọn riêng của chúng. Trong khi những đơn vị phát triển Internet 2 tập trung tăng tốc độ lưu chuyển dữ liệu thì các nhà nghiên cứu của tổ chức chuẩn web quốc tế W3C lại đang cố gắng làm cho thông tin ngày một thông minh hơn. Nói một cách dễ hiểu, với cấu trúc của Semantic Web, hạn chế trong việc tìm kiếm thông tin hiện nay sẽ được giải quyết rốt ráo. Theo các chuyên gia Internet, trên bề mặt của web chứa khoảng 1-2 tỉ trang tài liệu. Nhưng ở phần sâu của web, số tài liệu lên đến 550 tỉ trang. Nói cách khác, bề nổi của web chứa khoảng 19 terabyte dữ liệu trong khi phần sâu bên trong chứa khoảng 7.500 terabyte (1 terabyte tương đương với sức chứa của 1.600 đĩa CD). Có khoảng 200.000 website có tầng thông tin sâu, khoảng hơn 1/2 số thông tin này nằm trong các cơ sở dữ liệu có chủ đề riêng biệt. Khoảng 95% thông tin trong các website có tầng thông tin sâu cho phép đa số người dùng có thể khai thác miễn phí. Bằng công nghệ tìm kiếm thông minh của mình, Semantic Web sẽ giúp người sử dụng khai quật kho báu tri thức nhân loại hiện đang bị World Wide Web vùi lấp. THẢO NGUYÊN
|
|
|
Post by Robot on Feb 7, 2005 16:00:13 GMT -5
10 kỹ thuật mới làm biến đổi cuộc sống
Các nhà khoa học đang thử nghiệm một loại thuốc viên rất nhỏ. Thuốc được đưa tới các tế bào ung thư mà không làm tổn thương gì đến các mô xung quanh, cũng không gây phản ứng phụ. Sự xuất hiện của nó trong tương lai gần sẽ là cuộc cách mạng về thuốc.
Vào dịp cuối năm, nhiều chuyên san khoa học kỹ thuật thường tổng kết những tiến bộ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc cải thiện đời sống nhân dân. Báo Khoa học & đời sống của Pháp đã điểm lại 10 tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn tới thay đổi cuộc sống trên thế giới:
1. Các viên thuốc nhỏ đi tới tế bào ung thư
Các tác giả coi đây là cuộc cách mạng về thuốc. Đưa các loại “thuốc nhỏ” này đi tới các tế bào ung thư mà không làm tổn thương gì đến các mô xung quanh, cũng không gây phản ứng phụ - đó là hy vọng từ nay đến 2010.
Các nhà khoa học ở Đại học tổng hợp Rice ở Houston đã tạo ra những viên bi bằng silic bọc vàng chỉ nhỏ bằng vài chục phần triệu milimét. Các viên bi này hút năng lượng tỏa sáng từ bức xạ hồng ngoại, có thể đi qua các mô sinh vật, do đó có thể làm nóng viên bi trong cơ thể từ xa. Khi viên bi tới tiếp xúc với các tế bào ung thư và tăng nhiệt độ, chúng có thể phá hủy các khối u hay di căn mà không ảnh hưởng gì tới các tế bào lành.
Tại Bệnh viện Charité ở Berlin, nhóm nghiên cứu Andreas Jordan đã thăm dò lâm sàng và cứu được một bệnh nhân trẻ bị ung thư (đã dùng các cách điều trị khác không hiệu quả). Hiện có 15 bệnh nhân ung thư não đang được thử nghiệm và theo dõi. Người ta hy vọng chỉ 5-6 năm nữa, kỹ thuật này sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong y học.
2. Điều chế các “chất dẻo sinh vật”
Điều chắc chắn là dầu mỏ (dầu hỏa) sẽ ngày càng hiếm và đắt. Vậy mà hiện nay, hàng ngàn chất dẻo dùng trong đời sống hằng ngày được làm từ dầu mỏ (như nĩa, cốc, túi đựng rác...). Các nhà hóa học đã nghiên cứu tạo ra nhiều chất dẻo từ thực vật (ngô, lúa mì, củ cải đường), thậm chí từ vi khuẩn.
Các chế phẩm mới này cũng có hiệu năng như các sản phẩm tổng hợp nói trên, lại có thể thoái biến trong một thời gian ngắn. Thành tựu khoa học mới này báo hiệu một cuộc “cách mạng thầm lặng” trong đời sống. Một chai đựng nước bằng polyetylen phải mất 4 thế kỷ mới thoái biến được, nhưng các chất dẻo sinh vật có thể thoái biến trong 20 ngày.
3. Xác định bằng tần số vô tuyến (RFID)
Nguyên lý của RFID dựa trên người đọc các nhãn tạo ra sóng từ, hình thành một dòng điện ứng trong anten của nhãn. Dòng điện này nạp vào tụ điện, cung cấp cho con bọ điện tử giữ thông tin, chuyển dữ kiện vào anten dưới dạng sóng từ cho người đọc.
Hệ thống RFID tạo nhiều thuận lợi trong cuộc sống. Ví dụ: Bạn mua hàng ở siêu thị, xe chuyển hàng đi qua nơi thanh toán sẽ nhận được tích kê tính tất cả số tiền phải trả, có thể làm cả thao tác ngân hàng về tài khoản số tiền phải trả. Bạn còn có thể xác định các loại thuốc, giới hạn sự gian lận trên hộ chiếu; tủ lạnh sẽ chỉ cho bạn thức ăn nào đã quá hạn sử dụng v.v...
Hiện nay, nhà sản xuất đã bán được 320 triệu hệ thống RFID từ năm 2002, dự kiến đến năm 2007 sẽ bán được nhiều tỷ hệ thống này.
4. Kiểm tra vật chất
Các nhà vật lý đã có khả năng kiểm tra tình trạng của hàng triệu nguyên tử, cập nhật tất cả tình trạng mới của vật chất (không phải là chất đặc, chất lỏng hay chất khí). Muốn như vậy, phải đạt nhiệt độ đủ thấp, có thể tới vài nanokelvin. Nhà khoa học Wolfgang Ketterie, được giải thưởng Nobel 2001, đã đạt được nhiệt độ 0,5 nanokelvin. Với kỹ thuật trên, người ta có thể cải thiện sự vận hành các đồng hồ nguyên tử, chế tạo các máy điện toán lượng tử và nhiều đổi mới khác về kỹ thuật.
5. Tạo ra nhận thức và hướng về trí năng nhân tạo
Từ đầu thế kỷ 19, Alain Cardon, Giám đốc Phòng thí nghiệm thông tin học ở Havre (Pháp) đã đưa ra chương trình nghiên cứu đi tới robot đầu tiên.
Đến nay, hệ thống nhiều tác nhân này đã có nhiều ứng dụng: từ công việc trong gia đình đến thăm dò các hành tinh, có mặt trong tổ chức quân đội, công an cứu hỏa... Nhật là nước có nhiều thành tựu đặc biệt về robot và ở nước ta cũng đã có những nghiên cứu ban đầu có kết quả đáng chú ý.
|
|
|
Post by Robot on Feb 7, 2005 16:00:26 GMT -5
6. Thành tựu mới trong liên lạc vô tuyến
Hiện nay hệ thống liên lạc hữu tuyến chỉ còn được sử dụng một cách ngẫu nhiên. Hệ thống vô tuyến đã thành chủ yếu, điện tử học trở nên rẻ hơn lại nhanh hơn. Sự kết hợp các mạng vô tuyến sẽ tạo thành một mạng vô tuyến toàn cầu rộng rãi hơn.
Triển vọng sử dụng rất đa dạng. Ví dụ, quần áo có thể trang bị các bộ phận thu dẫn để liên hệ với thầy thuốc ở nơi gần nhất khi cần thiết.
7. Phát minh mới về vật liệu
Chúng ta đã trải qua nhiều thời đại (đồ sắt, đồng đen...). Đến nay, việc phát hiện ra kiểu sắp xếp thành công nguyên tử carbon báo hiệu một thời kỳ mới với những đặc tính kỳ lạ về cơ học, điện học và điện tử học, tạo nên loại vật liệu vạn năng.
Loại vật liệu mới này (gọi là vi ống carbon) bền vững hơn đối với nhiệt độ, dẫn truyền hơn, cách điện hơn, bền hơn, nhẹ hơn... Các thớ của vật liệu này rất nhỏ (mảnh hơn sợi tóc 10 ngàn lần), có thể đi vào nhiều lĩnh vực kỹ thuật: máy thu hình, dụng cụ phẫu thuật, lốp xe, máy điện toán, áo gi-lê phòng đạn, khoang máy bay...
8. Chương trình hóa bộ não
Sau khi bị đau đớn dữ dội (như bị bỏng, gãy xương), đôi khi não gây bất động chi bị tổn thương để tránh cảm thấy đau đớn. Sự rối loạn này có thể gây nên bằng thị giác để tạo cảm giác chi bị liệt cử động được. Thế là bệnh nhân lại có thể cử động chi bị liệt. Kiểu thí nghiệm này làm ta nghĩ rằng việc chương trình hóa lại não có thể áp dụng để giảm nhiều sự đau đớn mạn tính. Có thể điều trị bằng cách gây ảo tưởng thị giác các chi bị cứng đờ do bệnh Parkinson (bệnh liệt rung). Ngoài ra, cách tiếp cận này còn có thể cải thiện triển vọng điều trị các chứng liệt do não bị tấn công (khi bị mất nhạy cảm).
Rất có thể chứng trầm cảm, một số bệnh tâm thần có thể điều trị bằng phương pháp nói trên, cần can thiệp sớm trước khi não đi vào hoạt động bệnh lý. Do vậy, các liệu pháp tâm lý phải tiến hành chương trình hóa lại bộ não. Tóm lại, tính mềm dẻo của bộ não đem lại hy vọng cho những bệnh nhân thần kinh hay bị chấn thương não.
9. Thuần dưỡng mặt trời
Từ trên lâu đài hay xe cộ, hiện người ta đã ứng dụng sơn có tác dụng quang điện một chiều để chuyển ánh sáng mặt trời thành điện năng. Các tế bào quang điện một chiều chạy không cần silicium, nên có khả năng làm rẻ điện năng từ mặt trời (hiện năng lượng mặt trời còn đắt hơn năng lượng hạt nhân và than đá tới 5 lần).
Hiện nay, nhu cầu dùng năng lượng mặt trời ở châu Âu, Mỹ và Nhật tăng mỗi năm 30% (trong những năm gần đây) nhưng trong tương lai 20 năm tới, phần năng lượng do mặt trời cung cấp chưa vượt khỏi 1% toàn bộ năng lượng sử dụng.
10. Phát hiện hành tinh khác
Liệu trong vũ trụ có hành tinh nào giống trái đất của chúng ta không? Câu hỏi này vẫn là mơ ước của nhân loại. Với kính viễn vọng hiện đại, người ta đã nhận ra 3 hành tinh từ bên ngoài chụp được tháng 11/2002 ở Chilê. Chúng quay xung quanh một mặt trời (khác với mặt trời của chúng ta).
Từ 10 năm nay, kính viễn vọng không gian của Mỹ Hubble làm mọi người kinh ngạc và thán phục vì bản âm (của ảnh chụp) được rõ ràng. Tương lai kính viễn vọng không gian của Mỹ có đường kính 6 m sẽ thay thế kính Hubble hiện nay. Châu Âu mới công bố kính viễn vọng tương lai của họ có đường kính tới 100 m, sẽ ra đời vào 2020. Hiện nay, gương quang học mới có 185 bộ phận, tương lai với gương phức tạp hơn (có 1.400 bộ phận), các nhà khoa học sẽ có thể nghiên cứu được các thành phần khí quyển của các hành tinh này, phát hiện ra các biến đổi về ánh sáng là dấu hiệu của các mùa tồn tại trên hành tinh đó.
Bà Nayla Farouki, nhà sử học và triết học đã phát biểu: “Phát hiện các hành tinh khác có thể là biện pháp duy nhất để định nghĩa sự sống là gì”.
GS Nguyễn Khang, Sức Khỏe & Đời Sống
|
|