|
Post by ntdoantrang on Aug 17, 2005 0:19:37 GMT -5
Chào diễn ðàn, xin lỗi vì ðã không online trong thời gian qua. Trang mới finish báo cáo thực tập tốt nghiệp, ðang chuẩn bị bảo vệ trýớc hội ðồng Khoa. Chuyên ðề của báo cáo lần này cũng về phí nýớc thải công nghiệp ở HCMC ðó. Theo Trang tìm hiểu ðýợc thì hiện nay công tác thu phí còn gặp rất nhiều trở ngại. Tuy Nhà nýớc ðã ban hành ðầy ðủ những vãn bản pháp quy về vấn ðề này. Có nghĩa là về mặt pháp lý công tác này ðýợc ðã nhìn nhận ðầy ðủ. Nhýng những trở ngại lại liên quan phần lớn ðến những tác nhân khách quan mà phải lấy phýõng châm "vừa làm vừa rút kinh nghiệm vừa sửa" mới ðýợc. yếu tố này cũng ðã ðýợc tính ðến trong ðề án thu phí của HCMC mình. Rất vui vì lại ðýợc lên diễn ðàn, và lại ðýợc nói về phí nýớc thải với mức tự tin cao hõn chút xíu. Chúc vui!
|
|
|
Post by ntdoantrang on Sept 1, 2005 8:46:54 GMT -5
Má»™t số thà nh quả đạt được và hạn chế của công tác thá»±c hiện thu phà nÆ°á»›c thải tại HCMC (nguồn HEPA) Ban hà nh văn bản pháp lý -Äối vá»›i nÆ°á»›c thải công nghiệp, Sở Tà i nguyên và Môi trÆ°á»ng giao cho Chi cục Bảo vệ môi trÆ°á»ng chịu trách nhiệm thá»±c hiện công tác thu phà bảo vệ môi trÆ°á»ng đối vá»›i nÆ°á»›c thải công nghiệp. -Äối vá»›i nÆ°á»›c thải sinh hoạt, Công ty Cấp nÆ°á»›c thu theo hóa Ä‘Æ¡n tiá»n nÆ°á»›c hằng tháng của các đối tượng chịu phà đối vá»›i nÆ°á»›c thải sinh hoạt. Những việc đã là m được -In ấn tà i liệu hÆ°á»›ng dẫn, mẫu biểu kê khai mức thu phà nÆ°á»›c thải công nghiệp: 8000 bá»™; -Thống kê, láºp danh sách đối tượng phải ná»™p phà bảo vệ môi trÆ°á»ng đối vá»›i nÆ°á»›c thải công nghiệp khoảng 6000 doanh nghiệp (theo thống kê của phòng tà i nguyên và môi trÆ°á»ng quáºn – huyện, Ban quản lý các Khu chế xuất và khu công nghiệp – HEPZA); -Tổ chức táºp huấn để phổ biến các quy định, chÃnh sách vá» thu phà bảo vệ môi trÆ°á»ng đối vá»›i nÆ°á»›c thải đến lãnh đạo các Sở, Ban, Ngà nh, các UBND quáºn – huyện, UBND phÆ°á»ng – xã trên địa bà n thà nh phố (khoảng 450 ngÆ°á»i); -Tổ chức há»p vá»›i Phòng quản lý đô thị quáºn – huyện, Phòng Kinh tế quáºn – huyện, Ban quản lý Khu chế xuất – Khu công nghiệp, Ban quản lý Khu công nghệ vá» kế hoạch và công tác phối hợp thá»±c hiện thu phà bảo vệ môi trÆ°á»ng; -Tổ chức 28 buổi táºp huấn cho các doanh nghiệp tại 24 quáºn – huyện, các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp – khu chế xuất trên địa bà n thà nh phố (khoảng 1500 doanh nghiệp tham dá»±); -Mở tà i khoản “Tạm giữ tiá»n phà bảo vệ môi trÆ°á»ng đối vá»›i nÆ°á»›c thải công nghiệp†tại Kho bạc Nhà nÆ°á»›c thà nh phố; -Thông tin tuyên truyá»n trên báo, Ä‘Ã i vá» thu phà bảo vệ môi trÆ°á»ng đối vá»›i nÆ°á»›c thải công nghiệp; -Phối hợp vá»›i má»™t số Ä‘Æ¡n vị tÆ° vấn môi trÆ°á»ng thẩm tra phà của 284 doanh nghiệp, táºp trung những doanh nghiệp phát sinh nhiá»u nÆ°á»›c thải; -Tổ chức sÆ¡ kết công tác thu phà bảo vệ môi trÆ°á»ng đối vá»›i nÆ°á»›c thải trên địa bà n thà nh phố năm 2004. Kết quả thu được (tÃnh đến hết tháng 06/2005) -Quy trình thá»±c hiện thu phÃ: Chi cục Bảo vệ môi trÆ°á»ng thống kê, láºp danh sách đối tượng chịu phÃ ïƒ doanh nghiệp kê khai -Chi cục Bảo vệ môi trÆ°á»ng thẩm định, ra thông báo ïƒ Doanh nghiệp đóng tiá»n tại Kho bạc. -Tổng số doanh nghiệp ná»™p phiếu kê khai là 1547 doanh nghiệp/6000 doanh nghiệp (đạt khoảng 25.8%), vá»›i tổng số tiá»n là 3,104,747,603 đồng. -Tổng số doanh nghiệp đã ra thông báo phà là 1318 doanh nghiệp/6000 doanh nghiệp (đạt 22%), vá»›i tổng số tiá»n là 3,064,414,836 đồng. -Tổng số doanh nghiệp đã ná»™p phà là 677 doanh nghiệp/1318 doanh nghiệp đã ra thông báo (đạt 51.36% số doanh nghiệp đã ra thông báo), vá»›i tổng số tiá»n là 2,185,579,659 đồng Hạn chế/ khó khănï¶ -Doanh nghiệp chÆ°a nháºn thức đầy đủ vá» vai trò của phà bảo vệ môi trÆ°á»ng. Do đó nhiá»u doanh nghiệp né tránh không chịu kê khai hoặc kê khai không đúng. Má»™t số doanh nghiệp lá»›n vẫn chÆ°a kê khai phà nhÆ° Công ty dệt Thà nh Công (Q.Tân Phú), Công ty TNHH PouYuen (Q.Bình Tân), Nhà máy thép Thủ Äức (Q. Thủ Äức), Công ty cổ phần giấy Xuân Äức (Q.9), Công ty liên doanh Mercedes Benz (Q.Gò Vấp)… -Chủ trÆ°Æ¡ng má»›i cùng vá»›i việc thiếu cán bá»™ quản lý thu phà môi trÆ°á»ng tại các quáºn – huyện nên gặp khó khăn trong việc thống kê và đôn đốc việc kê khai ná»™p phà của các doanh nghiệp. Má»™t số Phòng tà i nguyên và Môi trÆ°á»ng quáºn – huyện, HEPZA chÆ°a thá»±c sá»± quan tâm phối hợp trong việc thu phÃ, cán bá»™ chÆ°a nắm bắt hết công việc; -Chi cục Bảo vệ môi trÆ°á»ng chỉ có 5 cán bá»™ phụ trách thu phÃ, mà những công việc thÆ°á»ng xuyên phải thá»±c hiện nhiá»u, nên cÅ©ng không tránh khá»i những khó khăn; -Bá»™ Quốc phòng và Bá»™ Công an chÆ°a chuyển thông báo kết quả thẩm định phà của các cÆ¡ sở sản xuất, dịch vụ thuá»™c trách nhiệm quản lý trá»±c tiếp của Bá»™ đến Chi cục Bảo vệ môi trÆ°á»ng. Äến nay, chỉ có 1 doanh nghiệp thuá»™c Bá»™ Quốc phòng có thông báo thẩm định; -PhÆ°Æ¡ng pháp thá»±c hiện thu phà còn rÆ°á»m rà , tốn nhiá»u thá»i gian và tiá»n bạc nhÆ°ng thá»±c tế khó xác định chÃnh xác hai thông số là lÆ°u lượng và nồng Ä‘á»™. Việc lấy mẫu phân tÃch không mang tÃnh đại diện cho tất cả các công Ä‘oạn sản xuất và thá»i gian hoạt Ä‘á»™ng của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp luôn tìm cách né tránh, kê khai thấp hÆ¡n thá»±c tế gây khó khăn cho cÆ¡ quan quản lý thu phÃ.
|
|
|
Post by ntdoantrang on Sept 18, 2005 23:52:12 GMT -5
Trung Quốc là nước láng giềng có định hướng chính trị gần giống nước ta. Trung Quốc đã áp dụng công cụ thu phí ô nhiễm bao gồm phí nước thải, khí thải, cặn thải, tiếng ồn và các loại khác. Trong đó phí nước thải chiếm 70% tổng phí ô nhiễm thu được và đạt được những thành công nhất định. Để đối phó với vấn đề phát thải rất trầm trọng của mình, năm 1979 Trung Quốc thiết lập hệ thống các phí ô nhiễm và được thực thi ở hầu hết các quận, thành phố. Khoảng 300 nhà máy đã đóng phí phát thải và số tiền thu được là 119 tỷ nhân dân tệ. Theo quy định, tất cả các xí nghiệp hoặc bất cứ cơ sở nào có xả chất ô nhiễm vào môi trường nước đều phải trả phí nước thải. Phí nước thải được xác định trên số lượng, nồng độ và tính chất của các chất ô nhiễm trong nước thải. Đối với trường hợp các chất thải từ nguồn thải vượt quá tiêu chuẩn chất lượng môi trường cho phép thì các cơ sở vi phạm còn phải trả thêm phí nước thải bổ sung, đồng thời phải có trách nhiệm áp dụng biện pháp kiểm tra và xử lý ô nhiễm đến đạt chuẩn trong một thời hạn nhất định. Nguyên tắc xây dựng hệ thống phí ô nhiễm Để xây dựng hệ thống phí ô nhiễm nói chung, Trung Quốc đưa ra bốn nguyên tắc sau: v Phí cao hơn một chút so với chi phí vận hành thiết bị và khấu hao chi phí ban đầu; v Áp dụng mức lệ phí tính tương đương các trường hợp xả có cùng số lượng và tính chất; v Có thể quy định những phí bổ sung cho các trường hợp xả quá tiêu chuẩn; v Áp dụng mức phí cao hơn cho những chất gây ô nhiễm nghiêm trọng. Cách tính phí Tiền phí đối với một chất ô nhiễm nhất định nào đó do việc xả nước thải công nghiệp được tính bằng cách nhân mức phí của một đơn vị nồng độ ô nhiễm với nồng độ chất thải vượt quá tiêu chuẩn và tổng lượng nước thải. Sử dụng nguồn thu từ phí Trước đây nguồn phí thu được giành để trợ cấp hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của các nhà quản lý môi trường hoặc cho các dự án kiểm soát ô nhiễm tại địa phương. Khoảng 80% số phí thu được này đã được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động kiểm soát và ngăn ngừa ô nhiễm, chiếm khoảng 15% tổng số đầu tư cho các hoạt động này. Nhưng ngày nay, Trung Quốc có xu hướng sử dụng số tiền đó để cho vay. Phần lớn nguồn thu từ phí được gởi vào các qũy của địa phương để dành cho các doanh nghiệp có nhu cầu vay nhằm cải thiện môi trường, 20% còn lại dùng để chi cho các hoạt động quản lý, theo dõi, điều hành chương trình, đào tạo nhân lực và mua trang thiết bị. Các áp dụng thực hiện Để bảo đảm tính công bằng cho các cơ sở cũ không để trang bị các máy móc xử lý mới, nhà nước có quy định các loại phí riêng cho nhóm các cơ sở này. Bên cạnh đó cũng có loại phí thứ hai là loại phí áp dụng cho các cơ sở mới (xây dựng sau thời điểm Luật môi trường được thông qua vào năm 1979) và các cơ sở thừa tiêu chuẩn. Do chỉ phải đóng phí cho những khoản vượt quá tiêu chuẩn và các phí này còn quá thấp nên chưa đủ tạo nên những cơ chế khuyến khích đầy đủ về kinh tế để các doanh nghiệp tuân thủ giảm thiểu ô nhiễm đến mức thấp nhất như pháp luật yêu cầu. Bởi vậy, các nhà quản lý môi trường đã áp đặt mức phạt rất lớn, bao gồm cả phạt đóng cửa các nhà máy nếu vi phạm tiêu chuẩn trong thời gian dài và đã đưa ra quy định buộc các nhà máy lớn phải lắp đặt các công nghệ giảm thiểu ô nhiễm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nào không đáp ứng được các tiêu chuẩn nước thải sau 3 năm làm việc thì sau đó sẽ phải áp dụng mức phí tăng 5%. Cách cưỡng chế này làm cho các doanh nghiệp có hành động tích cực hơn trong việc giảm thiểu ô nhiễm. Kết quả Mặc dù hệ thống phí còn có những yếu kém nhất định nhưng đã chứng tỏ tiềm năng rất lớn trong việc chống ô nhiễm và giảm mức ô nhiễm. Các nghiên cứu cho thấy rằng nếu tăng phí ô nhiễm lên 1% sẽ giảm 0.8% mức ô nhiễm hữu cơ các nguồn nước từ các cơ sở công nghiệp. Tác động của việc giảm mức ô nhiễm này trong thời kỳ phát triển công nghiệp diễn ra rất nhanh và đáng chú ý. Trong khi sản lượng công nghiệp tăng gấp đôi thì ô nhiễm hữu cơ nguồn nước vẫn giữ không đổi và thậm chí giảm đi ở một số vùng. Vấn đề ô nhiễm đã ít nghiêm trọng hơn so với thời kỳ chưa áp dụng phí và các công cụ kinh tế khác. Cho đến nay do mức phí tăng nên các doanh nghiệp đã giảm ô nhiễm nhiều hơn so với dự đoán. Trong thời gian tới, Cục môi trường Trung Quốc xác định rằng điều chỉnh các phí ô nhiễm là nhiệm vụ rất quan trọng. Và những thành công đã đạt được này cần tiếp tục được phát huy.
|
|
|
Post by ntdoantrang on Sept 18, 2005 23:54:37 GMT -5
Đất nước Singapore vốn được mệnh danh là nước có môi trường xanh và sạch nhất thế giới. Bên cạnh các công cụ mệnh lệnh kiểm soát họ đã áp dụng các công cụ kinh tế để quản lý môi trường rất thành công. Kinh nghiệm của họ trong việc xây dựng mức phí ô nhiễm nước cũng cần được xem xét. Singapore thu lệ phí môi trường đối với nước thải công nghiệp ở tất cả các ngành công nghiệp phát sinh chất thải. Mức phí nước thải của họ bao gồm hai loại là phí thay đổi và phí cố định. Hai loại phí này đánh vào những cơ sở nào có nồng độ chất ô nhiễm vượt tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn đối với BOD là 400mg/l. Tiêu chuẩn đối với TSS cũng là 400mg/l. Phí thay đổi tính theo BOD và TSS Nước thải thải ra hệ thống cống công cộng được quy định là nếu BOD (hoặc TSS) nằm trong khoảng từ 401mg/l đến 1800mg/l thì đơn vị xả thải phải trả một khoản lệ phí lũy tiến tỉ lệ với nồng độ. Trường hợp BOD (hoặc TSS) >1800mg/l thì nước thải buộc phải được xử lý để đạt dưới mức tiêu chuẩn này tại nhà máy trước khi xả vào hệ thống công cộng. Phí cố định tính cho việc loại bỏ nước hữu cơ thải tại các điểm xử lý nước thải được chỉ định Bảng: Suất phí nước thải của Singapore Chất ô nhiễm 401 – 600mg/l 1601 – 1800mg/l BOD 0.08USD/m3 0.59USD/m3 TSS 0.07USD/m3 0.49USD/m3 Nguồn: Nguyễn Thế Chinh, 1999 Khi nồng độ BOD và TSS nằm từ 601 – 1799mg/l, cứ tăng 200mg/l thì phí sẽ tăng dần lên 1 cấp. Lệ phí cho bùn thải hữu cơ là 3.5USD.
|
|
|
Post by ntdoantrang on Sept 18, 2005 23:56:26 GMT -5
Với diện tích tổng cộng là 90000ha, hồ Laguna ở Philippines là hồ nước lục địa lớn thứ hai ở Đông Nam Á. Có 21 sông với hệ thống cống rãnh của các khu vực gồm Manila và các thành phố khác đổ vào hồ này. Theo cơ quan phát triển hồ Laguna (Laguna Lake Development Agency – LLDA) vào năm 1994 có 1481 nhà máy chiếm cỡ 20% diện tích đất đai của vùng này. Trong khi chỉ có rất ít nhà máy sử dụng nước hồ phục vụ việc làm lạnh thì hầu hết các nhà máy sử dụng hồ như là nơi chứa nước thải. Ô nhiễm công nghiệp chiếm khoảng 30% tổng ô nhiễm của hồ, trong khi đó 40% từ các hoạt động nông nghiệp và nước thải từ các hệ thống cống nước thải sinh hoạt chiếm 30% còn lại. Philippines duy trì hệ thống quản lý truyền thống trong một thời gian dài và có khoảng trên 60% các nhà máy địa phương ít nhất trên danh nghĩa đã có thực hiện kiểm soát ô nhiễm. Tuy nhiên các nhà máy gây ô nhiễm ít nghiêm chỉnh trong việc chấp hành do tỷ lệ tham tra thấp, cưỡng chế thực hiện pháp luật đòi hỏi nhiều thời gian, và các khoản tiền phạt sau thanh tra ở mức rất thấp. Thật vậy, chỉ có 8% các cơ sở gây ô nhiễm tuân thủ quy định. Để có cơ chế khuyến khích và giữ gìn hồ Laguna, LLDA đã ban hành “phí sử dụng môi trường” (environmental user fee) đối với ô nhiễm công nghiệp. Các nghiên cứu ban đầu đã xác định 5 ngành công nghiệp chính gây ô nhiễm hữu cơ nguồn nước là chế biến thực phẩm, các nông trại chăn nuôi lợn, các cơ sở giết mổ, các công ty sản xuất đồ uống nhẹ và các cơ sở dệt. Ban đầu, vào năm 1997, LLDA áp dụng các loại phí ô nhiễm – trong trường hợp này là EUF – cho một nhóm thử nghiệm gồm 21 nhà máy. Hệ thống phí này gồm 2 phần: một loại phí cố định được xác định theo khối lượng phát thải dự kiến dùng để trang trải các khoản chi phí quản lý hành chính cho LLDA và một phần phí thứ hai là định giá hai bậc theo phát thải. Loại phí này bao gồm một mức phí tính cho mỗi đơn vị phát thải đúng tiêu chuẩn cho phép như luật định và một mức phí cao hơn cho lượng phát thải vượt quá tiêu chuẩn. Sau hai năm thực hiện, LLDA đã thông báo rằng lượng phát thải BOD từ các nhà máy thuộc nhóm nghiên cứu thử nghiệm đã giảm 88%. Do các khoản phí ô nhiễm được nộp cho LLDA nên nguồn tài chính phục vụ cho các hoạt động quan trắc và cưỡng chế của cơ quan này cũng tăng lên đáng kể. Chính phủ Philippines đã có thông báo về việc thực hiện hệ thống phí EUF trên quy mô toàn quốc sau khi đã xem xét kết quả thử nghiệm trên.
|
|
|
Post by ntdoantrang on Sept 18, 2005 23:57:21 GMT -5
Colombia đã thất bại với các quản lý truyền thống bằng công cụ CAC. Trên thực tế, trong một thời gian dài tình trạng ô nhiễm nước và không khí đã không được kiểm tra. Với một nỗ lực lớn nhằm chấm dứt tình trạng đó, nước này đã áp dụng hệ thống phí ô nhiễm theo nguyên tắc của Baumol/Oates. Phân tích các chi phí để giảm ô nhiễm cho thấy mức phí 100USD/tấn thì lượng phát thải các chất hữu cơ của các ngành công nghiệp ra các hệ thống sông suối của Colombia sẽ giảm 80%. Tuy nhiên, chương trình này bắt đầu với mức phí chỉ có 28USD/tấn BOD và 12USD/tấn TSS. Các mức phí này được xem là đủ cao để kìm hãm phát thải nhưng cũng không quá đắt đến mức các ngành công nghiệp phải chống đối. Chương trình này sẽ mở rộng để áp dụng phí cho các chất gây ô nhiễm khác nữa. Bảy vùng ở Colombia có dân số đông nhất, hoạt động kinh tế mạnh nhất và gây ô nhiễm nghiêm trọng nhất là các vùng đầu tiên thực thi hệ thống phí ô nhiễm. Mỗi vùng bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm cho mình, áp dụng hệ thống phí cơ sở của quốc gia và theo dõi tổng lượng phát thải trong 6 tháng. Nếu không đạt được các mục tiêu đã đặt ra thì các cơ quan có thẩm quyền địa phương có thể tăng mức phí để áp dụng cho 6 tháng tiếp và quá trình này sẽ được tiếp tục cho đến khi đạt được các mục tiêu của địa phương. Theo cách này, các mức phí sẽ được giữ ở mức ổn định dù đã được điều chỉnh theo mức lạm phát. Cơ quan đi tiên phong trong chương trình mới này là CORNARE – cơ quan kiểm soát ô nhiễm vùng Oriente Antioqueno. Các vị lãnh đạo năng động của CORNARE đã tạo dựng được mối quan hệ cộng tác tốt với các doanh nghiệp và cộng đồng địa phương. Ví dụ trước khi bắt đầu chương trình này, CORNARE đã cộng tác rất chặt chẽ với một số nhà máy lớn để xây dựng các kế hoạch sản xuất sạch hơn. Cơ quan này cũng đã thu thập các thông tin có chất lượng về tình trạng ô nhiễm nước của địa phương và do đó có thể xác định được nguồn phát thải chính đổ ra sông Rio Nergo và các con sông khác. Công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm chính, sau đó là các hệ thống cống thải từ các thành phố nhỏ. Sau khi tham vấn với những người quản lý nhà máy và các cộng đồng, CORNARE đã đề ra mục tiêu giảm 50% chất thải hữu cơ (BOD). Mặc dù lãnh đạo các ngành công nghiệp cam đoan rằng để đạt được mục tiêu như vậy chắc chắn sẽ tốn kém, nhưng cuối cùng lượng thải BOD đã giảm 52% và TSS đã giảm 16% trong 6 tháng đầu thực hiện kế hoạch. Tuy vậy phản ứng của các nhà máy khác nhau trong số 55 nhà máy được quản lý ở Rio Nergo thì có 7 nhà máy giảm lượng phát thải BOD và 8 nhà máy giảm lượng phát thải TSS. Hiển nhiên là các nhà máy có phản ứng tốt có phản ứng tốt đã giảm mức ô nhiễm lớn hơn mức trung bình rất nhiều. Công tác quản lý phí ô nhiễm của CORNARE được Ngân hàng thế giới đánh giá là rất có hiệu quả. Các cơ sở công nghiệp và chính quyền địa phương đã hiểu được vấn đề. Câu hỏi đặt ra là tại sao lại có ít nhà máy thực hiện như vậy? Có thể là đối với nhiều nhà máy thì chi phí giảm thải biên MAC vẫn cao hơn mức phí hoặc đơn giản là các nhà quản lý nhà máy chưa đủ thời gian để điều chỉnh các phương th7ức kiểm soát ô nhiễm. Giám đốc của CORNARE cũng đã nhận xét rằng một số nhà máy giảm ô nhiễm ngay sau khi hệ thống phí ô nhiễm được áp dụng và đã lựa chọn công nghệ sản xuất sạch hơn. Nhìn chung kinh nghiệm của Colombia còn rất mới nhưng cũng đã khẳng định thêm quan điểm cho rằng có thể áp dụng tốt hệ thống
|
|
|
Post by ntdoantrang on Sept 18, 2005 23:58:09 GMT -5
Chính sách thu phí nước thải ở đất nước của cối xay gió và hoa luylip này cũng đã được áp dụng đạt hiệu quả cao, có tác dụng trong việc thúc đẩy và khuyến khích các cơ sở sản xuất công nghiệp giảm thiểu lượng chất thải ô nhiễm của họ, đặc biệt là trong ngành hóa chất và công nghiệp thực phẩm. Theo thống kê của Hà Lan, lượng chất thải ô nhiễm nước đã giảm 50% trong thời gian từ năm 1969 đến 1975, và giảm thêm 20% nữa tính đến 1980. Các nhà nghiên cứu cho rằng trong thời kỳ 1969 – 1980, 50% - 70% lượng giảm ô nhiễm nước này trong 14 lĩnh vực công nghiệp có thể coi là thành công của việc áp dụng chính sách thu phí nước thải. Có lẽ vì vậy mà Hà Lan được nhận định là nước có kinh nghiệm thành công nhất trong số các nước OECD về sử dụng công cụ phí ô nhiễm nước. Ở Hà Lan, các ngành công nghiệp phải trả tiền để phát thải kim loại nặng và tất cả các thành phần khác trong xã hội cũng được định giá cho mức phát thải các chất hữu cơ. Các hộ gia đình ở vùng đô thị là 3PE (population equivalents: là mức ô nhiễm hữu cơ trung bình gây ra bởi một người trung bình trong hộ gia đình thông thường), các hộ nông dân là 6PE, các xí nghiệp là 3PE. Phí cho các xí nghiệp vừa sẽ ước tính theo mô hình toán còn đối với các xí nghiệp lớn sẽ đo trực tiếp giá trị PE. Các cơ quan có thẩm quyền quy định các mức giảm cho các xí nghiệp vừa và nhỏ nếu các xí nghiệp này chứng minh được rằng lượng phát thải thực sự của họ thấp hơn các ước tính chính thức. Hệ thống phí ô nhiễm của Hà Lan ban đầu hoạt động như một phương thức CAC. Theo đó các phí ô nhiễm được dùng thuần túy để xây dựng các cơ sở xử lý chất thải do luật quy định. Tuy nhiên giảm ô nhiễm cần xây dựng các cơ sở xử lý với chi phí cao tại một số vùng, do đó các phí ô nhiễm cũng phải tăng theo. Về mặt nào đó, nhiều nhà quản lý nhà máy tự thấy rằng họ phải trả phí bằng với mức chi phí biên giảm ô nhiễm MCA rất cao. Một phân tích thống kê chính tiết do Bressers (1988) thực hiện đã cho thấy rằng các mức phí cao này còn quan trọng hơn rất nhiều so với quá trình cấp phép trong việc thúc đẩy giảm phát thải.
|
|
|
Post by Maika on Jul 18, 2006 15:16:19 GMT -5
hehe, Trang õi , tụi này kém kiến thức về luật lắm, ðặc biệt ngành mình quan tâm lại càng kém. Trang có thể nêu 1 bài tổng hợp và so sánh về các loại phí môi trýờng, hoặc các công cụ chế tài hiện nay ở VN cho bọn mình hiểu thêm ðc ko ? Cám õn nhiều lắm
|
|